Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quang Nghiêm Đồng tử

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8710)
Quang Nghiêm Đồng tử

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Tư
 Phẩm BỒ TÁT
(The Reluctance of the Bodhisattvas)
2) Quang Nghiêm Đồng tử.
 Vấn Đề Đạo Tràng.

Đức Phật gọi Quang Nghiêm Đồng Tử bảo:

- Quang Nghiêm! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Quang Nghiêm thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật! Bởi vì trước đây vào một hôm nọ, con từ thành Tỳ Xá Ly đi ra, Ngài Duy Ma Cật thì từ ngoài thành đi vào. Con lễ phép chào và hỏi”

- Thưa cư sĩ! Ngài từ đâu đến đây?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Tôi từ đạo tràng đến.

Con lấy làm lạ hỏi:

- Ngài nói đạo tràng, vậy đạo tràng nào? Ở đâu?

Thông thường trong kinh điển Phật giáo thì Đồng Tử là người tu hành từ khi còn nhỏ, không phạm dâm dụcgiữ giới hạnh thanh tịnh trọn đời. Đồng Tử cũng còn có nghĩa là người đang tu theo Bồ-tát đạo nhưng chưa được giác ngộ hoàn toàn vì như đứa trẻ chưa thành người lớn. Một nghĩa khác là người tu hành chân chánh, tẩy trừ sạch mọi trần cấu, phiền não khổ đau và có tâm hồn thanh tịnh trong sáng như trẻ thơ.

Nhưng Đồng Tử trong kinh nầy là một vị Bồ-tát tu hành chứng đắc. Ngài dùng ánh sáng của trí tuệcông đức để trang nghiêm nên mới có tên là Quang Nghiêm. Phàm nhân thì dùng vàng ngọc, kim cương, châu báu, áo quần, phấn son…để trang sức cho báo thân tứ đại của họ. Còn Quang Nghiêm Đồng Tử lại dùng trí tuệ sáng suốtcông đức tu hành để trang nghiêm cho Pháp Thân làm cho chúng sinh đều kính phục. Khi nhìn hình tượng của các chư Phật hay Bồ-tát thì có hào quang rực rỡ vì đây là tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt thanh tịnh tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong bến bờ mê muội.

Đứng về Sự Tướng mà nói thì đạo tràng là nơi Đức Phật Thích Ca tĩnh tọa trên tòa Kim Cươngthành đạo nên được gọi là Bồ-đề đạo tràng. Các tịnh xá như Trúc Lâm, Kỳ Viên…là nơi Phật và chư đệ tử trú ngụ trong mùa an cư kiết hạ cũng là đạo tràng. Ngày nay các Phật Học Đường, các chùa để phổ biến Phật pháp đều là đạo tràng cả. Nhưng ở đây ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà nói thì bất cứ pháp môn, hạnh tu nào mà lợi ích cho chúng sinh, đưa đến chỗ giải thoát giác ngộ đều là đạo tràng. Vì thế ông Duy Ma Cật mới nói:

Trực tâmđạo tràng: Tâm hạnh thành thật, thẳng thắn không hư dối quanh co. Khi một người có tâm thẳng thắn, thành thật thì đây là người tốt, là trực tâm của nhơn thừa Phật giáo. Còn trực tâm của Đại thừa là không có trí phân biệt để chạy theo cái tốt mà chê cái dở, tâm phải bình đẳng không cao không thấp đối với tất cả vạn pháp. Nhìn đúng là Như thị chớ đừng phân biệt khen chê theo sở thích của mình. Không thương, không ghét, không giận không hờn, thấy sao biết vậy thì đây mới là trực tâm để có Bồ-đề.

Phát hạnh là đạo tràng: Siêng năng tinh tấn làm tất cả việc.

Thâm tâmđạo tràng: Luôn luôn vun bồi công đức và làm tăng trưởng công đức.

Bồ-đề tâmđạo tràng: Vận dụng trí tuệ trong sự thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết...để tránh mọi si mê lầm lạc.

Bố thíđạo tràng: Thí tái, thí pháp và thí cả vô úy cho chúng sinh mà không hy vọng đền đáp ơn nghĩa.

Trì giớiđạo tràng: Giữ giới thanh tịnh đúng như chí nguyện mong ước lúc phát khởi sơ tâm.

Nhẫn nhụcđạo tràng: Tâm được điều thuận, nhu nhuyễn đối với tất cả chúng sinh không còn bị chướng ngại.

Tinh tấnđạo tràng: Không lúc nào giải đãi trong việc học chánh pháp, hành chánh pháp và sống trong chánh pháp.

Thiền địnhđạo tràng: Tâm nhu hòa an ổn, không rong rủi ở lục dục thất tình. Hằng ngày con người nên kiểm soát lại những ý nghĩ của mình. Nếu có ý nghĩ thiện thì nên làm tức là chứng thiện phụng hành, những ý nghĩ bất thiện như tham lam, giận hờn, si mê, tật đố tức là chư ác mạc tác thì nên loại bỏ nó đi, còn những ý nghĩ lăng xăng thì nên chận đứng nó đi để tâm được thanh tịnh tức là tự tịnh kỳ ý. Làm được như thế tức là thiền cho nên bất cứ ở đâu mà có những đức tính trên thì có đạo tràng.

Trí tuệđạo tràng: Thấy rõ bản chất vô thường, vô ngãbất tịnh của các pháp đúng như thật.

Từ là đạo tràng: Đối với tất cả chúng sinh đều thương như con một của mình thì người đó ở đâu là có đạo tràng đến đó.

Bi là đạo tràng: Vận dụng mọi phương tiện cứu khổ cho chúng sinh.

Hỉ là đạo tràng: Lúc nào cũng vui mừng khi thấy người khác được vui.

Xả là đạo tràng: Đoạn hết mọi ý niệm ghét thương trong lòng.

Thần thôngđạo tràng: Thành tựu đầy đủ lục thông.

Giải thoátđạo tràng: Luôn luôn vận dụng pháp bội xả và sống trong pháp bội xả.

Phương tiệnđạo tràng: Giáo hóa chúng sinh bằng nhiều hình thức, tùy căn cơ, đối tượng.

Tứ nhiếp là đạo tràng: Thuyết pháp độ chúng sinh bằng nhiều cách và tùy cơ duyên mà hóa độ.

Đa vănđạo tràng: Chúng ta học Phật tức là nghe chánh pháp rồi tư duy chánh pháp. Sau đó có thực hành chánh pháp và sống đúng theo chánh phápchúng ta ở trong đạo tràng rồi đó.

Phục tâm là đạo ràng: Vận dụng chánh quán mà quán các pháp.

Ba mươi bảy phẩm trợ đạođạo tràng: Rời bỏ hết pháp hữu vi. Nếu luôn quán niệm về Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề và Bát chánh đạochúng ta đang ở trong đạo tràng vậy.

Tứ diệu đếđạo tràng: Thấy đúng như thật, biết đúng như thật, nói đúng như thật các pháp thế gian. Thấy biết rõ thế giantam khổ, bát khổ mà cái gốc chính là tham-sân-si, mạn, nghi…và nếu diệt được cái gốc tư hoặckiến hoặc để cảm nhận được sự tịch diệt của Niết bàn thì người đó đang ở trong đạo tràng.

Duyên khởiđạo tràng: Biết rõ từ vô minh cho đến lão tử đều không có cái hết. Biết quán tưởng pháp mười hai nhân duyên để tu hành là ở trong đạo tràng.

Các phiền nãođạo tràng: Vì nhận biết sự tác hại của phiền não một cách quyết định.

Chúng sinhđạo tràng: Vì nhận biết sự hòa hợp, sự nương gá tạm bợ, biết rõ tánh chất vô thường vô ngã của chúng.

Tất cả Pháp là đạo tràng: Vì biết rõ tất cả pháp vốn Không.

Hàng mađạo tràng: Vì biết trước các thế lực bất hảo của ma.

Tam giớiđạo tràng: Dù nhận có tam giới mà không bị ràng buộc trong tam giới. Người nào dù ở trong tam giới mà không bị các dục vọng của cõi dục, không bị các vật chất của cõi sắc, không bị các khái niệm tư tưởng hoang đường của cõi vô sắc làm mê muội thì tuy ở trong tam giới mà không dính mắc tam giới. Cho nên cũng là con người đó mà nếu không còn bị các dục vọng thiêu đốt thì ra khỏi dục giới, không còn lệ thuộc vào vật chất thì ra khỏi sắc giớitâm không còn gởi gắm vào những tư tưởng mơ hồ, hoang đường mê tín dị đoan thì người đó ra khỏi vô sắc giới. Thế thì tam giới vẫn là đạo tràng.

Sư tử hốngđạo tràng: Vì sự thuyết pháp độ sanh đạt đến vô sở úy.

Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cọng phápđạo tràng: Vì thân, khẩu, ý đã thuần thục đạt đến chỗ tột cùng của thanh tịnh, không còn có sự sai lầm.

Tam minhđạo tràng: Nhận thức các pháp thấu suốt tận gốc, tột nguồn.

Nhất niệm tri nhất thiết phápđạo tràng: Vì thành tựu nhất thiết chủng trí.

Như thế thì tất cả các pháp đều là đạo tràng mà tất cả các pháp đều là Phật pháp, là Chơn Tâm, là Phật Tánh. Chơn Tâm, Phật pháp thì ở cùng khắp mọi nơi cho nên đạo tràng cũng vậy. Nơi nào có Phật pháp là nơi ấy có đạo tràng. Vì thế người Phật tử tu đâu cũng được không nhất thiết phải vào chùa mới tu. Khi đã lìa Tướng nhập Thể thì đâu đâu cũng là đạo tràng. Ở nhà, ở chợ, ở sở làm là những đạo tràng rất tốt để tu. Sống trong thế giới ô trượcchúng ta biết tu tâm dưỡng tánh có nghĩa là biết lìa bỏ tâm vọng tưởng cuồng loạn để quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì gia đình mình chính là đạo tràng vậy. Nhưng đạo tràng lớn nhất, cao siêu nhất chính là Tâm của mình và chùa lớn nhất, vĩ đại nhất và thanh tịnh nhất chính là Phật Tâm của chúng ta vậy.

Các vị Bồ-tát đã dùng trực tâm tức là tâm ngay thẳng chân chánh, không hư dối quanh cothực hành Lục độ Ba-la-mật, tứ vô lượng tâm, tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên…để giáo hóa chúng sinh. Các Ngài đem chánh pháp của Phật đến với chúng sinh tức là các Ngài đã đem đạo tràng đến với mọi người cho nên bất cứ nơi nào các Ngài đến thì nơi đó là đạo tràng. Vì thế mà ông Duy Ma Cật mới nói với Quang Nghiêm Đồng Tử :”Tôi từ đạo tràng đến” là vậy.

Ông Duy Ma Cật đáp:

Thế đấy! Quang Nghiêm Đồng tử! Bồ-tát nếu ứng dụng trí tuệ Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh thì mọi hành động giở chân lên, hạ chân xuống đều từ đạo tràng đến và lúc nào cũng ở trong Phật pháp vậy.

Muốn có đạo tràng nầy thì phải ứng dụng câu:”Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc” của Tâm Kinh làm tiêu chuẩn cho mọi sinh hoạt của cuộc đời mình thì giở chân lên, hạ chân xuống đều từ trong đạo tràngxuất phát.

Bạch Thế Tôn! Quang Nghiêm thưa. Trưởng giả Duy Ma Cật nói thời pháp ấy rồi có năm trăm trời, người đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vì vậy con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh.

Tuy Ông Duy Ma Cật chỉ nói một câu đơn giản và rất bình thường là:”Tôi từ đạo tràng đến” mà nó có một sức mạnh vô song có thể phá tan cái màn vô minh còn che lấp trong tâm trí của tất cả chúng sinh. Vì từ đây con người sẽ không còn lầm lẩn về ý nghĩa của chữ “đạo tràng” nửa. Chúng ta sẽ không còn nghĩ rằng đạo tràng là chỗ Phật ngồi, đạo tràng là chỗ Phật tử tu theo Tịnh độ, Mật tông, Thiền tông…hay là chỗ tu tập cúng kiến làm đàn làm chay…mà Trực tâm mới là đạo tràng, thâm tâmđạo tràng, Bố thíđạo tràng, Từ là đạo tràng, Giải thoát là đạo tràng…. Do đó chúng ta không cần phải đi đâu xa để tìm đạo tràng mà một khi chúng ta biết sống với những đức tính như Thiền định, Duyên khởi…là chúng ta đang ở trong đạo tràng đó.

Quang Nghiêm Đồng Tử còn chấp hình tướng bề ngoài, còn chấp có pháp lành để độ chúng sinh và còn chấp có hình tướng người xuất gia tu trong đạo tràng nên cư sĩ Duy Ma Cật dựa theo Pháp Tánh mà nói thì tất cả nhất cử nhất động là từ nơi đạo tràng mà ra vì tất cả các pháp đều là Phật pháp. Chủ đích của đoạn kinh nầy là phá cái chấp phải vào chùa mới tu, phải xuất gia mới là đi tu mà thật ra tu ở đâu cũng được. Tu hành không phải là hình thức bề ngoài, không quan trọng vấn đề đầu tròn áo vuông, không nhất thiết phải vào chùa, thấy tượng Phật mà chính là tu sửa tự tâm. Vì thế cái đạo tràng thanh tịnh nhất, lớn nhất, huyền diệu nhất vẫn chính là tâm của chúng ta và không tượng Phật nào trên thế gian nầy mà to hay mầu nhiệm bằng Phật tâm của chúng ta vậy.

Thời Đức Phật còn tại thế không hề có chùa chiền, am tự mà chỉ có tu viện. Tại sao? Tu viện là nơi chư Tăng tu học Phật pháp với nhau và sau đó thuyết giảng những chân lý đó cho Phật tử tại gia. Họ sống với nhau trong Lục hòa, bình đẳng với mục đích cao cả là cùng hướng về giải thoát giác ngộ. Ngày nay có rất nhiều chùa chiền ở khắp mọi nơi. Ngay cả một khu phố có hai ba cái chùa mà không chùa nào hòa hợp với nhau. Nhiều chùa chiền, nhiều giáo hội có phải là Phật giáo đang trên đà phát triển cực thịnh không? Nhìn ngược lại vào lịch sử của Phật giáo thì thời kỳ nào có những vị cao tăng đắc đạo làm sáng danh đạo Phật thì thời kỳ đó mới là cực thịnh. Vì chúng sinh nhìn vào tấm gương sáng đó mà quay về tu tâm dưỡng tánh. Ngược lại nếu chúng sinh thấy cảnh chia rẻ, bất hòa làm họ chán ngán. Ngày nay trong bất cứ xã hội nào trên thế giới cũng có rất nhiều tôn giáo. Nếu tôn giáo nào biết phát triển bằng cách mở mang những khóa tu học, thiết lập những hệ thống giáo dục để hướng dẫn con người tiến theo đà văn minh của thế giới mà không đánh mất đi những đạo đức căn bản, những chân lý huyền diệu có thể đưa họ đến chỗ giải thoát giác ngộ thì tôn giáo đó phát triển cực mạnh. Trong khi đó các tu sĩ Phật giáo vẫn mơ mộng những chuyện viễn vông, lo cầu an cầu siêu, hay các hình thức mê tín dị đoan vốn thật ra không hề có trong truyền thống Phật giáo. Việt Nam vào thời chấn hưng Phật giáo, có những trường Trung Đẳng và Cao Đẳng như Phật Học đường Liên Hải và Nam Việt…đã đào tạo rất nhiều Tăng Ni xuất sắc làm cho Phật giáo được rạng ngời.

Tiền tài, danh vọng, vật chất là những chướng ngại lớn cho những người tu. Câu chuyện như thế nầy:

“Có một đệ tử quyết tâm học đạo với một vị đạo sư. Sau một thời gian dài thọ giáo, vị đại sư vì có việc phải đi xa nên căn dặn người đệ tử tiếp tục tinh tấn tu hành. Người học trò nghe lời thầy dặn công phu sớm tối không bê trễ. Vì nếp sống thanh bần người đệ tử chỉ có duy nhất một chiếc áo cà sa mà cứ bị chuột cắn rách hoài nên lại phải đi xin mảnh vải khác để vá vào. Phật tử thấy vậy bèn cúng dường cho tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Từ ngày có con mèo, lũ chuột không dám lộng hành nữa, nhưng muốn giữ con mèo thì tu sĩ ngoài việc xin thêm cơm chay còn phải xin thêm sửa để nuôi con mèo. Có vị Phật tử hảo tâm cúng dường con bò để lấy sửa cho con mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò, nhưng bây giờ tu sĩ phải xin cỏ cho bò ăn. Thấy vậy dân làng biếu tu sĩ một mãnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ lo canh tác mà nuôi bò. Tu sĩ ra công cày cấy, trồng rất nhiều rau cỏ, bò ăn hoài không hết nên phải đem ra chợ bán bớt. Miếng đất quá phì nhiêu nên tu sĩ làm không xuể và phải nhờ người đến làm giúp. Tu sĩ bây giờ có nhiều hoa lợi nên tiền bạc dồi dào bèn thuê thợ xây một cái chùa thật lớn. Ngày nào cũng lo mướn người khắc tượng, đúc chuông thật là vĩ đại nhưng thời gian tu hành không còn như trước. Bây giờ tu sĩ phải lo đồn điền, chùa to, tượng lớn, lo giao dịch buôn bán. Có tiền nhiều thì lo mua thêm đất mới để khai thác đầu tư.

Một hôm sư phụ trở về không thấy túp lều tranh mộc mạc mà thay vào đó là một ngôi chùa khang trang tráng lệ. Khách hành hương nô nức, ồn ào cúng vái vang xin. Sau khi nghe người đệ tử giải thích nguồn cơn, sư phụ chỉ thở dài mà nói:”Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tu tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Than ôi chỉ vì một chiếc áo ránh mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lạc đường lúc nào không hay. Nếu mình bị trói buộc vào các thứ đó rồi thì làm sao có thể giải thoát được?”.

Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng sau khi được ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền Tổ vị thì đi về phương Nam và phải sống trên 16 năm ròng rả với bọn thợ săn để mai danh ẩn tích. Hằng ngày Ngài phải hái rau cải mà đem nấu chung trong nồi thịt của những người thợ săn. Khi ăn thì Ngài chỉ lựa rau mà ăn chớ không ăn thịt. Mãi đến năm 676 tây lịch khi biết thời cơ hoằng pháp đã đến nên Ngài mới rời rừng núi đi Quảng Châu và sau đó xuống Quảng Đông đến chùa Bửu Lâm miền Tào Khê để hoằng pháp độ sinh. Ngài qua đời năm 713 tây lịch thọ 76 tuổi. Khi ra đi Ngài chỉ ngồi xếp bằngan nhiên thị tịch. Vua Đường Hiến Tông truy phong Ngài là Đại Giám thiền sư và đổi tên chùa Bửu Lâm thành Nam Hoa tự. Trải qua hơn một ngàn năm mà nhục thể của Ngài vẫn còn y nguyên không hề bị hư hại. Nam Hoa tự là một ngôi chùa khá lớn nằm ẩn giữa hai ngọn đồi. Phía sau chùa là một rừng tùng bách xanh um, phong cảnh thiên nhiên vắng lặng. Con đường dẫn vào chùa với những hàng trúc chạy dài. Phía sau chánh điện là một căn phòng nhỏ, trình bày rất giản dị, không có đồ đạc gì đặc biệt ngoài một chiếc ngai lớn bằng gổ có màn trướng bao bọc chung quanh. Bên trong là nhục thân của Lục Tổ, thân hình đen bóng như gỗ mun ngồi xếp bằng trên chiếc ngai. Khác với những xác ướp Ai Cập thì bên ngoài thường được quấn vải liệm rất kỹ nhưng khi cởi các tấm vải đó ra thì thể xác bên trong bị hư hại rất nhiều. Phần lớn da thịt đều nát vụn ra từng mảnh, dù nó được ướp bằng những chất hóa học rất tốt. Và sau khi khai quật thì những xác ướp nầy phải được đặt trong phòng có máy điều hòa không khí để chống lại sự tàn phá của thời gian. Trong khi nhục thể của Lục Tổ không hề quấn vải liệm và toàn thân nguyên vẹn không có một dấu vết hư hại nào. Năm 1966 giáo sư Koshiro, viện trưởng viện đại học y khoa Washeda của Nhật Bản đã cầm đầu một phái đoàn qua Trung Hoa để khảo sát về hiện tượng nầy. Ông đã được phép dùng một cái khoan nhỏ đâm vào nhục thân Lục Tổ để lấy ra một mẩu thịt đem về Nhật khảo sát. Kết quả cho thấy đó quả là một xác người chớ không phải là một pho tượng và cũng không có bằng chứng gì nhục thể của Lục Tổ được ướp bằng chất thuốc nào. Giáo sư Koshiro đã xác định là vì một lý do nào đó mà thể xác đã hóa thạch một cách tự nhiên.

Phải chăng đây là một phép lạ? hay là sức mạnh kỳ diệu của nội tâm của Ngài đã tỏa ra khiến da thịt Ngài trở nên rắn chắc như Kim Cươngtrường tồn bất hoại?

Nhắc lại trước đó hai trăm năm khi Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào Trung Quốc thì Ngài rất thất vọngPhật giáo thời bấy giờ quá chú trọng về hình thức, lấy phương tiện làm cứu cánh mà quên đi giải thoát giác ngộ mới là điều tối thượng. Tuy đã được ban Tổ vị nhưng rất nhiều người không tin một kẻ thất học, xuất thân từ miền biên thùy hoang dả như Huệ Năng lại có thể tu hành chứng đắc được. Mặc dù Lục Tổkiến thức về tuệ giác bát nhã thâm sâu nhưng số người theo Thần Tú quá đông nên họ không bao giờ chấp nhận việc Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho Huệ Năng. Có lẽ Ngài để lại nhục thân bất hoại là một bằng chứng hùng hồn rằng cái kiến thứccon người có thể học được từ sách vở từ chương so với cái trí tuệ siêu tuyệt của người tu chứng đắc vốn khác nhau rất xa. Cái trí thức của kẻ phàm phu và cái trí tuệ của bậc thượng trí có thể ví như đom đóm mà so với trăng rằm vậy.

Đối với Phật giáo Việt Nam thì tại Chùa Đậu tỉnh Hà Tây (miền Bắc) cũng có hai anh em thiền sư Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật. Sau 100 ngày các thiện tín Phật tử mở cửa am thấy hai vị thiền sư vẫn ngồi theo thế nhập thiền và có mùi thơm. Nhục thể biến thành đá và ngày nay vẫn còn tại chùa để Phật tử chiêm bái.

Phật giáo Tây tạng (Tibetan Budhism) có một lịch sử rất thăng trầm. Đạo Phật truyền vào Tây tạng từ thế kỷ thứ bảy dưới triều đại vua Songsen Gampo, nhưng mãi đến thế kỷ thứ tám dưới triều đại vua Trisong Detsen, Phật giáo mới bắt đầu phát triển nhờ sự giúp đở của một nhà sư Mật tông (Tantrism) Ấn độ tên là Padmasambhata. Nhưng mãi đến năm 1041 có đại sư Atisha lúc bấy giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamasila ở Ần độ nhận lời mời của vua Yeshe-O đến Tây Tạnghoằng dương Phật phápPhật giáo bắt đầu phát triển rất mạnh. Ở Tây tạng tất cả các tu sĩ đều phải trải qua một kỳ thi về Phật học. Nếu thi đậu thì họ được gọi là “Trappa” tương đương với chữ “Bhiksu” tức là Tỳ Kheo. Còn danh từ Lạt Ma có nghĩa là một vị học giả, dùng gọi cho tất cả những người thi đậu kỳ thi về Phật học. Lạt Ma gồm có cư sĩ và tăng sĩ. Trước khi đạo Phật du nhập thì Tây tạng đã có đạo Bon Pa chuyên về huyền học, thần thông. Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa Phật giáo vào con đường suy vong. Vì có nhiều giáo hội, dần dần các tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, giải đáp là số tử vi, bùa chú thư phù…Các tinh hoa Phật pháp được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi Phật tử xây chùa, đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành Lạt Ma khỏi cần tu học. Cho đến thế kỷ thứ 14 có vị tu sĩ tên Tsong Khapa (1357-1419) mới bắt đầu phong trào chấn hưng Phật giáo và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái Mũ Vàng (Gelugpas) và Mũ Đỏ (Dugpas). Tất cả 14 vị Đạt Lai Lạt Ma đều xuất thân từ phái Mũ Vàng nhưng phái Mũ Đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số đông. Mãi cho đến vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 là Lobsang Gyatso (La bốc tạng Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm bậy. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ (Trappa). Các tu sĩ phải thi đậu những kỳ thi Phật học mới được bổ nhiệm làm trụ trì tại các tu viện nhưng cũng chỉ ở đây một thời gian ấn định để tránh sự quyến luyến, tham ái tức là chùa của bá tánh mà xem là của mình. Sau thời gian hoằng dương giáo pháp, các tu sĩ được đưa đến những tu viện khác để học hỏi thêm. Phật giáo Tây tạng tiếp tục phát triển cho đến năm 1950 khi Trung Cộng đưa quân xâm chiếm đất Tây tạng khiến cho vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là Tenzin Gyatso (Đăng châu Gia mục thố) bị giam lỏng tại Potala trong chín năm liền cho đến tháng tư năm 1959 mới trốn thoát và tỵ nạn tại Dharamsala mà sau nầy có tên là “Little Lhassa”, gần biên giới Tây tạngẤn Độ sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, cho tới ngày nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11639)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11351)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17988)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9952)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15346)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11244)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12100)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10619)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14845)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19671)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12673)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12269)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11641)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12615)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13053)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11487)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant