- Phần Giới Thiệu
- Tiểu Sử Pháp Sư Cưu Ma La Thập
- 01. Phẩm Phật Quốc
- 02. Phẩm Phương Tiện
- 03. Phẩm Đệ Tử: Hàng Thanh Văn
- 04. Phẩm Bồ-Tát
- 05. Phẩm Văn Thù Sư Lợi
- 06. Phẩm Bất Tư Nghì
- 07. Phẩm Quán Chúng Sinh
- 08. Phẩm Phật Đạo
- 09. Phẩm nhập “Pháp Môn Không Hai”
- 10. Phẩm Phật Hương Tích
- 11. Phẩm Hạnh Bồ-tát
- 12. Phẩm Thấy Phật A Súc
- 13. Phẩm Pháp Cúng Dường
- 14. Phẩm Chúc Lụy
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn
Vấn Đề Thuyết Pháp.
Trong số đại đệ tử của Phật, tôn giả Mục Kiền Liên nổi danh là đệ nhất thần thông. Sau khi ngài Xá Lợi Phất từ chối không dám đi, Đức Phật liền gọi tôn giả Mục Kiền Liên và bảo rằng:
- Mục Kiền Liên! Ông hảy đến thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
Ngài Mục Kiền Liên liền thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông ấy. Trước đây có lần con đi vào thành Tỳ Xá Ly. Trong một thôn xóm nọ, con vì một nhóm cư sĩ nói pháp cho họ nghe. Bấy giờ, trưởng giả Duy Ma Cật đến nói với con rằng:
- Thưa ngài Mục Kiền Liên! Vì hàng bạch cư sĩ nói pháp Ngài không nên nói những pháp như vậy. Vả chăng nói pháp phải đúng như pháp mà nói. Bởi vì pháp không có tướng chúng sinh, xa lìa sự cấu nhiễm về chúng sinh. Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu. Pháp không có tướng thọ mệnh, xa lìa sanh tử ưu bi. Pháp không có tướng nhơn, vì thời gian trước và thời gian sau không phải một. Pháp thường vắng lặng vì dứt bặt các tướng. Pháp ly tất cả tướng vì nó không phải đối tượng sở duyên. Pháp không có tên, không có lời để gọi vì ngoài sự nghĩ ngợi nói năng. Pháp không có gì để nói vì nó ly các giác quán. Pháp không hình tướng vì nó như hư không. Pháp không như trò giởn vì nó hoàn toàn rỗng lặng. Pháp không phải là ngã sở vì nó rời ngoài ngã sở. Pháp không thể phân biệt vì nó vượt ngoài sự nhận thức đánh giá. Pháp không có thể so sánh vì nó không ở trong vòng đối đãi. Pháp không lệ thuộc vào nhân vì pháp tồn tại ở duyên. Pháp hòa đồng pháp tánh vì nó dung nạp với pháp tánh. Pháp tùy thuận với pháp “NHƯ” vì nó không chỗ tùy. Pháp trụ nơi thật tế vì pháp bất đồng với bên hữu bên vô, bên đoạn bên thường. Pháp không có giao động vì nó không tương can với lục trần. Pháp không có đến đi vì pháp vốn là bất trụ. Pháp thuận với không, tùy vô tướng, hợp với vô tác. Pháp rời tốt xấu. Pháp không tăng nhiều, không giảm thiểu. Pháp không có chỗ qui thú, nó vượt qua nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm. Pháp không có cao thấp, pháp thường trú bất động. Pháp xa lìa tất cả sự nghĩ ngợi và thi thố.
Hằng ngày ngài Mục Kiền Liên vào thành khất thực và sau đó thuyết pháp cho Phật tử tại gia nghe để họ thấu biết thêm về giáo lý Đức Phật. Những gì ngài Mục Kiền Liên nói là dựa theo lời Phật thuyết pháp thế mà cư sĩ Duy Ma cật bảo là không nên nói như vậy. Không lẻ ông Mục Kiền Liên nói sai? Pháp của Phật giáo có nhiều loại: Đó là pháp tánh và pháp tướng, pháp liễu nghĩa và pháp bất liễu nghĩa, pháp tiểu thừa và pháp đại thừa. Chẳng hạn như khi nói về tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên…là nói về pháp tướng tức là pháp có sinh có diệt. Còn pháp tánh là nói về chân không, bản thể tuyệt đối, không hình tướng bởi vì nó là pháp ở trong tâm. Mà cái không hình, không sắc thì làm sao diễn tả được nên nó phải lìa văn tự, ly ngôn thuyết và ly tâm duyên mà Bồ-tát gọi pháp tánh nầy là NHƯ.
Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tánh như nhau do đó nếu muốn chúng sinh nghe pháp và thấu hiểu mà thực hành được viên mãn thì phải nói pháp cho đúng với chân lý, hợp với Phật tánh tức là NHƯ. Như có nghĩa là tự nó sao cứ để vậy, đừng để tâm phân biệt so sánh, thêm bớt vì nó đã lìa tất cả văn tự, ngôn ngữ…cho nên khi nói pháp thì phải nói với tâm vô phân biệt, vô quái ngại tức là nói pháp vì lợi ích cho chúng sinh chớ không phải vì danh văn lợi dưỡng cho mình. Khi nói về pháp tướng thì có bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh và thọ giả mà pháp tánh là Bản thể tuyệt đối thì làm gì còn có ta, có người, có chúng sinh hay có thọ giả và dĩ nhiên làm gì còn sinh tử luân hồi.
Thưa ngài Mục Kiền Liên! Pháp như thế thì làm sao mà có thể nói được? Luận đến chỗ cứu cánh của vấn đề thuyết pháp thì người nói không nói gì hết, không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không được có một sở đắc nào. Ví như nhà ảo thuật làm ra người ảo, người ảo lại nói chuyện ảo. Phải xác lập ý thức kiên định như thế rồi mới nên thuyết pháp.
Tuy ông Mục Kiền Liên lập lại lời của Phật để thuyết pháp giúp chúng sinh được thức tỉnh nhưng đây chỉ là phương tiện tương đối để đi đến Chân lý mà thuyết pháp tự nó không phải là Chân lý tuyệt đối. Bởi vì Chân Lý thì không thay đổi, biến thiên theo thời gian và không gian. Lúc nào cũng vậy và ở đâu cũng thế. Pháp mà ông Duy Ma Cật muốn nói ở đây chính là Pháp tánh và đó mới là Chân lý tuyệt đối, là Phật tri kiến, là Bản lai diện mục, là Bản Thể Chân Như…Chính cái pháp tánh nầy không hình, không tướng thì làm sao có thể diễn tả bằng lời nói, ngôn ngữ cho nên những gì mà ông Mục Kiền Liên có thể nói được thì chỉ là pháp tướng mà thôi. Pháp mà có thể nói được thì phải có đối đãi, so sánh mà so sánh, đối đãi là tướng chớ không phải tánh. Tất cả những kinh điển, giáo lý cũng chỉ là pháp tướng có nghĩa là phương tiện, là ngón tay mà đừng quên cứu cánh vẫn là ánh sáng chân lý, là mặt trăng, là pháp tánh vậy. Cùng ý nghĩa nầy trong kinh Kim Cang có câu:”Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như Lai” có nghĩa là cái gì mà có hình tướng là giả huyễn, là không thật, là sinh diệt; còn nếu thấy được cái Tướng Không của mọi sự vật thì sẽ thấy được Chân lý.
Nếu đứng về phương diện Bản Thể Chân Như thì Chân Lý không thể nào diễn bày được cho nên nói mà không nói, nghe mà không nghe và chứng đắc mà không chứng đắc. Một ngày nọ tôn giả Tu Bồ Đề đang ngồi thiền trong hang núi Linh Thứu, có vị trời Đế Thích đến rãi hoa cúng dường. Tôn giả nói:
- Vì lẽ gì ông đến đây rãi hoa?
- Vì tôn giả nói kinh Bát Nhã hay quá nên con đến cúng dường.
- Từ hồi nào đến giờ tôi chưa từng nói một câu, sao ông lại nói tôi thuyết Bát nhã?
- Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nói, không nghe mới là Bát Nhã chân chính.
Lại có một lần nọ Bồ-tát Văn Thù thỉnh Phật một lần chuyển pháp luân nữa thì Đức Phật bảo rằng:
- Trong thời gian bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một chữ nào, sao ông lại thỉnh ta chuyển pháp luân một lần nữa? Hóa ra trước đây ta đã từng chuyển pháp luân rồi sao?
Nói mà không nói mới là chân Bát nhã.
Mặc dù cứu cánh là Chân Lý, là Bản Thể Chân Như nhưng con người cần phải dùng phương tiện là pháp tướng tức là có người nói và có kẻ nghe thì Chánh pháp mới có thể lưu truyền được. Bởi vì nếu khéo dùng phương tiện thì đạt tới cứu cánh viên mãn. Do đó nói pháp bây giờ cũng như người huyễn thuyết pháp cho người huyễn nghe. Người nói là huyễn mà người nghe cũng là huyễn. Tuy biết là huyễn mà vẫn dùng huyễn làm phương tiện để đi tới Chân Lý. Tuy Bồ-tát biết tất cả mọi pháp thế gian là huyễn, nhưng họ vẫn thuyết, vẫn dùng cái huyễn như là nền móng để dẫn dắt chúng sinh thấy cái chân thật. Toàn bộ giáo lý của Đức Phật là giúp chúng sinh thấy được tà để quay về với chánh, thấy huyễn để tìm về với chân tức là hướng dẫn chúng sinh lìa tướng mà chứng nhập pháp tánh. Cũng như những làn sóng nhấp nhô của đại dương, sóng biển là Tướng và Thể nước yên tịnh tận dưới lòng đại dương. Do đó muốn thấy được Thể thì con người phải biết Tướng vì Thể và Tướng cũng đều do nước mà ra, bất khả phân ly.
Thêm nữa, thưa ngài Mục Kiền Liên! Người thuyết pháp phải biết căn tánh chúng sinh. Trước một hay nhiều đối tượng phải đọc thấy rõ ràng căn tánh của họ lợi hay độn,
Căn cơ của chúng sinh thì có cao có thấp, sâu cạn khác nhau vì thế căn nhà giác ngộ mới có tám vạn bốn ngàn cánh cửa để vào. Cũng như có ba con thú sang sông. Con sông là Phật pháp không cạn không sâu. Con dê nhỏ thì lội ngập đầu cũng ví như người chưa biết đạo. Con nai lớn hơn thì lội ngập cổ ví như người chỉ biết pháp hữu vi sanh diệt. Còn con voi thì chỉ ngập ống chân ví như người đã thấu hiểu lý Không, Bát nhã. Ngày xưa chính Đức Phật phải đợi đến hai mươi năm mới đem diệu lý Bát nhã mà thuyết cho đệ tử và cũng cần đến hai mươi hai năm mới thuyết xong Chân lý nầy. Khi xuống núi Linh Thứu vào thành Vương Xá thì Đức Phật thuyết cho Phật tử tại gia. Ngài dạy họ đời là khổ não, cần phải tu tâm dưỡng tánh mà không cần lìa bỏ gia đình, quyến thuộc, thực hành Bồ-tát đạo và phát tâm cầu vô thượng Bồ-đề, sống với lòng vị tha vô ngã để tâm được thanh tịnh thì cũng chứng được vô sanh pháp nhẫn tức là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Khi về lại núi Linh Thứu thì Ngài thuyết cho hàng xuất gia để loại bỏ Tham-Sân-Si, ái dục mà chứng đắc Niết bàn. Nên nhớ pháp chỉ là phương tiện, là chiếc bè nên khi đến được bờ bên kia thì phải bỏ bè mà lên bờ giác ngộ. Do đó khi thuyết pháp thì phải biết đối tượng, phải hợp với căn cơ thì chúng sinh mới thấu hiểu những bài pháp thoại và đó là yếu tố không thể thiếu của một vị pháp sư. Chúng sinh có Tri mới có Hành và nếu họ thực hành rốt ráo thì tâm mới khai mở và sau cùng trí tuệ sẽ phát sanh.
Người thuyết pháp phải lấy tâm đại bi mà khen ngợi đại thừa.
Tâm đại bi là biết thương xót chúng sinh cho nên phát tâm đại thừa muốn cứu giúp tất cả chúng sinh thoát ra khỏi biển trầm luân đau khổ để hoàn thành Phật đạo viên mãn chớ không ích kỷ mong cầu giải thoát cho riêng mình.
Phải nghĩ rằng thuyết pháp là truyền bá, duy trì cho ngôi Tam Bảo cửu trụ thế gian.
Thuyết pháp nhằm để báo đáp thâm ân Phật. Phải lập chí như vậy, rồi sau mới thuyết pháp.
Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Vì thế Phật tri ân mà không bao giờ cầu báo đáp. Nhưng người Phật tử có bổn phận phải báo đền ơn đức nầy. Nhưng làm thế nào để báo ơn Phật? Xây chùa to, tạc tượng lớn, in kinh, cúng kiến…chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiết thực. Chỉ có một phương pháp đứng đắn và hiệu quả nhất là người Phật tử nghe theo lời Phật dạy, y giáo phụng hành và tinh tấn nổ lực tu hành để khai mở trí tuệ mà được giải thoát giác ngộ. Tự độ cho mình cũng chưa đủ mà còn phải còn phải độ tha là cứu giúp mọi người cùng đến chỗ giác ngộ thì cũng như cúng dường cho chư Phật rồi vậy. Y pháp bất y nhân trong tứ y pháp của kinh Đại Niết Bàn cũng xác định là sau khi Phật nhập diệt thì phải lấy pháp làm Phật và giới làm thầy. Do đó thuyết pháp là cố để trả ơn Phật vì Phật đã chỉ cho ta con đường khai mở trí tuệ chớ thuyết pháp không phải là phương tiện để khoe mình thông kinh liễu nghĩa.
Ngôi Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng.
Nếu đứng về mặt pháp tướng mà nói thì Phật chính là Đức Thích Ca Mâu Ni. Pháp là những kinh điển ghi lại những lời Phật dạy để giúp chúng sinh viên thành Phật đạo. Và Tăng là những đệ tử xuất gia giữ gìn đầy đủ giới luật, tuân theo Lục Hòa và đại diện cho Phật để dẫn dắt chúng sinh tu học. Nếu tăng sĩ mà phá giới và không sống theo Lục hòa tức là chia rẽ, chạy theo danh văn lợi dưỡng, lập bè kết đảng thì đâu còn xứng đáng là tăng? Nhiều người ngày nay vẫn còn lầm tưởng rằng có nhiều chùa, có nhiều tăng sĩ là Phật giáo hưng thịnh. Thật ra trong chiều dài lịch sử của Phật giáo đã chứng minh rằng Phật giáo chỉ hưng thịnh khi nào có những vị cao tăng đắc đạo làm gương sáng cho mọi người noi theo mà tu đạo. Phẩm chất tốt lúc nào cũng cao quý hơn số lượng nhiều là vậy. Thêm nữa, lịch sử nhân loại trên mấy ngàn năm đã chứng minh hùng hồn rằng triều đại nầy tan, triều đại khác đến nhưng Chân lý của Đức Phật thì trường tồn bất biến. Do đó nếu con người chạy theo thời thế là chạy theo sinh diệt còn sống với Chân lý là tìm về với giải thoát, an vui và tự tại.
Còn nếu đứng về pháp tánh mà nói thì Phật là Chánh giác, là đấng Giác ngộ và Phật là trí tuệ. Pháp là cái trí để giúp con người thấy được chánh tri chánh kiến. Sau cùng Tăng chính là sự thanh tịnh, không bị ô nhiễm. Vì thế khi nói đừng để ngôi Tam Bảo bị hủy diệt cũng có hai ý nghĩa.
1)Nếu hiểu theo nghĩa cạn thì đừng cho chùa chiền, kinh điển và chư tăng biến mất ở trong thế gian nầy.
2)Nhưng nếu hiểu theo nghĩa sâu thì đừng để cho sự giải thoát giác ngộ, cái trí tuệ để biết chánh tri chánh kiến và sự thanh tịnh không ô nhiễm biến mất trong tâm của chúng ta.
Một khi con người phá được màn vô minh hắc ám và quay về sống với tự tánh thanh tịnh để được giải thoát giác ngộ thì đây là một tấm gương sáng cho chúng sinh noi theo và dĩ nhiên ánh đạo vàng sẽ luôn bừng sáng trong tâm khảm của tất cả mọi người. Có được như thế thì ngọn đèn tâm của chúng sinh hòa nhập với ngọn đèn Phật để cùng đem ánh sáng Chân Lý lưu truyền khắp năm châu bốn bể và mãi mãi vô cùng vô tận về sau.
Sau cùng trưởng giả Duy Ma Cật đã khẳng định với tôn giả Mục Kiền Liên rằng có thực hiện đầy đủ những điều ở trên thì mới đúng với Pháp, đúng với Chân lý vì một khi còn có kẻ nói, người nghe là còn kẹt trong pháp tướng sinh diệt mà phải đi thẳng tới pháp tánh thanh tịnh bản nhiên rốt ráo. Đó là không có người nói mà cũng chẳng có người nghe thì đây mới thật là chân thuyết pháp.
Sau khi ông Duy Ma Cật nói thời pháp đó, có tám trăm cư sĩ phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Con không được biện tài như thế, cho nên con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.
Chủ trương của kinh Duy Ma Cật là nhắm vào hàng Phật tử tại gia để khuyến khích họ phát Bồ-đề tâm và đi theo Bồ-tát đạo. Trọng tâm của kinh nầy vẫn là chuyễn tâm thì cảnh sẽ chuyển theo. Do đó chúng sinh tu ở đâu cũng được. Tu nhà, tu chợ, tu trong sở làm, tu trong siêu thị…hay bất cứ nơi nào cũng là đạo tràng thanh tịnh cả. Khi hàng Phật tử tại gia thấy ông Duy Ma Cật có biện tài vô ngại làm cho hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không đối đáp được nên có 800 cư sĩ hoan hỷ tu theo ông Duy Ma Cật và phát tâm cầu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.