- Phần Giới Thiệu
- Tiểu Sử Pháp Sư Cưu Ma La Thập
- 01. Phẩm Phật Quốc
- 02. Phẩm Phương Tiện
- 03. Phẩm Đệ Tử: Hàng Thanh Văn
- 04. Phẩm Bồ-Tát
- 05. Phẩm Văn Thù Sư Lợi
- 06. Phẩm Bất Tư Nghì
- 07. Phẩm Quán Chúng Sinh
- 08. Phẩm Phật Đạo
- 09. Phẩm nhập “Pháp Môn Không Hai”
- 10. Phẩm Phật Hương Tích
- 11. Phẩm Hạnh Bồ-tát
- 12. Phẩm Thấy Phật A Súc
- 13. Phẩm Pháp Cúng Dường
- 14. Phẩm Chúc Lụy
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng
Phẩm Hạnh Bồ-tát
(Việc Làm Của Bồ-tát)
(The Practices of Bodhisattvas)
Đức Phật đang thuyết pháp ở trong một vườn xoài Am la cây to hàng rợp bóng. Lúc bấy giờ đất vườn bỗng nhiên trở nên rộng rãi bao la khác thường, cành lá vườn cây đổi màu mơn mởn xanh tươi, trăm hoa đua nở rực rỡ sắc màu, lã lướt đong đưa trong làn gió nhẹ. Cảnh vật tựa hồ như hân hoan chào đón …Tất cả đại chúng trong hải hội tự nhiên đến trở thành màu hoàng kim rạng rỡ hào quang.
Thấy hiện tượng lạ, ông A Nan thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cảnh vật trong vườn hiện ra điềm lạ thế kia. Đất của vườn xoài bỗng nhiên rộng rãi bao la, cây cối xanh tươi, trăm hoa rực rỡ sắc màu, mọi vật có vẻ như hân hoan khác lạ. Đại chúng trong hải hội đều trở thành một màu hoàng kim rực rỡ.
Đức Phật bảo A Nan:
- Hiện giờ ông Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đang phát khởi ý muốn đến ra mắt Ta. Họ đang cung kính đi nhiểu quanh, trước khi đến đây cho nên ứng ra điềm ấy.
Mỗi khi Bồ-tát thị hiện ở bất cứ nơi nào thì kinh thường diễn tả cảnh vật ở đó bỗng nhiên trở thành trang nghiêm rực rỡ làm cho đại chúng thêm hoan hỉ. Người Ấn độ có màu da hơi sạm đen vì thời tiết quá nóng, nay tất cả mọi người thấy màu da của mình chuyển thành màu vàng kim tức là màu đẹp đẽ tôn quý nên tất cả càng thêm hoan hỉ. Đất của vườn xoài Am la bỗng nhiên rộng rãi bao la nghĩa là tâm của chúng sinh ví như Đất (tâm địa) thì mở rộng sẳn sàng đón nhận tư tưởng Đại thừa. Khi nội tâm đã hoán chuyển thì ngoại cảnh cũng biến hiện theo nghĩa là nếu nội tâm có tinh thần sáng suốt thì hình tướng bên ngoài cũng theo nhãn thức sáng suốt, tốt đẹp mà hiển hiện. Thí dụ như nếu chúng ta nghĩ lành, làm tốt thì trong tâm địa của mình chuyển thành những hiện tượng đẹp vui, thanh thoát. Ngược lại nếu mình muốn ám hại ai thì trong tâm địa tức thì ứng hiện những cảnh xấu xa A tỳ, địa ngục. Nói một cách rộng rãi hơn là mỗi khi chúng ta khởi ý niệm làm những việc tốt đẹp lợi ích cho chúng sinh thì tâm (địa) của mình chính là tâm của Bồ-tát. Hay khi đang làm việc lành, việc thiện thì cái tâm (địa) của chúng ta trong thời điểm đó rất hân hoan, khoan khoái, nhẹ nhàng, đẹp đẽ, hào quang sáng chói như Bồ-tát. Trái lại nếu chúng ta đang làm việc bất thiện, hại người lợi mình thì cái tâm (địa) lúc bây giờ nặng nề, lo âu, sợ hãi, đầy chướng khí như ma quỷ.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với Đại Trí Văn Thù Sư Lợi rằng:
- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Chúng ta nên đến ra mắt Đức Thế Tôn. Nhân cơ hội này để chư Bồ-tát tham kiến và lễ bái cúng dường Đức Phật.
Bồ-tát Văn Thù nói:
- Ý kiến rất hay. Thật là đúng lúc. Vậy chúng ta nên cùng đi.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bèn dùng thần lực, dời tất cả đại chúng trong lúc mọi người vẫn ngồi trên tòa sư tử, để lên bàn tay phải của mình sang đến chỗ Phật. Đến nơi để xuống dưới đất. Ông Duy Ma Cật đê đầu, lễ dưới chân Phật. Đi hữu nhiểu bảy vòng, chắp tay cung kính đứng qua một phía. Các Bồ-tát, hàng đệ tử Thanh văn, trời Đế Thích, Phạm Thiên, tất cả rời khỏi tòa ngồi, dập đầu dưới chân Đức Phật cùng đi hữu nhiểu bảy vòng và đứng sang một phía.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn tỏ lời thăm hỏi trong đạo tình thân thiết đối với toàn thể đại chúng và mọi người hãy an tọa trở lại bản tòa.
Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng:
- Xá Lợi Phất! Ông đã thấy sức thần thông tự tại của bậc đại sĩ Bồ-tát làm rồi chứ?
- Dạ! Bạch Thế Tôn, con đã thấy. Ông Xá Lợi Phất thưa.
Phật hỏi: Ý ông thế nào?
Bạch Thế Tôn! Con thấy việc làm của Bồ-tát khó có thể nghĩ bàn. Vượt ra ngoài sự suy lường của tâm, sự nghĩ ngợi của ý.
Chúng ta đã quen thuộc với Thập Huyền Duyên Khởi hay Mười Lý Huyền Diệu của các Pháp thì có thể quán trí mà thấy được Bản Thể dung thông vô ngại và vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật vì thế tuy ông Duy Ma Cật có vận thần thông đặt tất cả những tòa sư tử đồ sộ như thế lên một bàn tay và dời đến chỗ Phật thì tất cả cũng chỉ là tư tưởng, hình ảnh mà thôi chớ không phải bằng vật chất thật. Trong Hoa Nghiêm tôn do ngài Đỗ Thuận lập ra đời Đường chủ trương “Pháp giới duyên khởi” nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật trong vũ trụ bao la, từ nhỏ như hạt bụi đến lớn như trăng sao đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng không tận, dung thông nhau, đối chọi nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Cái này có là nhờ cái kia và ngược lại. Cái này, cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tận nên được gọi là “trùng trùng duyên khởi”.
Pháp giới duyên khởi có bốn giai đoạn:
1)Sự pháp giới: Sự là nói về hình tướng khác nhau của các pháp trong vũ trụ. Thí dụ như nước đá nước sôi, hơi nước đều có tướng trạng khác nhau.
2)Lý pháp giới: Lý là nói về cái phần bên trong tức là thế giới vô hình của sự vật. Đây chính là lý Tánh bình đẳng, là chỗ nương tựa cho tất cả sự Tướng. Thí dụ tuy có nước lạnh, nước sôi, nước đá, hơi nước, nhưng Thể Tánh vẫn là một, là nước.
3)Lý Sự vô ngại pháp giới: Lý do Sự mà biết, còn Sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung thông. Thí dụ như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự dung thông vô ngại.
4)Sự Sự vô ngại pháp giới: Trong pháp giới có hằng hà sa số sự vật, hình tướng tuy khác nhau, nhưng Lý Tánh lại dung thông bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Thí dụ có nhiều cái hồ chứa nước lớn nhỏ khác nhau, hình dáng khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những ống nước. Do đó sự đầy vơi, dơ sạch của một hồ đều liên quan đến tất cả các hồ khác. Thí dụ nầy là để quý độc giả có một khái niệm về sự dung thông bất tận, nhưng thật ra Lý Tánh thì vô hình tướng thì làm sao mà giải thích, so sánh được. Nếu nhìn về tướng trạng thì thấy có lớn có nhỏ, có ngăn ngại tức là cái nhỏ làm sao chứa cái lớn hay làm sao bưng cả vũ trụ vào bàn tay được, nhưng nếu dựa vào Lý Tánh thì tất cả là tư tưởng, là chân không thì làm gì có lớn có nhỏ nên dung thông mà không ngăn ngại. Thí dụ nhìn qua kính Hubble thì tất cả vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng chỉ nằm gọn trong cái thấu kính mà thôi, không hề ngăn ngại.
Những thí dụ trên là cốt gợi lên cho độc giả một ý niệm về sự sự vô ngại pháp giới thôi, chứ thật ra Lý, Sự không thể phân tách ra được nghĩa là trong Lý có Sự và trong Sự có Lý rồi.
Vì là trùng trùng duyên khởi nên một là tất cả và tất cả là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Đây chính là “sự sự vô ngại pháp giới” vậy.
Nói tóm lại tất cả những chân lý trên nhằm một mục đích nhận chân được rằng: Các pháp một và nhiều không ngăn ngại nhau, lớn và nhỏ trùm nhau, lớp lớp không cùng không tận, ẩn hiện tự tại, đồng thời tương túc tương nhập, thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la. Do đó khi nhận chân được “Lý trùng trùng duyên khởi” tức là “sự sự vô ngại pháp giới” thì chúng sinh sẽ không còn nghĩ rằng việc ông Duy Ma Cật đem bao nhiêu tòa sư tử để vào một bàn tay mà đưa đến chỗ Phật là chuyện thần thoại hoang đường. (Nhắc lại những chân lý nầy không phải dễ hiểu, xin quý độc giả nên đọc lại nhiều lần ý nghĩa của Thập Huyền Duyên Khởi trong phẩm Bất Khả Tư Nghì và Pháp Giới Duyên Khởi ở trên để tư duy quán chiếu thì mới thấy lẻ huyền diệu của kinh. Khi đã thấu hiểu những chân lý nầy thì chúng sinh nhìn vật thể, vũ trụ bằng lối nhìn rất thực tế và hảnh diện vì Phật giáo có thể giải thích mọi hiện tượng cấu thành của nhân sinh vũ trụ rất chính xác và khoa học).
Bấy giờ ông A Nan đứng lên hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay trong bầu không khí của hải hội có mùi hương kỳ diệu mà từ trước chưa từng có, chúng con không biết đó là thứ hương gì?
Phật bảo:
- Đó là mùi hương phát ra từ lỗ chân lông của các Bồ-tát vừa mới đến.
Ông Xá Lợi Phất nói với ông A Nan:
- Từng lỗ chân lông của tôi cũng phát ra mùi hương ấy.
A nan hỏi:
- Do đâu ngài có được mùi hương ấy?
- Do ông Duy Ma Cật xin được cơm dư của Phật Hương Tích ở nước Chúng Hương đem về tịnh thất của ông. Những ai được ăn cơm ấy, lỗ chân lông đều phát ra mùi hương như thế.
- Mùi hương ấy có thể giữ lại trong người bao lâu mới hết?
- Cho đến khi nào cơm tiêu thì mùi hương mới hết.
- Cơm ấy bao lâu mới tiêu?
Thế lực của cơm này sau bảy ngày mới tiêu.
Thưa ngài A nan! Nếu người Thanh văn chưa chứng nhập chánh vị, ăn cơm này, đến khi tâm được giải thoát, cơm mới tiêu. Nếu chưa phát ý Đại thừa, ăn cơm này đến khi phát ý, cơm mới tiêu. Đã phát ý Đại thừa, ăn cơm này đến khi được vô sanh pháp nhẫn, cơm mới tiêu. Đã được vô sanh pháp nhẫn, ăn cơm này đến khi được nhất sanh bổ xứ, cơm mới tiêu. Ví như có thứ thuốc tên là thượng vị, người uống thuốc này, các chất độc trong thân hết, vị của thuốc mới tiêu. Cơm này cũng thế. Chừng nào dứt trừ hết các độc phiền não, nhiên hậu cơm mới tiêu.
Ông A Na thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có. Cơm này có thể làm nên Phật sự!
Cơm trong kinh nầy là cơm hương nghĩa là cơm giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến chớ không phải là cơm lúa gạo của thế gian. Nhưng thế nào là giải thoát và giải thoát tri kiến? Đó là diệt trừ ngã chấp và pháp chấp không ngừng nghĩ vì thế trong tâm thức lúc nào cũng tư duy quán chiếu để diệt ngã và diệt tất cả những ý niệm về chấp pháp. Do đó ngửi thấy mùi hương là thâm nhập giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến hương thì tự mình đã có an vui tự tại, giải thoát cũng như từng lỗ chân lông tiết ra mùi hương vậy. Cơm gạo thì nuôi dưỡng thân mạng của mình, nhưng cơm hương chỉ là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, là Pháp thực để nuôi Huệ mạng. Thí dụ một người chưa biết Phật pháp mà sau khi ngửi cơm hương nên quyết tâm thọ trì tam quy ngũ giới thì cơm mới tiêu. Còn nếu người đã biết tam quy ngũ giới và sau khi ngửi cơm hương nên quyết tâm tu để thành đạt Tu Đà Hoàn thì cơm mới tiêu. Nói tóm lại mùi thơm của cơm hương kéo dài cho đến khi hàng Thanh văn phát tâm tu theo Đại thừa, được vào chánh vị, có giải thoát, chứng được vô sanh pháp nhẫn và còn một đời nữa thành Phật thì cơm mới tiêu. Cơm hương nầy chính là giáo lý Nhất thừa Phật Đạo có công năng đưa tất cả mọi người và đặc biệt là hàng Thanh văn tới quả vị Phật.
Phật nói:
- Đúng vậy! A Nan! Có cõi Phật lấy ánh hào quang Phật làm Phật sự hoặc có cõi lấy Bồ-tát làm Phật sự. Cõi lấy hóa nhơn Phật làm Phật sự. Cõi lấy cây Bồ-đề làm Phật sự. Cõi lấy y phục ngọa cụ của Phật làm Phật sự. Cõi lấy cơm ăn làm Phật sự. Cõi lấy vườn rừng, đài quán làm Phật sự. Cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy chiêm bao, huyễn ảo, âm vang, hình trong gương, trăng trong nước, bóng giả mã, các thí dụ như thế làm Phật sự. Cõi lấy âm thanh, ngữ ngôn văn tự làm Phật sự. Cõi lấy quốc độ thanh tịnh bằng bặc vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vô tác, vô vi mà làm Phật sự.
Như thế đấy A Nan! Nhất nhất oai nghi, đi đứng tới lui, động tịnh của chư Phật không một cử chỉ nào không làm nên Phật sự.
Đức Phật dạy tiếp:
- Này a nan! Có cõi Phật dùng cả tứ ma, dùng cả 84,000 phiền não trần lao. Đối với những thứ đó, chúng sinh cho là những thứ phiền lụy, khổ đau, mỏi mệt. Thế mà chư Phật lại lấy những pháp đó mà làm nên Phật sự. Làm được những việc như thế, gọi đó là thể nhập Nhất Thiết Chư Phật Pháp Môn. Bồ-tát thể nhập pháp môn đó, giả sử thấy tất cả cõi thanh tịnh đẹp đẽ cũng không lấy làm mừng, không khởi ý tham cầu, không móng tâm cao ngạo. Giả sử thấy cõi Phật không thanh tịnh, cũng không bị ám ảnh ưu tư, không ngại ngùng khởi tâm trốn tránh. Lúc nào cũng vững tâm thanh tịnh đối với chư Phật, hoan hỉ cung kính như được cái chưa từng có. Vì biết rằng chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sinh mà hiện cõi Phật không giống nhau.
Phương tiện để chúng sinh phát tâm tu hành thì rộng rãi bao la. Cõi Ta bà thì Phật Thích Ca sử dụng Hương Trần làm Phật sự trong khi đó cõi Chúng Hương, Đức Hương Tích lại dùng Hương Trần làm Phật sự. Có cõi Phật chỉ lấy ánh hào quang Phật hoặc thân Phật mà làm Phật sự. Có cõi lấy Bồ-tát, lấy cây Bồ-đề, lấy y phục, cơm ăn, lấy chiêm bao, lấy hình trong gương, ảnh dưới nước làm Phật sự. Vì thế nếu chúng sinh biết cách nhìn đối tượng thì bất cứ việc gì cũng đều là Phật sự cả. Cho nên tất cả các việc đều là việc Phật và tất cả các Pháp đều là Phật Pháp. Có người thấy sự thanh tịnh của Bồ-tát và chư Phật nên phát tâm tu hành. Còn có người thấy kẻ khác bị quả báo đau khổ, bệnh tật hiểm nghèo, chết dở sống dở đâm ra lo sợ cho chính mình nên mới chịu tu tâm dưỡng tánh. Nhiều người thấy cảnh chùa trang nghiêm thanh tịnh nên ham mộ mà tụng kinh niệm Phật. Ngược lại có người thấy chúng sinh làm ác mà tự mình phát tâm Bồ-đề. Ngay cả Phật dùng cả các ma chướng phiền não để làm Phật sự với mục đích dùng nghịch cảnh trái lòng mà thử thách tâm kiên nhẫn và tánh kiên trì của người tu hành. Vì thế Bồ-tát nên phát tâm thanh tịnh vô phân biệt mà làm Phật sự, dù thấy cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm cũng không mừng, không tham muốn hay khởi tâm kiêu mạn hoặc dù thấy cõi Phật không trang nghiêm thanh tịnh thì cũng không lo âu, không ngại ngùng và không trốn tránh. Đối với chư Phật thì công đức rất bình đẳng, không cao thấp, không dị biệt, nhưng vì giáo hóa chúng sinh nên mới hiện ra nhiều cõi Phật không giống nhau. Biết và làm được như thế thì thể nhập Nhất Thiết Chư Phật Pháp Môn vậy.
A Nan! Đất đai cõi nước của chư Phật có giới hạn mà hư không thì không có giới hạn. Cũng vậy, nhìn thấy sắc thân của chư Phật có giới hạn mà trí tuệ vô ngại của chư Phật thì không có giới hạn.
A Nan! Sắc thân của chư Phật oai nghi, tướng hảo, chủng tánh giới, định, tuệ, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng pháp, đại từ, đại bi, oai nghi sở hành, thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sinh, tịnh Phật quốc độ…Các phương tiện để thành tựu Phật pháp trọn vẹn thì đều bình đẳng giống nhau. Vì thế cho nên gọi là Chánh Giác, gọi là Chánh biến tri giác, gọi là Vô thượng Chánh biến tri giác.
A Nan! Nếu Như Lai nói đủ nghĩa ba câu này, dầu suốt đời của ông cũng không lãnh thọ hết được. Giả sử chúng sinh đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, có khiếu đệ nhất đa văn như A Nan được chánh niệm có sức tổng trì, những người đó dùng trọn kiếp thọ mạng cũng không lãnh hội được hết. Như thế đó A nan! Vô thượng chánh biến tri giác của chư Phật không có hạn lượng. Trí tuệ biện tài không thể nghĩ bàn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1) Pháp thân (Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật tánh có sẳn trong tất cả mọi người.
2) Báo thân (Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành trải qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được gọi là tự thọ dụng thân.
Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.
Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẽ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.
3) Ứng thân hay biến hóa thân (Nirmanakaya) Chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân cũng được gọi là tha thọ dụng thân.
Đối với Phật giáo thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể biết được và cái trí tuệ của Phật thì vô cùng vô tận không thể nghĩ bàn. Thí dụ như uống một tách trà nóng rất thơm ngon thì chỉ có mình mới biết sự khoái lạc về tách trà nầy. Khi chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân.
Tóm lại ba thân của Đức Phật là: Pháp thân là Thể, Báo thân là Tướng và Ứng thân là Dụng. Tuy nói ba mà là một, tuy một mà ba tức là một là tất cả và tất cả là một.
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Phạn âm là Anuttara- samyak-sambodhi nghĩa là sự giác ngộ cao tột nhất tức là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Phật Đà hay đọc gọn là Tam Miệu Tam Phật Đà. Còn Chánh Biến Tri, Chánh Biến Giác là sự hiểu biết chân chánh cùng khắp các pháp. Ngoài ra còn hai danh hiệu khác để tôn xưng bậc toàn giác là Đa Đà A Dà Độ và Phật Đà.
Đa Đà A Dà Độ, Phạn âm là Tathagata nghĩa là Như Lai tức là người giữ tâm bất động. Như Lai không từ đâu đến và không đi về đâu, là đấng giác ngộ chân chính.
Phật Đà, Phạn âm là Buddha, tiếng Trung Hoa dịch là Giác Giả nghĩa là người đã hoàn toàn giác ngộ và thấu hiểu Chân Lý tuyệt đối.
A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, con không còn dám nghĩ mình đa văn nữa.
Phật bảo:
- A Nan! Ông đừng suy thoái lý chí như thế. Từ trước Như Lai vẫn nói ông là đa văn đệ nhất đó. Nhưng đệ nhất trong hàng Thanh văn chứ không phải đệ nhất với hàng Bồ-tát. Ông hãy an tâm đi. Là người có trí, không ai so lường trí tuệ của các hàng Bồ-tát! Tất cả vực sâu, biển cả còn có thể đo lường chứ thiền định, trí tuệ biện tài, sức tổng trì và công đức của chư Bồ-tát thì không thể lường biết.
- A Nan! Ông hãy gác qua những việc làm của Bồ-tát, đừng nghĩ ngợi so bì nữa! Sức thần thông biến hiện của ông Duy Ma Cật chừng một giờ thôi, tất cả Thanh văn, Bích chi Phật dùng hết sức biến hóa trải trăm ngàn kiếp cũng không làm sao bằng được.
Đa văn là nghe nhiều, nhớ sâu và học rộng. Tôn giả A Nan tuy là đệ nhất đa văn vì có nhân duyên gần gủi với Đức Phật nhiều nhất trong hàng Thanh văn, nhưng vì không chịu tu rốt ráo nên trong thời gian Phật còn tại thế vẫn chưa chứng quả A La Hán. Trong khi rất nhiều đệ tử khác của Phật, ngay cả nàng Ma Đăng Già, tuy học kém hơn A Nan rất xa, nhưng nhờ quyết tâm công phu tu tập nên đều chứng quả A La Hán. Đức Thích Ca tán thán công đức trí tuệ của mười phương chư Phật vô cùng vô ngại không có giới hạn và giáo lý Đại thừa cao siêu nhiệm mầu làm ông A Nan đem lòng sợ hãi, không còn dám tự nhận mình là đa văn. Ông A Nan tự biết mình còn kém xa hàng Bồ-tát nên thoái chuyển tự ti, không dám múa riều qua mắt thợ cũng như ngày xưa Tôn Tử có câu:”Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng” nghĩa là biết mình biết người trăm trận trăm thắng. Trong đoạn kinh này, Đức Phật đề cao hàng Bồ-tát là có ý muốn khuyến khích hàng Thanh văn tinh tấn phát tâm tu hành để tiến tới quả vị Bồ-tát và sau cùng thành Phật chớ đừng tự mãn hay thỏa chí ở quả vị A La Hán.
Các Bồ-tát từ thế giới Chúng hương đến dự, lúc bấy giờ chắp tay bạch với Đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con khi mới đến cõi này, thoạt đầu chúng con có ý tưởng hơi xem thường. Giờ đây, chúng con rất ăn năn tự trách và ý nghĩ đó không còn. Vì chúng con được hiểu rằng phương tiện của chư Phật không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sinh tùy phước đức và căn cơ của họ mà ứng hiện cõi nước Phật có khác.
Không riêng gì Bồ-tát ở cõi Chúng Hương thoạt đầu đã nghĩ rằng thế giới Ta bà nầy là ô trược, xấu xa, gồ ghề, bất toàn mà ngay cả tôn giả Xá Lợi Phất cũng đã nói như thế trong phẩm Phật Quốc. Chính Đức Phật Thích Ca đã hóa giải bằng cách lấy ngón chân ấn xuống đất để cho ông Xá Lợi Phất thấy rằng cõi Ta bà cũng rất thanh tịnh, nhưng vì muốn độ những kẻ căn cơ hạ liệt nên mới thị hiện ra cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh mà thôi. Bây giờ các vị Bồ-tát biết rằng cõi Ta bà của Phật Thích Ca thật sự không xấu xa bất tịnh như chúng sinh luôn lầm tưởng mà thật ra nhơ xấu bất tịnh là bởi tại chúng sinh. Vì tốt hay xấu là bởi tâm cho nên kinh dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh” là vậy. Chính Đức Phật Thích Ca thị hiện trong thế giới nầy là vì muốn cứu độ, giáo hóa chúng sinh chớ không phải vì Ngài kém đức nên phải bị đọa vào cõi Ta bà. Tại sao? Bởi vì thế giới trong mười phương chư Phật đều bình đẳng như nhau, không có thế giới nào đẹp hay xấu hơn thế giới nào. Đã là Phật thì các Ngài đều có tâm thanh tịnh bình đẳng như nhau. Mà đã có tâm tịnh rồi thì cho dù các Ngài có thị hiện ở thế giới nào thì cõi ấy cũng trở thành thanh tịnh.
Tới đây có người thắc mắc là thế giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà làm toàn bằng Vàng, Bạc, Lưu ly, Xà cừ, Trân châu, San hô, Mã não thì chắc chắn phải tốt hơn cõi Ta bà đầy uế trược, ghồ ghề, sỏi đá của Phật Thích Ca rồi?
Đối với phàm nhân thì thất bảo là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô, mã não là những vật cao quý nhất. Còn đối với thánh nhân thì bảy món cao quý vật chất của thế gian là để ám chỉ cho Thất Thánh Tài. Đó là: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông xả và Trí tuệ. Phàm nhân thì cho vàng bạc là cao quý tốt đẹp nhất, còn đối với người giải thoát giác ngộ thì vàng bạc là nguồn gốc của phiền não khổ đau. Phàm nhân thì quý trọng thất bảo còn người giác ngộ thì Thất thánh tài mới là cứu cánh.
Vàng là vật cao quý chẳng khác gì Giới
Bạc là sự thay trắng đổi đen nên ám chỉ cho Tín tức là lòng tin tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.
Lưu ly là lưu chuyển tượng trưng cho Văn tức là tánh nghe.
Xà cừ có hình tướng xấu xa nên ám chỉ cho Sám hối.
Trân châu là thanh cao tượng trưng cho Tinh tấn.
San hô thì tượng trưng cho Buông xả.
Mã não thì sáng chói tượng trưng cho Trí tuệ.
Thất thánh tài là bảy chất liệu làm cho tâm tịnh vì thế hễ có tâm tịnh thì dĩ nhiên có cõi Phật tịnh nghĩa là Ta bà tức là Tịnh độ.
- Dạ! Kính bạch Thế Tôn! Chúng con mong mỏi Thế Tôn cho chúng con xin một lời dạy để khi trở về bổn độ, chúng con được nhớ Như Lai mãi mãi.
Phật dạy:
Này các Bồ-tát! Như Lai có pháp môn HỮU TẬN VÔ TẬN GIẢI THOÁT. Các ông nên học.
Hữu tận tức là pháp hữu vi. Vô tận tức là pháp vô vi. Phàm là Bồ-tát, phải tu học Bất Tận Hữu Vi, Bất Trụ Vô Vi.
1) Bất Tận Hữu Vi nghĩa là Bồ-tát không rời tâm đại từ, không gián đoạn lòng đại bi. Phá tâm cầu nhất thiết trí sâu sắc không tâm xao lãng. Giáo hóa chúng sinh không nài mỏi mệt. Đối với pháp Tứ nhiếp thường nhớ nghĩ làm theo. Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, trồng căn lành không biết mỏi mệt. Tâm thường an trú trong các phương tiện, ý chí hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Cầu pháp không giải đải. Thuyết pháp không lẫn tiếc. Siêng cúng dường chư Phật, cho nên vào sanh tử mà không sợ. Được vinh quang không vui mừng kiêu hãnh. Bị khổ nhục không buồn bã nản lòng. Không khinh người chưa học. Kính người học như kính Phật. Ai sa vào phiền não khiến cho họ phát khởi chánh niệm. Viễn ly được dục lạc không lấy đó làm tự hào. Mình được vui, không luyến ái đam mê. Người được vui khởi tâm vui mừng tùy hỷ. Tâm trụ thiền định mà khởi tưởng như ở địa ngục. Ở trong sanh tử, khởi tưởng như đang dạo chốn hoa viên. Có người đến cầu xin, khởi tưởng như vị thầy tốt. Xả bỏ hết sở hữu, khởi tưởng thành tựu nhất thiết trí. Thấy người hủy phạm điều răn, khởi tưởng cứu hộ. Các ba-la-mật khởi tưởng như cha mẹ. Những pháp trợ đạo phẩm khởi tưởng như quyến thuộc. Trồng các căn lành không hạn chế. Dùng những việc trang nghiêm tịnh Phật quốc độ xây dựng Phật độ cho mình. Thực hành bố thí ba-la-mật để được đầy đủ tướng hảo. Trừ bỏ tất cả hành vi ác để thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Dù sanh tử vô số ức kiếp ý chí vẫn tích cực lạc quan. Nghe Phật có vô lượng công đức, không có ý mỏi mệt thoái thoát tự khinh. Dùng gươm trí tuệ đánh dẹp giặc phiền não. Ra khỏi ấm giới nhập gánh vác chúng sinh. Hằng ở trong giải thoát, dùng sức đại tinh tấn hàng phục ma quân. Thường trụ trong vô niệm mong được trí tuệ thực tướng. Thực hành thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian. Không sai trái oai nghi mà có thể tùy thuận việc làm thế tục. Vận dụng thần thông, kích khởi trí dẫn dắt chúng sinh. Trụ trong chánh niệm được sức tổng trì, nghe học chân lý, thường không quên sót. Khéo phân biệt căn tánh, cắt đứt mọi nghi ngờ của chúng sinh trong những điều nghi vấn. Lạc thuyết biện tài, nói pháp không mâu thuẩn trước sau. Hành thập thiện trong sáng, hưởng thụ phước báu nhơn thiên. Tu tứ vô lượng tâm mở đường giác ngộ cho Đế Thích, Phạm Thiên. Khuyến thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ mọi việc lành. Được âm thanh thánh thiện, thân khẩu ý đều lành. Được oai nghi Phật tu sâu thiện pháp. Việc lành tập trung, chuyển hướng phục vụ giáo hóa đại thừa. Thành tựu Bồ-tát tăng tâm không phóng dật, không rơi sót tất cả hạnh lành.
Thực hành tốt những điều như thế, gọi đó là Bồ-tát BẤT TẬN HỮU VI.
Tất cả vạn pháp trong thế gian hữu vi nầy từ hữu tình cho đến vô tình đều là “duyên sanh như huyễn” nghĩa là không có một vật gì mà tự chúng có thể sinh tồn mà không nhờ đến những nhân duyên khác. Vì không có tự tánh hay chủ thể nên vạn pháp là vô ngã. Đã là vô ngã nên vạn pháp phải chịu cảnh sinh diệt của vô thường và từ đó vạn pháp mới có khổ và bất tịnh. Dù biết vạn pháp là vô thường, nhưng Bồ-tát vẫn làm mọi việc lợi ích cho chúng sinh. Dù biết vạn pháp là khổ, nhưng Bồ-tát cũng không trốn chạy cảnh đời nhiều đau khổ này. Dù biết vạn pháp là vô ngã và cuối cùng là vạn pháp giai Không, nhưng Bồ-tát vẫn không bỏ sót một cơ hội nào để làm lợi lạc cho chúng sinh. Dù biết vạn pháp là bất tịnh nghĩa là vạn pháp còn nhiều vô minh, ô trược, phiền não và đau khổ, nhưng Bồ-tát không vì thế mà xa lánh. Do đó pháp môn bất tận hữu vi là Bồ-tát không rời bỏ vạn pháp cho dù vạn pháp là không thật, là giả huyễn, là sinh diệt, là ô trược, là phiền não khổ đau.
Bất tận hữu vi cũng có nghĩa là trong thế gian nầy bất cứ việc thiện dù nhỏ cách mấy cũng làm và việc ác cho dù có nhỏ cách mấy cũng lánh xa. Điều thiện tuy nhỏ nhưng khi tích tụ lại cũng thành điều thiện lớn. Còn điều ác nhỏ nhưng nếu chúng ta cứ làm hoài thì sẽ biến thành đại ác. Khi làm công đức cũng vậy, chúng ta làm từ những việc nhỏ mà sau sẽ thành công đức lớn.
1) Bồ-tát BẤT TRỤ VÔ VI nghĩa là Bồ-tát tu học “Vạn pháp giai không” mà không lấy cái KHÔNG làm mục tiêu đối tượng chứng đắc. Tu học “Vạn pháp vô tướng, vô tác” mà không lấy “Vô tướng, Vô tác” làm đối tượng sở chứng sở đắc. Bồ-tát quán vô thường mà làm tất cả việc lành không hề có chán ngán. Quán thế gian khổ mà không oán ghét sanh tử. Quán vô ngã mà hết sức tinh tấn trong việc giáo hóa con người. Quán bản thể của vạn pháp là tịch diệt mà không mong cầu vĩnh viễn diệt như hư không. Quán viễn ly mà thân tâm luôn luôn tu thiện pháp. Quán vạn pháp vô sanh mà lấy pháp sanh để gánh vác tất cả. Quán cảnh giới vô lậu mà không dứt hẳn các lậu. Quán vạn pháp vô hành mà lấy pháp hành giáo hóa chúng sinh. Quán rỗng không, không có gì mà không rời bỏ đại bi. Quán chánh pháp vị mà không theo đường lối của Tiểu thừa. Quán vạn pháp “hư vọng” không bền chắc, không người, không chủ, không tướng nhưng bổn nguyện chưa tròn thì đối với phước đức, thiền định, trí tuệ lại là việc “bất hư”.
Niết bàn, Bồ-đề là an vui tịch diệt thanh tịnh giải thoát hoàn toàn, nhưng Bồ-tát không được để tâm mong cầu trụ chấp ở đó. Nếu Bồ-tát để tâm trụ chấp mong cầu cho dù đó là Niết bàn Bồ-đề thì đây cũng là ý niệm tham. Mà một khi ý niệm tham lam khởi lên thì Bồ-tát đã mất đi tánh chất Niết bàn Bồ-đề vô thượng rồi. Nói một cách khác Vô vi là cứu cánh tột đỉnh của người còn đi trên con đường giải thoát giác ngộ, nhưng cho dù có đạt được mục đích nầy cũng đừng khởi tâm “chấp trụ” và khởi ý “đam mê”. Bởi vì đam mê thì Pháp Vô vi không còn là giải thoát mà trở thành ràng buộc. Còn chấp trụ, cố giữ lấy nó thì tâm không còn thanh tịnh mà biến thành “sợ mất”. Càng lo sợ, mất mát thì cái mất mát sẽ đến nhanh hơn và cái lo bây giờ thành ra cái khổ. Như thế thì Niết bàn Bồ-đề bổng nhiên biến mất và thanh tịnh Vô vi biến thành phiền não khổ đau như lúc ban đầu. Do đó khi đã thấu suốt Bồ-đề, Niết bàn chính là tự tánh thanh tịnh của mình thì mình chỉ cần tự hóa giải tất cả phiền não vô minh tức là tùy thuận Pháp Tánh hay chứng Tánh khởi tu thì tự mình có được Bồ-đề Niết bàn chớ đừng mong cầu, trông đợi Bồ-đề Niết bàn nào ở bất cứ nơi nào hay do Phật, Bồ-tát ban cho. Cho dù các pháp vô vi là an lạc, là tịch tĩnh, là thanh tịnh, là giải thoát, là Bồ-đề Niết bàn, nhưng không vì thế mà đam mê chỉ lo hưởng lạc cho riêng mình trong khi chúng sinh vẫn còn lặn hụp trong biển phiền não khổ đau.
Tu học những pháp như thế gọi là Bồ-tát BẤT TRỤ VÔ VI.
Vì sự nghiệp phước đức đầy đủ, Bồ-tát không trụ vô vi.
Vì sự nghiệp trí tuệ đầy đủ, Bồ-tát không rời bỏ hữu vi.
Vì đại từ bi không trụ vô vi.
Vì trao truyền thuốc pháp không rời bỏ hữu vi.
Vì trừ diệt bệnh chúng sinh không rời bỏ hữu vi.
Này! Các chánh sĩ! Đức Phật dạy tiếp: Bồ-tát thực hiện những pháp “bất tận hữu vi, bất trụ vô vi” rồi thì chính đó cũng gọi là TẬN VÔ TẬN GIẢI THOÁT PHÁP MÔN. Các vị hãy theo đó mà tu học.
Nói tóm lại, tuy quán biết thế gian là giả huyễn, là Không, nhưng không vì thế mà không làm gì hết. Ngược lại làm tất cả mọi việc lành, thấy người cần thì giúp đỡ, thấy người hoạn nạn thì cứu, làm theo tinh thần đại từ bi của Bồ-tát là làm tất cả mà không chấp mình làm, không trông đợi đền ơn đáp nghĩa, không cầu phước báu cho riêng mình ngay cả quả vị Bồ-đề cũng không tham đắm. Khi đã hóa giải hết mọi phiền não vô minh, loại trừ tánh tham tật đố, phá tan chấp ngã chấp pháp thì cho dù chúng ta không mong cầu mà Niết bàn Bồ-đề vẫn hiển hiện như thường. Đó chính là Bất tận hữu vi và Bất trụ vô vi hay còn gọi là Tận, Vô tận Giải thoát Pháp Môn vậy.
Các Bồ-tát đại sĩ nước Chúng Hương nghe Đức Phật dạy pháp môn ấy rồi đều rất hoan hỷ, lấy các thứ hoa sắc màu rực rỡ đẹp tươi, bao nhiêu thứ hương thơm thượng diệu tung rãi khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường Phật, cúng dường Pháp và cúng dường chư Bồ-tát Tăng.
Cúng dường xong, tất cả cùng dập đầu lễ dưới chân Phật tán thán rằng: chỉ có Đức Phật Thích Ca vận dụng phương tiện hành những việc nan hành, trong cõi thế gian chưa từng có.
Nói xong, bỗng nhiên không còn hiện diện. Các đại sĩ đã trở lại quốc độ Chúng Hương.
Phần Tổng Luận