Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Ca Chiên Diên

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9102)
Tôn giả Ca Chiên Diên

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


 Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana):
Thuyết Pháp Tinh Yếu.

Tôn giả Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tiên A Tư Đà vị thần thông bác học của Ấn Độ thời bấy giờ, người đã đến xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa khi Ngài mới đản sanh chính là cậu ruột và cũng là sư phụ đầu tiên của tôn giả. Sau tôn giả quy y theo Phật trở thành A La Hán và trong số mười đại đệ tử của Phật thì tôn giả nổi tiếng là đệ nhất nghị luận vì ngài có tài biện luậnlời nói diệu dàng làm mọi người kính phục. Ngoài tài biện thuyết, tôn giả còn làm ra bộ Thi Thiết Túc Luận gồm có 18 ngàn câu kệ và một bộ kinh có tên là Ca Chiên Diên Kinh để nói về ý nghĩa lìa cả hai đường Có và Không mà phá trừ tập khí ngã mạn.

Bấy giờ Đức Phật gọi ông Ca Chiên Diên bảo:

- Ca Chiên Diên! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông Ca Chiên Diên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng nghe Phật nói pháp tinh yếu cho các Tỳ Kheo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội hợp lại, con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt…Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

- Thưa ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa ngài, các pháp không sanh không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Người học Phật thì phải nhìn vạn pháp qua hai mặt. Pháp thì có pháp tánhpháp tướng. Nếu con người chưa ngộ được thật tướng của vạn vật trong vủ trụ thì chỉ nói được pháp tướng. Còn thấu nhập được thật tướng thì mới nói được pháp tánh. Mà thật tướng chính là vô tướng.

Chúng sinh sống trong thế giới Ta bà nầy tức là đang bơi trong biển khổ cho nên Đức Thế Tôn muốn đem Phật pháp để giúp chúng sinh nương theo đó mà giải thoát. Vì thế Phật mới nói thuyết vô thường, vô ngã, khổ, không và diệt phiền não để chứng đắc Niết bàn. Vì đây là lời của Phật nên tôn giả Ca Chiên Diên mới đem những ý chính mà diễn lại cho các Tỳ Kheo nghe thì lời nói của tôn giả là đúng. Nói đúng mà tại sao lại bị quở? Trưởng giả Duy Ma Cật không những chỉ trích tôn giả Ca Chiên Diên mà còn chỉ trích tất cả các vị đại đệ tử của Phật không phải vì họ nói sai hay tu hành sai mà họ không đi đúng Phật đạo. Con đường để đạt đến Phật quả viên thành bắt đầu từ nhân thừa, thiên thừa, tiểu thừa, duyên giác thừacuối cùng tiến đến đại thừa viên giáo để đến Đẳng giácthành Phật. Bất cứ ai trong thế gian nầy nếu muốn hoàn thành Phật đạo đều phải đi theo con đường của các vị A La Hán cả, nhưng lý do họ bị khiển trách là vì họ tự mãn ở địa vị của hàng Thanh văn mà không tiếp tục tinh tấn tu hành từ Thanh văn lên Bồ-tát hay từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Tuy đã thoát khỏi sinh tử luân hồi nhưng nếu không tiến tu theo Bồ-tát đạo thì trí tuệ không phát sinh, vô minh chưa trừ diệt thì làm sao thành Phật được. Do đó ông Duy Ma Cật mới đại diện cho Phật chỉ bày con đường sáng để khai thị cho họ theo đó mà tiếp tục tu hành để viên thành Phật đạo. Đây là chỉ trích trong tinh thần xây dựng vậy.

Khi Đức Phật thuyết pháp dạy các Tỳ Kheo thì Ngài thuyết huyễn pháp, độ huyễn nhân để chứng huyễn quả. Nhưng tôn giả Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn lại tưởng là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh cho nên tôn giả mới đem những lời Phật mà dạy cho các Tỳ Kheo.

Đứng về phương diện pháp tướng mà nói thì vạn pháp là thật có cho nên thấy vạn phápvô thường. Cũng như thấy thân nầy là thật nên phải chịu sinh lão bịnh tử. Thấy cái ta là thật có nên thấy cái ta là vô ngã. Muốn ngã và ngã sở được trường tồn vĩnh cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật cho nên mới mong cầu tịch diệt Niết bàn. Tóm lại vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt đều là pháp tướng tức là tướng sinh diệt của thế gian. Vì thế tôn giả Ca Chiên Diên càng diễn giải, biện luận cho các Tỳ Kheo thì càng chứng tỏ tâm ông bị dính mắc càng nhiều. Do đó trưởng giả Duy Ma Cật mới đến bảo ông chớ đem tâm hạnh sinh diệt tức là pháp tướng mà nói pháp Thật Tướng. Tại sao? Bởi vì tâm hạnh sinh diệt là pháp thế gian, là tương đối thì làm sao diễn tả được pháp Thật Tướng tức là tuyệt đối, là pháp xuất thế gian.

Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì các pháp không sinh mà cũng không diệt, không còn đối đãi tức là Bất nhị. Ông Ca Chiên Diên nói các pháp có sinh có diệt tức là vô thường còn ông Duy Ma Cật nói các pháp không sinh không diệt mới là vô thường. Đây là hai tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ai đúng ai sai? Thật ra cả hai cùng đúng. Tại sao lại có chuyện ngược với lý vô nhị thị như vậy? Nếu đứng về pháp Tướng tức là pháp sinh diệt tương đối của thế gian thì ông Ca Chiên Diên nói đúng. Còn nếu dựa vào pháp Tánh bất sinh bất diệt tức là Chân Lý Tuyệt đối thì ông Duy Ma Cật đúng vì trong Chân Không thì làm gì có sinh có diệt, có tăng có giảm. Nhưng nếu nói không sanh không diệt thì tại sao nói vô thường như các pháp sinh diệt? Đứng về pháp Tánh thì không sanh không diệt nhưng nhờ có duyên hợp mới thành Tướng. Mà đã là duyên hợp thì có sanh có diệt tức là vô thường. Đây chính là bất biếntùy duyên. Thí dụ như cái nhà của chúng ta. Vì cái nhà là do duyên hợp của gạch, ngói, cây, xi măng…nên cái nhà không có tự tánh tức là Không. Vì cái nhà là do duyên hợp mà thành nên có sanh có diệt tức là vô thường nhưng tự tánh của cái nhà là Không thì làm gì có sanh có diệt. Do đó cùng một đối tượng mà có hai bản thểhữu vivô vi hay tương đốituyệt đối. Hữu vi là Tướng và vô vi là Thể. Như vậy nói vô thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp Tánh thì không sanh không diệt. Cho nên cái không sanh không diệt đó không thể rời cái Tướng sanh diệt được. Vì thế Tâm Kinh mới có câu:”Sắc chẳng khác Không” là như vậy. Tuy tôn giả Ca Chiên Diên nói không sai, nhưng sự hiểu biết về sự sinh tồn của nhân sinh vủ trụ chỉ có một bên là pháp Tướng tức là pháp sinh diệt cho nên ông Duy Ma Cật muốn đem chân lý của Thật Tướng tuyệt đốigiảng giải để khai thị cho tôn giả thấy rằng tuy vạn pháp có tướng sinh diệt tức là vô thường nhưng Bản Thể Chân NhưThật Tướng thì không có hình tướng nên không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ sống chết đổi thay nên được gọi là Chơn Thường. Vì thế ông Ca Chiên Diên tuy là nói không sai nhưng chưa được rốt ráo, thấu triệt mà thôi.

Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ.

Năm uẩn ở đây chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong thế gian nầy con người còn thấy khổ, vui là vì còn cảm thọ những duyên trần từ bên ngoài. Khi gặp cảnh thuận duyên thì tâm vui mà gặp cảnh nghịch lòng thì phát sinh tâm sân hận. Tâm Kinh dạy rằng trong Bản Thể Chân Như thì ngũ uẩn là Không. Mà ngũ uẩn đã là Không thì làm gì có cảm thọ những duyên trần bên ngoài. Cảm thọ cũng Không thì vui khổ cũng chẳng còn. Vì thế ông Duy Ma Cật nói nghĩa khổ chính là chẳng khổ chẳng vui, là chân lý tuyệt đối vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng:”Vạn pháp duy tâm tạo” cho nên khổ vui cũng bởi tự lòng ta. Cùng một trái ớt cay mà có người thích ăn còn người khác lại không thích. Nếu bắt người Mỹ ăn cơm hoài như người Việt thì làm sao họ vui hay bắt người Việt ăn bánh mì hoài thì họ sẽ kêu khổ. Vậy vui khổ là không thật Có mà nó chỉ xuất hiện làm cho con người thêm điêu đứng khi chúng ta chạy theo gió lục trần. Khi con người còn chấp có hai bên là khổ vui nên tâm mới khổ vì muốn phá khổ tìm vui. Khi đã ngộ được Bản Thể Tuyệt Đối thì không còn chấp có khổ vui mà chỉ thấy rõ tất cả chỉ là một cái bất biến. Trong cuộc đời có ai lại không đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Nếu người không hiểu đạo khi gặp nghịch duyên thì họ than trời, trách đất chẳng những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho mọi người chung quanh. Còn người có trí tuệ sáng suốt thì cũng cảnh nghịch duyên đó mà họ bình tĩnh lắng lòng để tìm nguyên nhân nào tạo ra nghịch cảnh mà tìm phương đối trị để vượt qua cảnh trái ý nghịch lòng. Cái vui khổ mà con người thọ nhận trong đời nầy chẳng qua là cái quả của những cái nhân tốt xấu mà họ đã tác tạo từ kiếp trước mà thôi. Tự tác hoàn tự thọ tức là ta làm thì ta chịu có gì phải phàn nàn. Chúng ta không có túc mạng thông thì không thể nào biết được mình đã làm những gì trong tiền kiếp. Nhưng điều quan trọng mà con người cần phải chú ý là ngay trong đời hiện tại cũng như trong tương lai đừng gây ra nghiệp xấu vì đây chính là những duyên xấu sẽ kết tập với những nghiệp bất thiện trong quá khứ mà tạo thành cái ác quả để hành hạ chúng ta. Nhân mà không có duyên thì không bao giờ thành quả. Do đó không chỉ riêng có Bồ-tát mới thấy câu:”Bồ-tát sợ nhân chúng sinh sợ quả” là chân lý mà tất cả chúng sinh cũng như Bồ-tát cùng sợ nhân cả.

Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không.

Không có một hiện tượng tinh thần hay vật chất nào trong thế gian nầy có thể tự nó sinh tồn mà không cần đến những trợ duyên khác. Vì do sự kết hợp của nhiều nhân duyên nên tất cả vạn pháp chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã tức là Không. Không ở đây có nghĩa là Chơn Không Diệu Tánh tức là từ vô thỉ nó như vậy và cho đến vô chung nó cũng thế, không tăng không giảm nên nói không nguồn không gốc là như vậy. Cái Không nầy mới chính thậtnghĩa không chớ không phải cái không đối với cái có của hàng Thanh văn.

Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã.

Ngã là thấy mình thật, vạn vật cũng thật. Còn vô ngã thì mình là huyễn và vạn vật, chúng sinh cũng huyễn. Khi còn thấy có ngã và vô ngã là thấy có bên nầy bên kia, là còn phân biệt nhị nguyên tức là tâm không bình đẳng. Đây là lối nói ngược để phá trừ bệnh chấp tướng, nhưng thật ra trong vô thường có Chơn thường và trong vô ngã có Chơn ngã. Đây mới chính là Trung đạo. Thí dụ như ngày xưa chúng ta chưa biết đạo thì lúc nào cũng chạy theo bản ngã, làm việc gì cũng vì mình, ai nói nặng một chút là giận là hờn, ai tâng bốc là kiêu căng, tự phụ cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật, cái Ta là thật. Khi đã biết thân nầy là giả, thế gian vủ trụ là giả thì từ cái bản ngã mê lầm quay về với cái tự tánh thanh tịnh mà sống với tinh thần vô ngã từ bi của nhà Phật. Vậy ngã và vô ngã vốn ở trong ta. Nếu chạy theo lục dục thất tình là ngã còn sống với tự tánh bản nhiên thanh tịnhvô ngã. Tuy hai nhưng mà một tức là bất nhị thì đây mới là nghĩa vô ngã vậy.

Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Giáo lý Tiểu thừa dựa trên pháp hữu vi mà thấy các pháp có sinh có diệt nên tâm bất định mà sinh ra cái khổ. Do đó họ cố tu, xa lìa cái sinh diệt cho tâm được an định mà tìm cái vui tức là sự tịch diệt của Niết bàn. Ngược lại tư tưởng Đại thừa thì cho rằng các pháp từ nguyên thủy đến nay vẫn như thế, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Mà các pháp vốn không sanh thì làm gì có diệt! Đây chính là Pháp Tánh của các pháp tức là Không. Vì là Chơn Không Diệu Tánh không hình không sắc, không kích thước, không nặng nhẹ thì làm gì có thể nghĩ bàn hay dùng văn tự để diễn bày được.

Như thế khi còn mê lầm vọng tưởng điên đảo thì còn thấy các pháp có sinh có diệt, đến khi trí tuệ bừng sáng để nhận thấy Thể Tánh bất sinh bất diệt của các pháp tức là thấy được tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì vọng tưởng điên đảo không còn và tâm hằng vắng lặng thanh tịnh thì Niết bàn còn dùng vào đâu mà cầu mong chứng với đắc thì đây mới chính là nghĩa Tịch Diệt vậy.

Như vậy:

- Nếu thấy thân là vô thường thì phải quay về sống với pháp tánh bất sinh bất diệt để tới chỗ Chơn Thường.

- Biết vạn pháp trong thế gian vủ trụ là vô ngã thì cố gắng suy tư quán chiếu, tĩnh lựquay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì sẽ thấy Chơn Ngã.

- Nếu để tâm chạy theo vọng trần thì sẽ cảm thọ cái vui hay cái buồn, nhưng nếu thấy rằng ngũ uẩn là Không thì sẽ chặn được gió lục trần. Không có gió lục trần thì làm gì còn cảm thọ cho nên buồn vui cũng vì thế mà tan biến.

- Nếu thấy thế gian sinh diệt thì tâm mới có khổ bây giờ quay về với pháp tánh thì sẽ không còn sinh diệt. Không sinh diệt thì khổ không còn tức là Tịch Diệt.

Tóm lại theo tư tưởng đại thừa thì ngay trong vô thường mà thấy được Chơn Thường. Ngay trong vô ngã mà thấy được Chơn Ngã. Trong cái khổ mà thấy Chơn Lạc và trong thế giới uế độ nầy mà vẫn thấy được Niết bàn thanh tịnh tức là Chơn Tịnh vậy. Vì thế với tuệ nhãn của Bồ-tát thì vạn pháp là Chơn Thường, Chơn Ngã, Chơn Lạc và Chơn Tịnh hay là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nói một cách khác, tất cả vạn pháp trong thế gian vủ trụ nầy thì Tướng là giả huyễn, là sinh diệt. Thể thì lặng lẽ, là Chơn Không Diệu Tánh, là Không. Còn Dụng thì phát sinh từ tâm để tạo thành muôn sai vạn biệt. Đối với người tu theo đại thừa thì cho dù tâm có phát sinh trăm ngàn ý niệm, chánh có tà có, thiện có ác có…nhưng con người làm chủ tâm tức là kiềm chế ý niệm chớ không chạy theo nó. Niệm vừa dấy lên thì tự nhiên nó lắng xuống, biến đi. Vô niệm tức là Chơn tâm, là Phật tánh, là hạnh phúc vĩnh hằng trong tất cả chúng ta.

Hằng ngày chúng ta đi chùa, ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh, niệm Phật mà người chửi còn giận, vật đẹp muốn lấy, tranh công đoạt chức thì vẫn làm nô lệ cho bản ngã. Muốn đạt đến ngã Không thì phải thấy vạn phápvô thường, vô ngã, Không và khổ như cái thấy biết của các vị A La Hán. Sau cùng phá luôn chấp pháp tức là pháp Không để được cái nhìn cái biết của Bồ-tát. Đó là thế gianhuyễn hóa, nhưng Bản Thể thì thường hằng bất biến, là Chơn Không Diệu Tánh nên lúc nào cũng thanh tịnh. Con người biết quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì ở đâu và lúc nào cũng có tịch diệt Niết bàn.

Tôn giả Ca Chiên Diên nói tiếp:

Sau khi ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy, hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Các Tỳ Kheo khi đã được nghe Chân lý tuyệt đối, lãnh hội được pháp Tánh thanh tịnh thì như người ngũ mê sực tỉnh, không còn thấy mình bị trói buộc và tâm rất hoan hỷ. Ý của ông Duy Ma Cật trong đoạn kinh nầy là đứng lấy tâm sinh diệt tương đối của thế gianluận bàn về pháp Tánh tức là Chơn Không Diệu Tánh. Vì nó là Chơn Không, là rỗng lặng nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn bày. Nhưng nếu có quán chiếu, có thực hành thì sẽ ngộ Chân lý và nhập Thể Tánh thì lúc đó tự mình sẽ có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18961)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17600)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16392)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13131)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12918)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14123)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11332)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16270)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12767)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant