Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tôn giả Tu Bồ Đề

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9037)
Tôn giả Tu Bồ Đề

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


 Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhoti): 
Trở Lại Vấn Đề Khất Thực.

Trong số những đại đệ tử của Phật chỉ có tôn giả Tu Bồ Đề được tôn xưng là đệ nhất giải không có nghĩa là trong hàng Thanh văn tôn giả là người duy nhất thấu hiểu Lý Không của Bát Nhã. Do sự thưa thỉnh của tôn giả mà Phật nói Kinh Kim Cangtịnh xá Kỳ Viên. Vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh nên tôn giả thỉnh Phật nói về ba nội dung. Đó là làm thế nào để phát Bồ-đề tâm, làm thế nào để hàng phục vọng tâm và làm thế nào để an trụ chơn tâm. Cũng trong kinh nầy Đức Phật gọi ông mà giảng luận ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của Lý Không tức là của đại trí tuệ Ma Ha Bát Nhã mà rất ít người có thể hiểu nổi.

Đức Phật gọi tôn giả Tu Bồ Đề mà bảo rằng:

- Hiện giờ trưởng giả Duy Ma Cật đang bị bệnh. Tu Bồ Đề! Ông hãy đi thăm bệnh ông ấy.

Tu Bồ Đề thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Bởi vì trước đây, có lần đi khất thực con ghé nơi nhà Ông, lúc bấy giờ Ông lấy bình bát của con sớt đầy một bát cơm và nói với con rằng:

- Thưa ngài Tu Bồ Đề! người khất thực ở nơi vật thực có tâm bình đẳng, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng. Ngược lại, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng, ở nơi vật thực cũng có tâm bình đẳng. Khất thực được như thế, người khất thực mới xứng đáng nhận lấy vật thực của người thí chủ cúng dường.

Khác với tôn giả Đại Ca Diếp là chỉ khất thực nhà nghèo, tôn giả Tu Bồ Đề chỉ đến nhà giàu để khất thực. Tôn giả nghĩ rằng nhà giàu dù có bố thí chút ít thức ăn cũng chẳng hao tốn bao nhiêu còn đối với người nghèo tuy họ lòng có dư mà sức không đủ. Về sau Đức Phật biết được nên quở trách hai vị là cả hai không áp dụng đúng tinh thần bình đẳng của Phật giáo vì tâm còn chấp tướng, còn phân biệt giàu nghèo mà phải thực hành pháp khất thực một cách đứng đắng là không chọn lựa giàu nghèo, không chê dơ sạch và oai nghi nghiêm túc thứ tự mà hành khất ngỏ hầu hóa độ chúng sinh. Vì thế bỏ nhà giàu tìm nhà nghèo là sai mà bỏ nhà nghèo để tìm nhà giàu lại càng không đúng vì còn thiên vị bên nầy bên kia tức là chưa đạt được tâm bình đẳng của Bồ-tát và của chư Phật. Bỏ phân biệtđi vào con đường Trung đạo, là noi theo dấu chân của Phật mà tiến về giải thoát giác ngộ.

Pháp hiểu theo nghĩa thông thường là kinh sách và các pháp môn để tu hành. Kinh sách và những pháp môn tu hành là những phương tiện cần thiết để giúp chúng sinh đạt được cứu cánh thì chúng là bình đẳng. Tại sao? Phật pháp thì không cao không thấp, không cạn không sâu nhưng vì căn cơ của chúng sinh có sai khác nên mới có nhiều pháp môn nhưng tất cả cũng nhằm vào một cứu cánh duy nhấtgiải thoát giác ngộ. Cũng như chúng sinh có nhiều thứ bệnh thì Phật cho nhiều thứ thuốc khác nhau nhưng tựu trung là làm cho chúng sinh được khỏe mạnh. Thuốc tuy có nhiều loại nhưng cùng hướng về một mục đích nên chúng bình đẳng. Kinh điển, pháp tu tuy có nhiều nhưng tất cả chỉ là những phương tiện để đưa con người đến chỗ giác ngộ thì pháp là bình đẳng. Còn nếu nới rộng thì pháp là tất cả mọi vật, mọi sự trên thế giansiêu thế gian cho nên chúng cũng đều bình đẳng vì tất cả phải bị chi phối bởi luật vô thường và lý vô ngã. Không có một vật gì trên thế gian mà tự nó có thể sinh tồn nếu không có sự trợ giúp của những nhân duyên khác vì thế tất cả vật thể là vô ngã. Vì là vô ngã nên tất cả sự vật phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường. Đó là hễ có sinh tất có diệt. Nói một cách khác tất cả các pháp đều là huyễn hóa, không có tự tánh, là vô ngã tức là Không. Nói về Tướng thì có muôn sai vạn biệt nhưng Thể Tánh thì chỉ có một cho nên chúng là bình đẳng. Thức ăn thì cũng thế: nào là chua, cay, mặn, ngọt; nào là chiên, xào, luộc, nướng. Mỗi quốc gia có hàng trăm món ăn khác nhau nhưng tựu trung tất cả thức ăn cùng quy về một Thểbồi dưỡng, nuôi sống xác thân mà thôi. Do đó vật thực là bình đẳng. Vì là phàm nhân nên con người có sự phân biệt. Chẳng hạn như khi có món ăn đưa tới con người không những chỉ ăn cái miệng mà năm căn còn lại cũng ăn cho nên sự phân biệt chạy tới chạy lui và vọng thức cũng vì thế mà sinh khởi dữ dội. Thí dụ như có người bưng đến một đỉa rau xào. Mắt nhìn để phân biệt đỉa rau là xào hay luộc, có hấp dẫn hay không tức là mắt ăn trước. Rồi đến mũi ngửi hương vị có thơm ngon không. Sau đó tay mới gắp để đưa vào miệng mà tay là hành động của thân. Miệng bắt đầu nhai và tai nghe âm thanh khác nhau để phân biệt cứng hay mềm. Trong khi nhai thì lưỡi cho biết là món ăn ngon hay dở và sau cùng tất cả những sự phân biệt của năm căn được chuyển về thức. Nếu là món ngon thì thức sẽ phát sinh ý niệm tham muốn ăn nữa. Còn món ăn dở thì thức sẽ phát sinh ý niệm chán ghét, đánh đổ nó đi. Vì còn sự phân biệt, chạy theo tham cầu dục vọng, tâm chất đầy vọng tưởng nên con người không an và còn đau khổ. Ngược lại, người tu hành đi khất thực ai cúng dường gì thì nhận lấy, khi đầy bát thì trộn lẫn thức ăn với nhau thành một món duy nhất để không còn phân biệt mùi vị, không còn phân biệt món nào của ai cho rồi mới ăn. Đó là tinh thần bình đẳng vô phân biệt.

tôn giả Tu Bồ Đề là người thông hiểu lý Không cho nên trưởng giả Duy Ma Cật muốn đem tất cả vạn pháp trong vũ trụso sánh với những thức ăn trong bình bát của tôn giả để chứng minh rằng tất cả đều là huyễn hóa, là giả, là không thật vì chúng không có tự tánh, là vô ngã tức là Không. Tuy bề ngoài hình tướngsai biệt nhưng tất cả đều cùng một Pháp tánh bình đẳng, không sai không khác. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn chỉ cho ông Tu Bồ Đề thấy sự huyền diệu về chữ Không. Đối với hàng Thanh văn thì Không có nghĩa là cái không đối với cái có trong thế giới hữu hình nầy. Còn đối với Bồ-tát thì Không có nghĩa là giả huyễn, không thật Có. Không tức là Thể Tánh Chân Không Diệu Hữu, là cội nguồn để sinh ra tất cả nhân sinh vũ trụ, là “Bất Biến mà Tùy Duyên” có nghĩa là từ cái Bản Thể Chân Như mà sinh ra muôn sinh vạn vật.

Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp:

Thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần đoạn trừ dâm nộ si, mà cũng không tùy thuận với dâm nộ si. Không cần hủy hoại thân nầy mà vẫn tùy thuận tướng nhất (Nhất chân pháp giới), không cần diệt si ái mà cũng có giải thoát. Ngay nơi tướng ngũ nghịchđược giải thoát. Không mở cũng không cột, không học hạnh Tứ diệu đế, không phải không học hạnh Tứ diệu đế. Không quả đắc, không phải không đắc quả. Không phải phàm phu, không phải xa rời pháp phàm phu. Không phải Thánh nhân, không phải không Thánh nhân. Dù thành tựu tất cả pháp mà rời ngoài cái tướng của tất cả pháp.

Được vậy, mới nên nhận lấy vật thực của người cúng dường.

Vì ông Tu Bồ ĐềA La Hán nên còn chấp có bên nầy bên kia. Muốn thiện thì phải diệt ác, muốn đạt Thánh quả thì phải tu theo Tứ diệu đế…Cái Không đối với ông là cái Không tương đối của thế gian pháp tức là cái không đối với cái có. Bây giờ ông Duy Ma Cật mới mở rộng tầm mắt cho ông ta thấy cái Không tuyệt đối, không cùng không tận, là cội nguồn của tất cả. Vì tất cả đều là huyễn hóa nên tất cả các pháp đều không thật Có. Nếu áp dụng nguyên lý nhất như (Nhất chân pháp giới) thì trong phiền não tức là Tham-Sân-Si mà vẫn có Bồ-đề, trong tướng ngũ nghịch mà vẫn được giải thoát. Khi không còn thấy có bên nầy bên kia tức là không còn có biên giới của nhị nguyên vì tất cả vốn không hai tức là bất nhị thì con người sẽ tìm giải thoát trong Tham-Sân-Si, loại phiền não để thấy được Bồ-đề. Một khi con người đã được tâm thanh tịnh thì Tham-Sân-Si, tướng ngũ nghịch, không mở, không cột…đều là giả huyễn, là không thật thì có gì phải sợ. Mà nếu không sợ thì cần gì phải trừ bỏ cho phiền lòng. Chẳng những không sợ mà con người có thể chuyển chúng thành thiện, chuyển phiền não thành Bồ-đề thì đây chính là con đường lợi tha của Bồ-tát vậy.

Ngày xưa ngài Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn tuổi tìm tới gặp Tổ Tăng Xán mà thưa rằng:

- Bạch Hòa thượng! Xin Hòa thượng dạy cho con pháp môn giải thoát.

Tổ Tăng Xán bảo:

- Ai trói buộc ngươi?

- Không ai trói buộc con cả.

Tổ bảo:

- Không trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn cũng có câu:”Khi mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ”. Do đó khi mê thì thấy mình còn bị trói buộc, lúc thức tỉnh thì thấy tự tại giải thoát, đâu có ai buộc mà phải cởi trói.

Một khi con người có sự sáng suốt triệt để từ nội tâm thì họ sẽ không thấy có pháp Tứ diệu đế để tu và cũng không có qủa vị để chứng đắcTứ diệu đế hay quả vị cũng chỉ là giả danh, không có chi là thật cả. Vì thế mà Tâm Kinh mới có câu: Thị cố không trung, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo” là vậy. Con người thường hay lầm lẫn là cần pháp Tứ diệu đế làm phương tiện để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ tức là chứng quả vị Phật. Nhưng thật chất con người vốn đã giải thoát giác ngộ nhưng chỉ vì mê vọng điên đảo mà lầm tưởng là trầm luân. Trong tất cả chúng sinh vốn đã có Phật tính tức là Bản Thể Chân Như không tăng không giảm, không dơ không sạch mà chúng ta quên mất nó đi để cả cuộc đời đi tìm cái đã có sẳn. Cho nên một lần nữa Tâm Kinh mới nói:”Dĩ vô sở đắc cố” tức là không có gì là chứng đắc cả. Chỉ cần sống với tự tánh thanh tịnh thì Phật tính sẽ hiện ra cũng như lau hết bụi thì gương chiếu sáng vậy thôi vì tánh sáng cũng như Phật tính đã có từ lâu. Đó chính là bản lai diện mục của tất cả chúng ta.

Ông Duy Ma Cật khuyên tôn giả Tu Bồ Đề quay về sống với nguyên lý Bất nhị tức là không còn phân biệt có bên nầy bên kia mà phá chấp pháp để vào Pháp Tánh bình đẳng thì mới nên nhận lấy vật thực cúng dường của thí chủ.

Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Không cần tìm gặp Phật. Không cần nghe pháp Phật. Bọn lục sư ngoại đạo: Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Già Lê Câu Xa Lê Tử, Xan Xà Gia Tỳ La Chi Tử, A Kỳ Đa Xý Xá Khâm Bà La, Ca La Câu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử…Bọn đó phải là thầy của ngài. Thưa ngài Tu Bồ Đề! Ngài hãy y chỉ vào họ mà xuất gia. Họ đọa địa ngục Ngài cũng đọa theo. Được như vậy mới xứng đáng thọ nhận vật thực của thí chủ cúng dường.

Gặp Phật qua 32 tướng tốt hay gặp Phật qua giọng thuyết pháp thì chưa phải là thấy được Như Lai. Vì Phật là một Ứng Thân trong thế giới Ta bà và là thân sinh tử. Còn Pháp Thân chính là Như Lai Viên giác Diệu Tâm mới thật là gặp được Phật và mới nghe được pháp Phật.

Đoạn trên ông Duy Ma Cật khuyên ông Tu Bồ Đề nên lìa hai bên, đứng chấp có bên nầy bên kia mà hãy quay về với nguyên lý nhất như để thấy được Bản Thể Chân Như trong khi đoạn nầy thì khuyên ông Tu Bồ Đề theo tà bỏ chánh. Tệ hại hơn nữa là gọi bọn lục sư ngoại đạo là thầy. Tại sao có sự mâu thuẩn như thế? Đối với người xuất gia thì phải quy y Tam Bảo chớ ai lại theo bọn ngoại đạođi theo họ vào địa ngục? Vì sự mâu thuẩn nầy mà tôn giả Tu Bồ Đề không sao hiểu được, tâm trí mờ mịt mà để bình bát lại và muốn đi ra khỏi nhà.

Thật ra bọn lục sư ngoại đạo mà ông Duy Ma Cật muốn ám chỉ ở trên chính sáu căn bởi vì con người lúc nào cũng để sáu căn chạy theo sáu trần mà trần thì ở ngoài nên gọi là ngoại trần hay ngoại đạo. Mà xuất gia là tháo gở đừng cho dính mắc tức là kiểm soát sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Một khi sáu căn không còn dính mắc thì cái chấp về dính mắc cũng không còn nữa thì tâm sẽ thanh tịnh.

Còn nữa, thưa ngài Tu Bồ Đề! Cứ xông pha trong các thứ tà kiến, không cần tránh né để đến Niết Bàn. Phải ở ngay trong bát nạn, không được không nạn. Nhập cuộc với phiền não, xa lìa pháp thanh tịnh đi. Ngài được Tam muội Vô tránh tam muội, tất cả chúng sinh cũng được Tam muội đó. Người thí chủ của ngài không được gọi là gieo giống phước điền, kẻ cúng dường ngài đọa trong ba đường ác. Họ là một cánh tay của bọn ma khấy rối. Ngài cùng các bọn ma và các trần lao không hơn kém. Đối với tất cả chúng sinh phải có tâm oán. Chê báng Phật, hủy mạ pháp, không làm Tăng và không cần Niết Bàn. Nếu ngài được như thế thì mới xứng đáng nhận lấy vật thực cúng dường.

Bạch Thế Tôn! ngài Tu Bồ Đề thưa: Khi nghe những điều đó tâm trí con mờ mịt, không còn biết phải nói lời gì và không biết phải đối đáp ra sao. Con bèn để bình bát xuống và muốn mau được đi khỏi nhà ông Duy Ma Cật. Như đoán được ý con, ông Duy Ma Cật nói tiếp:

- Thưa ngài Tu Bồ Đề! Ngài cứ nhận lấy bát cơm đi, đừng sợ. Ngài nghĩ thế nào? Giả như Đức Như Lai hóa hiện ra một người, đem những điều như thế đàm luận với ngài thì ngài có sợ chăng?

- Không sợ. Bạch Thế Tôn! Con đáp như thế.

Đoạn trên đã khó nghe mà đoạn nầy lại càng lạ lùng, khó hiểu. Ông Duy Ma Cật nói sao mà ngược ngạo quá vậy? Nhập cuộc với phiền nãoxa lìa thanh tịnh? Còn kẻ thí chủ bị đọa trong ba đường ác, rồi mình với ma giống hệt không khác. Tại sao lại phải chê Phật, hủy pháp, không làm Tăng và chả cần Niết bàn? Bây giờ hãy nghiệm đoạn kinh sau đây thì sẽ thấy được thâm ý của ông Duy Ma Cật.

Ông Duy Ma Cật lại nói tiếp:

- Tất cả pháp như huyễn, như hóa, ngài không nên có ý sợ sệt. Tất cả ngôn thuyết cũng là huyễn hóa. Bậc trí giả không dính mắc văn tự cho nên không có gì, vì tánh của văn tự vốn Không. Hiểu được rằng:”Văn tự vốn không có tánh” thì người đó được giải thoát. Vì cái tướng giải thoát chính là tướng các pháp vậy.

Tôn giả Tu Bồ Đề là đệ nhất giải không nên ông Duy Ma Cật một lần nữa đem Lý Khôngthử lòng đó thôi. Dựa theo Lý Không thì trên đời nầy không có cái gì là thật cả vì chúng không có tự tánh tức là vô ngã. Vì tất cả các pháp đều là huyễn hóa thì lời nói cũng là huyễn hóa, không thật. Lời nói, văn tựpháp hữu lậutương đối do duyên khởi tạo thành nên chính nó không có thật thể và dĩ nhiên không thể nào diễn tả được chân lý Tuyệt đối vô lậu. Vì hàng Thanh văn còn có chấp, ngay cả văn tự nên ông Duy Ma Cật khuyên nếu muốn đạt được trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát thì ngay cả văn tự cũng bỏ luôn, không nên chấp. Bởi vậy Kinh Kim Cang cũng có câu:”Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng Phi Tướng tức kiến Như Lai” có nghĩa là tất cả mọi vật mà có hình tướng đều là giả huyễn, còn nếu thấy được cái Tướng Không của mọi sự vật thì mới thấy được Chân Lý. Nói một cách khác cái gì mà có thể diễn tả được, viết được, nói được thì cái đó không phải là Chân lý. Ngày xưa chư Tổ cũng dạy rằng:”Chân Lý là Tuyệt đối không thể dùng lời nóidiễn tả được. Nếu còn dùng lời nói thì Chân Lý bị che khuất, bị chôn vùi”.

Tất cả kinh điểnchúng ta có được ngày nay là do các vị đại A La Hán tụng thuật lại và được chuyển sang Phạn âm, rồi Hán tự và sau cùng dịch sang tiếng Việt. Đoạn kinh trên khai thị cho người tu Phật đừng quá chấp vào kinh điển vì không có lời nói hay văn tự nào có thể diễn tả được Chân Lý cả đó là chưa kể khi dịch kinh văn làm sao không có sự thêm bớt, sai biệt. Vì thế trong Kinh Đại Niết Bàn, Đức Phật nói Tứ Y Pháp mà trong đó y nghĩa bất y ngữ là như vậy. Cho nên kinh điển chỉ là phương tiện, là ngón tay mà cứu cánhChân Lý, là sự sáng suốt triệt để, là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng.

Ông Duy Ma Cật đưa ra hai tư tưởng đối lập nhau để chỉ cho tôn giả Tu Bồ Đề đừng quá chấp vào lời nói văn tự vì chúng là huyễn hóa, không thật. Nếu là huyễn hóa thì nói ngược cũng được mà nói xuôi cũng chẳng sai. Vì chấp nên ông Tu Bồ Đề thấy lời nói trên là thật nên hoảng hốt, sợ sệt, muốn ôm bình bát mà chạy. Bây giờ ông Duy Ma Cật mới an ủi rằng nảy giờ là tôi nói đùa đấy vì lời nói không có giá trị chi cả vậy ông hãy lấy cơm mà ăn đi.

Tất cả các pháp trên thế gian nầy đều là huyễn hóa ngay cả lời nói văn tự. Nếu ngày nào con người còn chấp vào ngôn ngữ văn tự là thật thì ngày đó còn phải đối diện với phiền não khổ đau. Thói thường thì con người thích lời nói khen, nói tốtbất mãn, buồn phiền khi bị chỉ trích. Nếu chúng ta chấp lời nói kia là thật thì lúc nào cũng ghi nhớ, gìn giữ những lời nói đó vào lòng. Thuận duyên thì hạnh phúc tức là sống trong mộng tưởng, điên đảo, còn nghịch duyên thì buồn phiền, bực bội. Trưởng giả Duy Ma Cật muốn nhắn nhủ rằng người tu Phật cần phảitrí tuệ để biết rằng tất cả ngôn ngữ, lời nóikhông thật thì đừng quan tâm, lưu nhớ vì chúng phát xuất từ bên ngoài tức là ngoại trầncần phải giữ tâm thanh tịnh tức là sáu căn không dính mắc nơi sáu trần. Mình thì không nói xấu người mà nếu có ai dèm pha, thị phi thì luôn giữ chánh niệm và đừng cho tâm vọng động để tiêu trừ khẩu nghiệp. Một khi con ngườitự chủ tức là không chấp lời nói xấu, tiếng dèm pha hay tiếng khen thì cuộc sống sẽ rất an vui tự tại.

Bạch Thế Tôn! Ông Tu Bồ Đề thưa. Sau khi trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy rồi, có hai trăm vị Thiên tử được pháp nhãn thanh tịnh. Do vậy, con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật.

Thiên tử ở đây không phải là những ông vua ở thế gian mà là những vị trời trong các cõi Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới. Đó là các cõi trời Đạo Lợi, Dạ Ma, Đầu Xuất, Hóa Lạc, Tha Hóa…Khi chúng sinh thấy rằng dục lạc thế gian không bền chắc, tạm bợ, đáng chán và là cội nguồn tạo ra nghiệp để chịu quả khổ về sau nên họ bỏ ác mà tu theo mười điều thiện và khi chết sẽ được thọ sanh lên cõi trời để hưỡng phước lạc. Tuy thọ mạngcõi trời rất dài nhưng vẫn còn nằm trong lục độ luân hồi do đó nếu hưởng quá nhiều phước lạc sinh mê sẽ dễ bị đọa vào tam ác đạo.

Các vị trời bình sanh được ăn ngon mặc đẹp, sống trong cung vàng điện ngọc với đàn ca múa hát. Họ hưởng quá nhiều dục lạc nên bị mê đến khi nghe được lời dạy của ông Duy Ma Cật thì mới biết tất cả các pháp như thức ăn, áo quần, nhà cửa, đền đài, cung điện ngay cả âm thanh, lời nói đều là huyễn, không thật có. Nhờ thấu hiểu chân lý nầy mà các vị trời bừng tỉnh đôi mắt như người vừa ra khỏi giấc chiêm bao nên mới gọi là Pháp nhãn thanh tịnh.

Khi nói về hạnh bố thí thì có người lý luận rằng nếu có người làm ăn lương thiện đang sống trong cảnh bần hàn, mỗi ngày phải chạy cơm nuôi gia đình còn không đủ thì tiền của đâu dư mà bố thí để tạo phước đức cho đời sau? Đó là chưa kể khi gặp cảnh túng quẩn, vợ bệnh con đau sanh ra trộm cướp thì đời sau càng thê thảm.

Ngược lại có những người hiện tại rất giàu có, tiền rừng bạc biển, cuộc đời hạnh phúc ấm no thì đối với họ bố thí chút ít tiền của cũng chẳng ăn nhằm gì. Có thể họ dùng tiền của bất lương mà bố thí cho nên dựa theo thuyết nhân quả chẳng những đời nầy họ giàu sang phú quý mà đời sau họ càng hạnh phúc ấm no. Thế thì hạnh bố thí của nhà Phật có bất công và độc ác như họ nghĩ không?

Chữ bố thí trong nhà Phật không có nghĩa là đem tiền của ra phân phát cho kẻ khác để tạo phước. Đây chỉ là nhìn về hình tướng bên ngoài mà nói. Thật ra bố thí không nhất thiết phải là phân phát tiền của mà còn phải pháp thívô úy thí. Đứng về Bản Thể mà nói thì bố thí là để thanh lọc nội tâm của mình, làm giảm bớt tính tham, tật đố. Tham-sân-si, mạn, nghi có bớt thì tâm thanh tịnh mới hiện bày. Có dám bố thí chia xẻ bớt cho người thì tâm mới bớt tham. Bố thí mà còn mong cầu đền đáp thì tâm tham không giảm. Tham-sân-si chưa dứt thì làm sao đạt được tâm thanh tịnh. Nếu kẻ giàu có bằng hành động bất chính thì chính họ đã tự tạo cho mình bao nhiêu nhân bất thiện, cho dù họ có đem bao nhiêu tiền của để bố thí cũng không cách nào xóa đi những nhân bất thiện được. Vì thế kiếp sau làm sao họ có thể trở thành giàu sang phú quý, an vui hạnh phúc được? Còn đối với những người nghèo khổ, không đòi hỏi họ phải bố thí nhiều tiền của mà chỉ cần họ bố thí với tấm lòng vị tha vô ngã thì cho dù họ chỉ bố thí một đồng nhưng kết quả vẫn cao quý hơn những người giàu có bất thiện.

Nhắc lại ngày xưa trong thời Đức Phật còn tại thế, có một bà già đi ăn xin rất nghèo khổ. Tuy muốn cúng dường cho Phật ngặt nổi trong túi không có một xu. Ngày đó mà đi xin được vài đồng, bà nhịn ăn để mua một chút ít dầu đốt đèn và hân hoan đem cúng dường cho Phật. Sau một đêm tất cả những ngọn đèn khác đều tắt chỉ còn ngọn đèn của bà vẫn cháy sáng làm cho mọi người ngạc nhiên thì Phật mới dạy rằng bố thí phát xuất từ tấm lòng chân thành thì sẽ được vô lượng phước đức. Vì thế cho dù đời nầy mình có gặp nhiều nghịch duyên, cuộc sống không được vừa ý thì đó là chất liệu để tu tâm sửa tánh thì ngày sau chắc chắn sẽ tươi đẹp hơn nhiều. Con người không thể oán Trời trách Phật làm cho mình nghèo khổ. Nghèo khổ là do tự mình tạo ra quá nhiều nhân bất thiện trong đời quá khứ, nếu muốn kiếp sau được hạnh phúc an vui thì kiếp nầy tránh ác làm thiện là được ngay.

 Phật dạy rằng: 

Chư ác mạc tác
Chứng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý

Thị chư Phật giáo

 Nghĩa là;

Tất cả các nghiệp ác chớ có làm
Nên làm tất cả các việc lành

Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh

Đó là lời dạy của chư Phật

Nên nhớ nghèo không phải là cái tội mà tạo nghiệp bất thiện mới đưa con người lún sâu vào biển trầm luân đau khổ. Nghèo chưa chắc đã khổ mà giàu chưa hẳn đã hạnh phúc vui tươi cho nên cổ nhân có câu:”Thanh bần an lạc, trọc phú đa ưu” là vậy. Như thế thì hạnh bố thí đâu có bất công đối với ai đâu và dĩ nhiên đầy từ bi chớ làm gì có độc ác.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28681)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21208)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13208)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14269)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16709)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13015)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12430)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11471)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18812)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19418)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12186)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14954)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14828)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20041)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14933)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14471)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13077)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18237)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11857)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15713)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18783)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18259)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant