Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

12. Phẩm Thấy Phật A Súc

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9136)
12. Phẩm Thấy Phật A Súc

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Mười Hai

Phẩm Thấy Phật A Súc

(Thấy VÔ ĐỘNG NHƯ LAIThế Giới DIỆU HỈ)

(Vision of the Universe Abhirati and the Tathagata Aksobhya)
 

Đức Thế Tôn hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

- Muốn thấy một Như Lai ông phải quán sát như thế nào để được thấy?

- Bạch Thế Tôn! Muốn thấy Như Lai con vận dụng pháp quán chiếu y như quán thật tướng của chính mình. Con quán Như Lai thời gian trước không có đến. Thời gian sau không có đi. Thời hiện tại không trụ.

Quán Như Lai con không dựa trên sắc cũng không dựa trên thể chơn như của sắc, không dựa trên tánh của sắc, thọ, tưởng, hành cũng vậy. Cho đến không dựa trên thức mà quán cũng không dựa trên thể chơn như của thức, không dựa trên tánh của thức. Vì Như Lai không phải do tứ đại khởi sanh. Như Lai giống như hư không, nhưng không phải hư không. Như Lai không tương quan lục nhập và vượt ra ngoài nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Như Lai không ở trong tam giới, xa lìa ba cấu, thuận theo tam giải thoát môn. Như Lai đầy đủ tam minh, bình đẳng với vô minh. Như Lai không phải tướng một, không phải tướng khác, không phải tướng tự. Không phải tướng tha, Không phải tướng hữu. Như Lai không phải bờ bên này, không phải bờ bên kia cũng không phải giữa dòng mà vẫn thành tựu nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh.

Quán Như Lai tịch diệt mà không vĩnh viễn vắng lặng. Như Lai không kia, không đây, không lấy kia, không lấy đây. Như Lai không thể dùng trí mà nhận biết, không thể dùng thức mà phân biệt. Như Lai không phải là tối mà cũng không phải sáng. Như Lai không tên, không tướng, không mạnh, không yếu, không tịnh, không uế. Như Lai không ở trong phương hướng, mà cũng không rời phương hướng. Không phải hữu vi cũng không phải vô vi. Không thể chỉ bày, không thể diễn nói. Như Lai không phải bố thí cũng không phải bỏn sẻn. Không phải trì giới, không phải phạm giới. Không phải nhẫn nhục, không phải sân nộ. Không phải tinh tấn, không phải giải đải. Không phải định tâm, không phải loạn ý. Không phải trí tuệ mà không phải ngu si. Như Lai không thật mà không dối. Không đến cũng không đi. Không ra cũng không vào. Tất cả ngôn ngữ không thể diễn đạt thấu đáo thật nghĩa Như Lai.

Như Lai, không phải phước điền, không phải không phước điền. Không phải bậc nên cúng dường, không phải không cúng dường. Không phải lấy, không phải bỏ. Không phải tướng có cũng không phải tướng không.

Quán Như Lai hòa đồng chân lý, bình đẳng như pháp tánh, không thể cân, không thể lường, vượt quá cân lường. Như Lai không lớn, mà không phải nhỏ. Như Lai, không thể dùng cái thấy để thấy. Không phải dùng cái nghe để nghe. Không thể dùng tri giác để khái niệm. Không thể dùng tri thức để nhận biết. Như Lai rời ngoài các ràng buộc, đồng với các trí, bình đẳng như chúng sinh. Đối với các pháp không có sự phân biệt. Như Lai đối với tất cả, không lỗi, không trược cấu, không não phiền. Như Lai không có tác giả, không có mới khởi đầu, không sanh, không diệt, không có sợ, không có lo, không mừng, không nản, không phải đã có, không phải sẽ có, không phải đang có. Không thể dùng lời lẽ diễn đạt hay chỉ bày.

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật thưa: Thân Như Lai là thế đấy. Quán Như Lai phải quán như thế đấy. Do quán như thế mà con thật thấy Như Lai. Và người nào quán Như Lai như thế, gọi là quán đúng, nếu quán khác là quán sai, không thể thấy Như Lai đích thực.

Tiếng Phạn A Súc có nghĩa là Vô Động hay Bất Động. Vậy Phật A Súc là Phật chẳng hề chuyển động, không tới mà chẳng lui, vắng lặng thường còn là muốn ám chỉ cho Pháp thân bất sinh bất diệt trong tất cả mọi chúng sinh.

Thế nào gọi là quán để thấy được Như Lai? Quán là quán chiếu, là dùng trí mà soi rọi vào nội tâm thay vì cái thấy của mắt nghĩa là biến tánh thấy trở thánh cái thấy bằng trí. Theo Sự Tướng thì Như LaiĐức Phật Thích Ca hay mười phương chư Phật. Còn nói theo Bản Thể thì Như Lai chính là Thật Tướng, là Pháp thân, là Pháp Tánh của tất cả các pháp trong thế gian vũ trụ này. Thật Tướng chính là cái Không, là cội nguồn sinh ra tất cả tức là cái Có. Nói một cách khác con người là “hiện tượng tùy duyên” của Thật TướngThật Tướng là “bản thể bất biến” của con người. Vì thế kinh có câu:”Vô Sở Tùng Lai Nhi Vô Sở Khứ” nghĩa là không từ đâu mà đến và cũng chẳng đi về đâu thì gọi là Như Lai.

Pháp thânthường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy rằng:”Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” nghĩa là trong thế gian này bất cứ cái gì có hình tướng, màu sắc, âm thanh, ngôn ngữ, văn tự, kích thước, trọng lượng đều là giả huyễn, là sinh diệt, là không thật chỉ khi nào thấy được Thật TướngTướng Không nằm ẩn dưới hình tướng bên ngoài thì thấy được Như Lai tức là thấy được Chân lý vậy. Như thế thì Như Lai là “vô sở tùng lai diệc vô sở khứ” nghĩa là Như Lai thọ lượng vô thỉ vô chung, vô cùng vô tận.

Bấy giờ ông Xá Lợi Phất hỏi ông Duy Ma Cật:

- Thưa ngài Duy Ma Cật! Ngài mất ở cõi nào mà lại sanh đến thế giới Ta bà này?

Ông Duy Ma Cật hỏi lại:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Pháp của ngài chứng đắc có mất và có lai sanh chăng?

- Pháp của tôi chứng đắc, không có lúc nào mất và cũng chẳng có lúc nào lai sanh.

- Nếu các pháp không có tướng mất và tướng lai sanh. Vậy cớ sao ngài hỏi tôi rằng:”Ngài mất từ cõi nào, lai sanh đến thế giới này?”.Xá Lợi Phất! Ngài nghĩ thế nào? Ví như huyễn thuật sư làm ra người nam hay người nữ, vậy những con người đó có “mất” hay “lai sinh” không?

- Không có mất và không có lai sinh.

Xá Lợi Phất! Ngài há chẳng nghe Phật dạy:”Các pháp, tướng nó như huyễn chăng?”.

- Đúng vậy, tôi có nghe.

- Nếu tất cả pháp, tướng như huyễn, thì tại sao ngài hỏi tôi mất ở thế giới nào, lai sinh đến cõi này?

Này! Ngài Xá Lợi Phất! Mất là cái tướng tan rã của pháp hư dối, sanh là cái tướng tương tục của các pháp hư dối. Bồ-tát dù mất mà không dứt hết gốc lành, dù sanh mà không cho sanh trưởng gốc ác.

Cái nhìn của ông Xá Lợi Phất là cái tướng đối tượng thấy của “nhục nhãn” dựa trên hiện tượng vạn pháp hữu vi sinh diệt. Còn ông Duy Ma Cật sử dụng “tuệ nhãn” mà thấy bản thể thanh tịnh bất sinh bất diệt thì làm gì có “Sanh” hay “Chết”. Bởi vì “Chết” là cái tướng tan rã và “Sanh” là cái tướng tương tục của các pháp hữu vi hư huyễn còn Thật tướng, Pháp thân thì như như bất động, trước sao sau vậy thì làm gì có sinh có tử. Cũng như Đức Phật Thích Ca, khi có duyên thì Pháp thân thành ra Ứng thân để cứu độ chúng sinh và khi duyên hết thì ứng thân mất, tan rã mà trở lại với Pháp thân thanh tịnh của chư Phật. Nói theo Pháp giới duyên khởi thì khi có duyên thì “bất biến mà tùy duyên” trở thành Phật Thích Ca. Còn khi hết duyên thì “tùy duyên mà bất biến” nghĩa là Phật Thích Ca nhập diệt bên hai cây Sa La Long Thọtrở về với Pháp thân của chư Phật vậy thôi. Do đó người trí thì việc sống chết, sanh diệt, mất còn chẳng có gì quan trọng vì tất cả chỉ là “hiện tượng duyên khởi” chớ thật ra không có cái gì là thật sanh hay thật mất cả.

Bấy giờ Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng:

- Có cõi nước tên Diệu Hỉ, Đức Phật hiệu Vô Độnggiáo chủ. Ông Duy Ma Cật từ cõi nước đó mất là lai sinh đến cõi này.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thật là việc chưa từng có. Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cật lại có thể bỏ quốc độ thanh tịnh, đến cõi Ta bà để vui nhận ở nơi cảnh giới có nhiều sân nộ và ác hại này!

Ông Duy Ma Cật bảo:

- Xá Lợi Phất! Ngài nghĩ thế nào? Lúc mặt trời soi sáng thì không còn tối được nữa.

- Đúng vậy, thưa ngài Xá Lợi Phất! Hễ ánh sáng soi thì bóng tối diệt. Bồ-tát dù sanh ở cõi Phật không thanh tịnh là vì mục đích giáo hóa chúng sinh nhưng không thể hợp chung với những gì tối tăm nhu độn. Ngược lại, Bồ-tát dạy cho chúng sinh diệt hết phiền não ngu tối của họ mà thôi.

Dựa theo câu hỏi trên thì tâm ông Xá Lợi Phất vẫn còn phân biệt đối đãi, còn thấy có “sanh” và “chết”, có cõi “thanh tịnh Diệu Hỉ” và “thế giới xấu xa Ta bà”. Tuy đã qua khỏi phẩm Bất Nhị mà ông Xá Lợi Phất vẫn còn nghĩ có cõi Tịnh độ và có thế giới xấu xa, ô trược. Đối với phàm nhânvô minh che lấp nên mới thấy có tốt có xấu, có tịnh có nhiễm, còn Bồ-tát thị hiện vào cõi Ta bà là vì bản nguyện muốn cứu giúp chúng sinh nên tâm hằng thanh tịnh, không hề bị nhiễm ô trần cấu bất tịnh của thế gian cũng như hoa sen thơm ngát vươn lên từ trong bùn tanh hôi hám.

Bấy giờ đại chúng khát ngưỡng muốn thấy thế giới Diệu Hỉ và Đức Vô Động Như Lai cùng chư Bồ-tát, Thanh văn cõi ấy.

Đức Phật biết ý niệm của đại chúng bèn gọi ông Duy Ma Cật bảo:

- Thiện nam tử! Đại chúng trong hải hội muốn thấy Đức Vô Động Như Lai và cõi nước Diệu Hỉ cùng chư Bồ-tát, Thanh vănthế giới kia. Ông hãy giúp cho hải hội hiện tiền đều được thấy!

Bấy giờ, ông Duy Ma Cật nghĩ bụng rằng: Ta sẽ không rời khỏi chỗ này, tiếp nhận thế giới Diệu Hỉ đem về đây. Ta sẽ dời tất cả Thiết vi sơn, Tu di sơn và tất cả núi lớn, núi nhỏ, biển cả, sông ngòi, nguồn lạch, suối khe, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Tiếp nhận thiên cung, long cung, quỷ thần, Phạm thiên cung…Tiếp nhận các chúng Bồ-tát, Thanh văn cả thành ấp, tụ lạc, nam nữ lớn nhỏ. Tiếp thỉnh Đức Vô Động Như Lai, cây Bồ-đề và các diệu liên hoa và những người có thể làm Phật sự trong mười phương. Tiếp nhận ba đường hành lang báu thông đồng từ cõi Diêm phù để thẳng lên cõi trời Đạo lợi. Trên hành lang báu này chư Thiên tấp nập xuống lên kính lễ Đức Vô Động Như Lai, nghe học lãnh thọ kinh pháp. Người cõi Diêm phù đề cũng rộn rịp trên hành lang tiến bước hướng về cõi trời Đạo Lợi và mọi người đều thấy rõ hàng chư Thiênthế giới Diệu Hỉ, họ hoàn thành những công việc công đức lớn lao vô lượng như thế. Ta sẽ tiếp thụ trên từ cõi sắc cứu cánh dưới tột cùng mé thủy luân, để lên tay mặt của ta y như người thợ gốm ngắt bớt mật mẫu đất thừa. Dời tất cả những cảnh giới gần xa, đem về sáp nhập thế giới này như cầm một tràng hoa đẹp trên tay, giới thiệu chỉ bày cho toàn thể đại chúng trong hải hội.

Ông Duy Ma Cật nghĩ như thế rồi liền nhập tam muội, hiện sức thần thông. Dùng tay mặt cắt lấy thế giới Diệu Hỉ đem về sáp nhập vào cõi Ta bà. Những hàng Bồ-tát, Thanh văn, chư Thiênchứng đắc thần thông, đồng thanh kêu lên lời cầu cứu:”Thế Tôn! Ai lấy chúng con đem đi. Mong Phật cứu hộ”.

Đức Vô Động Như Lai nói:

- Việc đó không phải ta làm. Do thần lực của ông Duy Ma Cật, ông ấy đang làm chuyện đó, để phục vụ khai ngộgiáo hóa chúng sinh.

Những người chưa được thần thông thì không hề hay biết về sự việc như thế đã xảy ra.

Thế giới Diệu Hỉ dù được đem sáp nhập cõi Ta bà, mà thế giới Ta bà không bị giản rộng ra, thế giới Diệu Hỉ không vì vậy mà tóp hẹp. Vị trí của mọi sự vật vẫn y nhiên, không thay đổi một mảy may nào.

Đây là lần thứ ba Kinh giới thiệu cảnh Tịnh độ.

Lần thứ nhất muốn khai thị cho tôn giả Xá Lợi Phất nên Phật lấy ngón chân nhấn xuống đất làm cho cõi Ta bà trở thành cảnh Tịnh độ như bao thế giới khác. Đoạn nầy nhằm nhắc nhở chúng sinh là “Tịnh” hay “Uế’ đều là do con người. Khi tâm tịnh thì có cõi nước Phật tịnh, ngược lại tâm bất tịnh, còn phiền não vô minh thì ở đâu cũng không có cõi Tịnh được. Đó là “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Thế giới Ta bàcon người cho rằng có nhiều tội lỗi, xấu xa, đầy phiền não khổ đau, nhưng chính Đức Phật cũng sống ở đây mà tâm Ngài rất tự tại, rất thanh tịnh cũng như tất cả những cõi giới thanh tịnh khác của mười phương chư Phật. Nói một cách khác khi một người có tâm thanh tịnh, không còn phiền não vô minh thì người ấy ở đâu, cõi ấy là cõi thanh tịnh.

Lần thứ hai ông Duy Ma Cật sử dụng khả năng Bất khả tư nghì khiến ba mươi hai ngàn tòa sư tử to lớn lộng lẫy trang nghiêm của thế giới Tu Di Tưởng vào trong tịnh thất của ông nhằm giới thiệu một cõi Tịnh độ cách xa thế giới Ta bà trên 42 ức hằng hà sa thế giới. Tuy cảnh Tịnh độ xa xôi như thế mà có thể đem về cõi Ta bà trong khoảnh khắc là thâm ý của kinh muốn nhắn nhủ chúng sinh đừng mong cầu ở cõi Tịnh độ xa xôi vời vợi nào khác mà chỉ cần giữ tâm thanh tịnh thì cảnh Tịnh độ xa xôi kia sẽ hiển hiện trong tâm thức của mình tức thì. Đây là lần thứ nhì Phật muốn nhấn mạnh câu:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Một lần nữa, kinh lại nhấn mạnh là tuy trong mười phương thế giới có rất nhiều cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác, có cõi xa có cõi gần, nhưng Nhất Chân Pháp Giới khẳng định là thế giới thanh tịnh nầy cũng là thế giới thanh tịnh kia, không sai không khác. Do đó chúng sinh không nên hoài công mà trông mong về thế giới nầy hay thế giới nọ mà chính mình không tu sửa để có tâm thanh tịnh trước. Vì thế trong Kinh A Di Đà xác định là nếu có chúng sinh muốn vãng sanh về thế giới của Phật A Di Đà thì trước hết họ phải niệm Phật cho đến Nhất Tâm Bất Loạn. Nhât tâm là Chơn tâm, là thấy được Phật tánh tức là có tâm thanh tịnh rồi. Khi ấy thì tri kiến của mình sẽ không còn phân biệt có ta có người, có thế giới nầy hay cõi thanh tịnh nọ vì tất cả đều cùng chung Nhất Chân Pháp Giới nghĩa là Bản Thể giống nhau nhưng tùy theo duyên mà biến hiện sự sai khác.

Thí dụ như trong quả địa cầu của chúng ta, tùy theo địa dư mà con người chia thành trăm ngàn dân tộc khác nhau chẳng hạn như Á châu thì có dân da vàng là người Việt Nam, người Tàu, người Thái…, ở Âu châu thì có dân da trắng là người Pháp, người Ý, người Đức…ở Mỹ châu thì có trăm ngàn bộ tộc da đỏ…và ở Phi châu thì có dân da đen…Vì chúng sinh duyên nghiệp khác nhau nên dựa theo nghiệp lực mà thọ sanh vào những vùng đất khác nhau, thành những giống dân khác nhau, đó là “hiện tượng duyên khởi”, nhưng tất cả con người dù là da vàng, da đen, da trắng hay da đỏ thì Bản Thể vẫn như nhau, cùng chung Phật tánh, cùng chung máu đỏ và nước mắt mặn. Vậy Nhất Chân Pháp Giới là “hiện tượng” tuy có khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung “Bản Thể”. Hiểu thấu suốt như vậy thì gọi là “Lý vô ngại”.

Thí dụ thứ hai là khi cầm một cục nước đá, chúng ta tư duy quán chiếu thì biết rằng muốn có nước đá thì phải làm cho nước lạnh đông lại. Mà nước thì là sự tổng hợp của hai nguyên tử Hydrogen và một nguyên tử Oxygen (H2O). Nhưng mỗi nguyên tử Hydrogen hay Oxygen được cấu tạo bởi rất nhiều âm điện tử và trung hòa tử. Khi đã hiểu thấu suốt sự tạo thành của vật chất như thế thì đây là “Sự vô ngại”.

Bây giờ quý vị hãy nhìn những đợt sóng vô cùng vô tận trên biển. Tuy những làn sóng nhấp nhô cao thấp cũng không ngoài nước. Làn sóng thay đổi là hiện tượng, còn mặt nước phẳng lặng êm đềm nằm sâu dưới lòng đại dươngBản Thể thanh tịnh của nước. Vì thế hiện tượng là Lý và Bản Thể thanh tịnh là Sự, nhưng Lý và Sự không thể tách rời nhau. Bởi vì sóng là do nước mà thể nước thanh tịnh là cũng do nước. Do đó hiện tượngBản Thể dung thông với nhau. Khi động tức là có gió thì Bản Thể biến thành hiện tượng tức là nước biến thành sóng. Khi tịnh, gió lặng thì hiện tượng trở thành Bản Thể nghĩa là sóng biển trở thành thanh tịnh. Nói một cách khác hiện tượng không ngoài Bản ThểBản Thể không rời hiện tượng. Bản Thể duyên sanh ra hiện tượng (bất biếntùy duyên) và hiện tượng trở về với Bản Thể (tùy duyênbất biến). Vậy hiện tượngBản ThểBản Thểhiện tượng như Tâm kinh đã xác định:”Sắc tức là Không, Không tức là Sắc). Đây chính là “Lý Sự vô ngại” pháp giới.

Chung quanh thế giới của con người, chúng ta thấy đâu đâu cũng là tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Bây giờ hãy nhìn kỷ lại con người của chính mình thì cũng thế, cũng cấu thành bởi tứ đại bởi vì chúng ta ăn rau cỏ, trái cây, ngũ cốc, uống nước, hít thở không khí, hấp thụ sức nóng của mặt trời…Nếu nói con người là cỏ cây hoa lá, ngũ cốc, ngũ quả thì không đúng, mà nói con người không cần cỏ cây, hoa lá, ngũ cốc, ngủ quả từ đất, nước, lửa, không khí để sống thì cũng không đúng. Do đó vạn pháp là “bất tức bất ly”. Hiểu rõ như thế thì đây là “Sự sự vô ngại” pháp giới.

Đến đoạn kinh nầy thì ông Duy Ma Cật nhập tam muội nghĩa là vào chánh định, vận dụng thần thông lấy tay mặt cắt thế giới Diệu Hỉ đem sáp nhập vào cõi Ta bà mà không chật hẹp, không thêm không bớt. Vạn pháp trong “Pháp Giới Nhất Chân” thì lúc nào cũng tương ứng, tương túc, tương nhập, tương dung, lý vô ngại, sự vô ngại, lý sự vô ngạisự sự vô ngại nên Bản Thể các pháp dung thông vô ngạivượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có lớn nhỏ, rộng chật mà chỉ có Tâm Thể hòa hợp làm một. Một lần nữa, ông Duy Ma Cật muốn giới thiệu một cõi Tịnh độ ở ngoài thế giới Ta bà, nhưng muốn đạt đến cảnh giới thanh tịnh nầy thì chúng sinh cũng phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh, như như bất động bằng cách phá tan tâm phân biệt ích kỷ hẹp hòi chấp trướcquay về sống với Tâm Vô ĐộngChân Tâm, là Bản Thể, là cội nguồn phát sinh ra tất cả. Mà tâm tịnh thì trí tuệ sẽ phát sinh để thấy được sự huyền diệu an vui. Phải chăng đó cũng là ý nghĩa của hai chữ: nước Diệu Hỉ và Phật Vô Động? Đây là lần thứ ba kinh muốn nhấn mạnh với chúng sinh là tâm tịnh thì có thế giới tịnh nghĩa là khi tâm tịnh thì Ta bàDiệu Hỉ còn tâm bất tịnh thì Diệu HỉTa bà.

Kinh đã dùng ba phương tiện, ba hình ảnh khác nhau để chứng minh cho chúng sinh thấu hiểu một mục đích, một Chân lý tối thượng trên con đường Vô thượng Bồ-đề là :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo toàn thể đại chúng trong hải hội:

- Toàn thể đại chúng đã được thấy thế giới Diệu Hỉ và thấy Đức Vô Động Như Lai rồi chứ? Các vị đã thấy sự trang nghiêm đẹp đẽ huy hoàng tráng lệ của thế giới Diệu Hỉ chứ? Các vị thấy Bồ-tát và Thanh văn chúng cõi kia tịnh hạnhthanh bạch chứ?

Toàn thể đại chúng đồng thanh bạch Phật:

- Dạ! Chúng con đều đã thấy!

Đức Phật dạy:

- Nếu Bồ-tát muốn được cõi Phật thanh tịnh như vậy, cần phải học theo con đường hành đạo của Đức Vô Động Như Lai.

Trong thế giới Diệu Hỉ hiện hữu, cõi Ta bà có mười bốn ức người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn sanh sang thế giới Diệu Hỉ của Đức Vô Động Như Lai.

Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đồng thọ ký:

- Tất cả các vị muốn sanh sang cõi nước kia đều sẽ được như nguyện.

Trong những giờ phút thế giới Diệu Hỉ hiện hữucõi Ta bà, tác động vào tâm lý, kích khởi thiện căn của những chúng sinh hữu duyên đem lại nhiều lợi lạc. Sự kiện ấy trôi qua. Tất cả đại chúng đều thấy cảnh giới Ta bà bổng nhiên trở về trạng thái củ.

Tại sao Phật lại thọ ký cho số người nhiều thế? Đây có lẻ là lòng thương xót chúng sinh, tâm đại từ đại bi của Phật chăng?

Trong tất cả mọi chúng sinh không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, thông minh hay khờ dại đều có sẳn cái Chơn Tâm thường trú hay Thể Tánh tịnh minh mà Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh, Kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật, Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm và Kinh Viên Giác gọi là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm. Do đó nếu có chúng sinh nào muốn sanh về cõi Tịnh độ hay muốn được giải thoát giác ngộ thì chỉ cần thực hiện lời Như Lai dạy là ”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” và “Dục tịnh Phật độ, tiên tịnh kỳ tâm” nghĩa là khi nào tâm của mình tịnh thì sẽ có cõi Phật tịnh, mà muốn được cõi Phật tịnh thì chính mình phải tự sửa đổi cho được cái tâm tịnh trước.

Như thế thì Phật thọ ký chẳng qua là lời khuyến khích để chúng sanh cố gắng tinh tấn nổ lực tu hành, nhưng muốn về cõi tịnh thì chính mình phải tu tâm dưỡng tánh, loại bỏ tánh tham tật đố phân biệt chấp trước, nghiêm trì sáu căn và giữ tam nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh thì chắc chắn sẽ có cõi Phật thanh tịnh. Đây chính là Phật độ chứ Như Lai không hề gia trì, phù hộ hay cứu rỗi cho ai hết tức là ông tu ông chứng, bà tu bà đắc vậy thôi.

Đức Phật bảo:

- Xá Lợi Phất! Ông đã thấy thế giới Diệu Hỉ và Đức Vô Động Như Lai rồi chứ?

Dạ! Con đã thấy! Bạch Thế Tôn! Con mong muốn cho tất cả chúng sinh được cõi nước thanh tịnh trang nghiêm như cõi Đức Vô Động Như Lai và có sức thần thông như ông Duy Ma Cật vậy. Con cũng mong cho mọi người có đủ duyên lành thân cận cúng dường để được nhiều lợi lạc. Con nghĩ rằng: những chúng sinh hiện tại hoặc sau Phật diệt độ được nghe kinh nầy sẽ được lợi ích khó nghĩ bàn. Nghe rồi tin hiểu, giảng thuyết đúng như pháp tu hành, người đó được xem như trong tay đã cầm giữ được kho tàng pháp bảo của Như Lai. Người như thế là cúng dường pháp. Mà cúng dường Pháp tức là cúng dường Phật. Người biên chép diễn giải kinh này, phải biết, chỗ thất của họ ở có Phật. Ai nghe kinh này mà khởi tâm tùy hỷ, không lâu sẽ thành tựu nhất thiết trí. Nghe kinh nầy tin hiểu chừng một bài kệ bốn câu, vì người khác truyền đạt ý kinh, phải biết, đó là người đã được Như Lai thọ ký thành tựu quả Vô thượng Chánh Biến Tri Giác rồi!

Kinh là Pháp Bảo, là chiếc thuyền rắng chắc để đưa chúng sinh từ bờ mê đến bến giác. Nếu chúng sinh biết y giáo phụng hành, thực hành đứng đắn lời dạy trong kinh để chuyển phàm thành Thánh thì trong tay họ đang giữ được kho tàng Pháp bảo vô giá của Như Lai. Nhưng kinh điển chỉ là văn tự cho nên dù kinh có hay, chúng sinh có đọc thuộc lòng mà không tư duy quán chiếuứng dụng thực hành những lời dạy trong kinh thì cũng chẳng lợi ích gì. Cũng như trong túi có viên ngọc quý mà không biết sử dụng thì viên ngọc quý kia có khác gì viên thỏi đá tầm thường. Vì thế người xưa có câu:”Ngọc bất trác bất thành quý” nghĩa là ngọc kia mà không dủa mài đánh bóng thì không thành ngọc quý. Nghe kinh, học kinh và thực hành kinh để mình được giải thoát giác ngộ tức là tự giác, rồi sau đó giúp người cùng đến chỗ giác ngộ như mình tức là giác tha chớ không ôm lòng ích kỷ thì thực hành đứng đắn hạnh Bồ-tát và tiến về Vô thượng Bồ-đề. Kinh này là giáo lý viên đốn Đại thừa nghĩa là giáo lý giúp chúng sinh viên thành Phật đạo nhanh chóng vì thế nếu hành trì kinh để lợi ích cho mình thì cũng như cúng dường Pháp và chính sự lợi ích của mình giúp chúng sinh tin theotu học để có thể giải thoát cho chính họ thì cũng như đã cúng dường Phật rồi vậy. Vì người mà tạo duyên lành ngay cả dùng một bài kệ bốn câu để gieo hạt giống Phật trong chúng sinh có cơ hội nẩy mầm đơm hoa và kết quả thì cũng như được Như Lai thọ ký thành tựu quả Vô thượng Chánh biến tri giác rồi vậy.
Chương Thứ Sáu
Phẩm Bất Tư Nghì
(The Inconceivable Liberation)

Bất khả tư nghì có nghĩa là vượt ra ngoài những khái niệm suy tư phân biệt về sự hiểu biết thông thường của con người. Vì thế sự kiện bất khả tư nghì cũng được hiểu là những hiện tượng chưa từng có, chưa từng xảy ra mà nay có.

Dựa trên định nghĩa trên thì ông Duy Ma Cật là người bất tư nghì. Ông thuyết bất tư nghì pháp và trình diễn bất tư nghì cảnh cho bất tư nghì đại chúng để khởi động bất tư nghì tâm.

Ông Xá lợi Phất thấy trong tịnh thất không có giường cũng chẳng có chiếc ghế nào. Ông bèn khởi ý nghĩ: Tịnh thất trống trơn như thế nầy, chư Bồ-tát và Thanh Văn chúng tôi sẽ ngồi vào đâu?

Biết ý nghĩ của ông Xá Lợi Phất, trưởng giả Duy Ma Cật bèn hỏi:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! ngài vì pháp đến đây hay vì chỗ ngồi mà đến?

- Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì chỗ ngồi. Ngài Xá Lợi Phất đáp.

Trưởng giả Duy Ma Cật là người giàu có, vợ con tôi tớ đầy nhà nhưng ông dùng thần thông làm cho bàn ghế biến mất chỉ còn căn tịnh thất trống không. Nhà trống không tiêu biểu cho tâm thanh tịnh và bàn ghế biến mất là ám chỉ cho vạn pháp giai không. Muốn thấy được Chân lý, chúng sinh bên trong phải phá cho được ngã chấp và bên ngoài đánh tan mọi pháp chấp thì tâm được như như bất động.

Người Phật tử thông thường thì đến chùa lạy Phật vì thấy chùa đẹp, Phật to. Đây chỉ là phương tiện để gieo duyên dành cho những người sơ cơ có cơ hội quy y trở về với đạo Phật và chưa thấu hiểu đạo lý huyền diệu của liễu nghĩa Đại thừa. Vì chùa to, Phật lớn chỉ là Phật Tướng sinh diệtPhật tâm tức là tự tánh thanh tịnh bản nhiên bất sinh bất diệt mới quan trọng. Phật tánhBản Thể chân không thì không hình tướng, màu sắc, kích thước, trọng lượng thì đã có sẳn trong tâm của tất cả mọi chúng sinh. Vì thế chỗ ngồi, nơi lạy Phậtsắc tướng sinh diệt thì quan tâm làm gì cho nên khi về chùa thì ngồi đâu cũng được thậm chí ngồi ngoài hiên mà tâm thanh tịnh thì vẫn thông đạt giáo pháp như thường. Cầu pháptu học để thấy được Phật tâm của mình mà có được giải thoát giác ngộ thì mới là cứu cánh. Do đó từ nay về chùa nghe Pháp mới là cứu cánh chớ đừng quan tâm đến cơm chay hay cảnh chùa to Phật lớn vì người Phật tử đến với Tam Bảo thì chùa to, chùa nhỏ có khác gì nhau. Tuy nhiên cổ nhân cũng có câu:”Chùa đất Phật vàng” nghĩa là tuy là chùa tranh vách lá nhưng lại có cao Tăng đắc đạo.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! người thực tâm cầu pháp, thân mạng còn không đáng tiếc hà huống phải quan tâm nghĩ đến chỗ ngồi. Cầu pháp phải quên đi cái thân ngũ uẩn. Cầu pháp phải đóng bít kín lục căn, cắt dứt lục trầnvô hiệu hóa tất cả lục thức.

Đi nghe pháp cốt là để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống đúng theo chánh pháp vì thế người cầu pháp cho đến thân mạng của mình cũng không tham tiếc thì chỗ ngồi có xá gì. Do đó khi đã sống đúng với chánh pháp thì không còn gì để bám víu cả ngay cả chánh pháp cũng phải bỏ, quên đi thì tâm không còn dính mắc và sẽ được an vui tự tại. Lúc đó con người mới trở về được với Căn Bản Trí tức là Vô Phân Biệt Trí nghĩa là thấy tất cả mà như không thấy gì hết hay là như không thấy gì hết mà thật ra thấy tất cả. Biết tất cả mà như không biết gì hết hay là như không biết gì hết mà biết tất cả.

Cầu pháp không cầu những phiền trược tương quan trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc.

Tất cả những pháp như sắc, tài, danh, lợi…là những pháp ràng buộc con người vào trong các cõi Dục, cõi Sắc và cỏi Vô Sắc thì không nên cầu.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Người cầu pháp không phải vì ham quả vị Phật.

Chúng sinh đến chùa nghe pháp với tâm cầu một ngày nào đó sẽ được thành Phật, nhưng đây chỉ là giáo lý phương tiện Tiểu thừa, là giáo lý bất liễu nghĩa. Còn kinh điển giáo lý liễu nghĩa tối thượng thừa thì cầu pháp là không cầu gì hết vì bất cứ cầu việc gì cho dù đó là cầu thành Phật thì cũng là tham. Dù là tham Bồ-đề, tham Niết bàn thì vẫn là tham, vẫn còn dính mắc thì tự tánh thanh tịnh không hiễn bày. Nếu vì tham mà cầu Bồ-đề, cầu Niết bàn, cầu thành Phật…thì đã quên đi Bồ-đề, Niết bàn đã có sẳn trong chúng sinh chớ còn ở đâu nữa mà cầu. Nói một cách khác nếu cầu như vậy là chúng sinh đã bỏ mất quả vị Phật của chính mình rồi. Một khi đã quên đi quả vị Phật của mình tức là quên đi Phật tánh, quên đi tự tánh thanh tịnh bản nhiên hay là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của chính mình thì tìm ở đâu cho có quả vị Phật. Vì thế chúng sinh đi trên con đường Bồ-tát thì làm bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh mà không cần phải cầu cho thành Phật. Khi đạt đến đỉnh cao tột cùng của trí tuệ Bát nhã Ba-la-mật thì chúng sinh nhận chân Chân lý tức là thành Phật. Cũng như trăm ngàn con sông, con suối mà nếu có được nước trong thì ánh trăng vẫn chiếu rọi được như thường. Và cho dù đồi cao núi thẳm mà không có mây đen che lấp thì bầu trời trong sáng như nhau. Nếu tâm hồn không còn phiền não vô minh thì tự tánh Niết bàn tịch diệt hiện ra mà không cần mong cầu trông đợi và khi Bồ-đề tự tánh đạt đến đỉnh cao giác ngộ thì chúng sinh là Phật chớ Phật ở đâu nửa mà cầu.

Tóm lại, dựa theo Lý Tánh tuyệt đối thì Phật Bảo cũng không cầu, Pháp Bảo cũng không đắc và Tăng Bảo cũng không trụ bởi vì trong thế giới Chân không thì Phật, Pháp, Tăng vốn là Một tức là Nhất Thể Tam Bảo thì đã có sẳn trong chúng ta. Vì thế nếu chúng sinh bỏ được tâm mong cầu, không còn ngã chấp, pháp chấp thì Chân lý sẽ hiện bày.

Cầu pháp không phải vì đam mê giáo pháp.

Giáo pháp của Như Lai chính là ba tạng kinh điển: Kinh tạng, Luật tạngLuận tạng cũng chỉ là phương tiện, là ngón tay chớ không phải là cứu cánh giải thoát giác ngộ hay là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng. Nếu chúng sinh cầu pháp, học kinh mà đam mê theo giáo pháp thì cũng như xuống bè rồi ham mê chiếc bè mà quên đi cứu cánhđến bờ bên kia. Dầu giáo pháphuyền diệu hay ho đến đâu cũng chỉ là phương tiệnchúng sinhthực hành mới được thực chứng tức là dùng bè để qua sông chớ không tham đắm say mê chiếc bè. Cũng như nương theo ngón tay để thấy ánh trăng chân lý và khi thấy được ánh sáng chân lý thì nên bỏ quên ngón tay cũng như bỏ quên chiếc bè mới có thể bước được lên bờ giác ngộ.

Cầu pháp không phải vì cảm tình với chúng Tăng.

Người Phật tử thường sống với cảm tình nên nghĩ rằng chỉ đi chùa của mình và chỉ ủng hộ chùa hay thầy của mình mà thôi. Nhưng thật ra cầu pháp là cốt để học chánh pháp, hành chánh pháp và sống theo chánh pháp cho nên bất cứ vị thầy nào nói đúng theo chánh pháp, đúng với chân lý và có thể đem lại sự lợi lạc cho việc tu học của mình thì chúng sinh thọ pháp. Cảm tình vì thương thầy, muốn bố thí cúng dường để được gọi là thí chủ hạng nhất mà không nghe được giáo pháp để tu tập hướng về giải thoát giác ngộmê muội, là thiếu sáng suốt, là lổ lã, là tự chuốc lấy khổ đau về sau.

Không vì thấy Khổ mà cầu pháp. Không vì đoạn Tập mà cầu pháp. Không vì chứng đắc Niết Bàncầu pháp. Và cũng không vì nguyên nhân chứng đắc Niết Bàncầu pháp.

Tại sao? Bởi vì pháp không phải hý luận.

Nếu nói rằng ta vì thấy Khổ, vì đoạn Tập, vì chứng Niết Bàn, vì tu Đạocầu pháp thì pháp đó trở thành hý luận, không phải cầu pháp.

Đối với người tu tiểu thừa tức là giáo lý phương tiện thì họ thấy có mình tu tức là còn chấp ngã, thấy có pháp môn để tu, có chúng sinh để độ và còn Niết bàn để chứng đắc tức là còn chấp pháp nên họ còn lanh quanh lẩn quẩn trong thế giới của sắc tướng hữu vi nên không thể nào chứng nghiệm thế giới thanh tịnh vô vi được. Nói chứng đắc chứ thật ra không có chứng đắc gì cả. Tại sao? Cái mà chúng ta gọi là chứng đắc chính là “bổn tính cố hữu” hay “bản lai diện mục” tức là Phật Tánh vốn đã có sẳn trong tất cả mọi người. Chúng sinh không thấy biết nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám nầy thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiễn hiện ra ngay. Nếu chúng sinh lìa xa tham đắm lợi danh thì tự tánh Niết bàn xuất hiện mà không cần phải cầu mong trông đợi gì hết. Đối với hàng tiểu thừa thì họ nhìn đời tức là thế giới hữu vi tục đế bằng nhục nhãn nên họ thấy sự sinh diệt vô thường của vạn pháp khiến tâm bất tịnh mà cố tu để cầu chứng Niết bàn ngỏ hầu tìm sự an vui tự tại. Trong khi đó giáo lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa thì nhìn thế giới vũ trụ bằng trí tuệ Bát nhã ba-la-mật nên trong tướng Không chẳng có cái gì gọi là Khổ, chẳng có cái gì là nguyên nhân của sự khổ và dĩ nhiên tự tánh thanh tịnh bản nhiên luôn luôn có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh thì Niết bàn còn dùng vào đâu được mà cầu với chứng.

Thưa ngài Xá Lợi Phất!

Pháp là tịch diệt. Nếu biểu hiện qua hành vi sanh diệt thì đó là cầu sanh diệt, chớ không phải là cầu pháp.

Pháp là vô nhiễm. Nếu nhiễm ở pháp cho đến nhiễm Niết Bàn thế là cầu nhiễm chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không năng hành, sở hành. Nếu dụng ý hành ở nơi pháp, đó là cầu năng hành, sở hành chớ không phải cầu pháp.

Pháp không có thủ xả. Đối với pháp mà có ý thủ xả, đó là cầu thủ xả chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không có xứ sở. Nếu chấp nê xứ sở, đó là cầu xứ sở chớ không phải cầu pháp.

Pháp là vô tướng. Nếu dựa trên tướng để nhận biết, đó là cầu tướng chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không được trụ. Nếu trụ ở nơi pháp, đó là cầu trụ chớ không phải là cầu pháp.

Pháp không phải là thấy, nghe, hiểu biết. Nếu biểu hiện qua thấy, nghe, hiểu biết đó là cầu thấy, nghe, hiểu biết chớ không phải cầu pháp. Vì vậy cho nên:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu là người cầu pháp, đối với tất cả không nên khởi ý niệm Cấu.

Pháp là tịch diệt, không sanh diệt cho nên nếu để tâm thanh tịnh thì sẽ được an nhiên tự tại. Pháp là vô nhiễm cho nên nếu còn tham đắm ngay cả chứng đắc Niết bàn thì đó là ô nhiễm. Pháp không tạo tác cho nên bất cứ việc gì có lợi ích cho chúng sinh thì làm mà làm xong thì bỏ không nhớ đến. Pháp không có thủ xả và xứ sở bởi vì người biết nhập chủng Tánh đại thừa thì chỗ nào tu cũng được. Tu nhà cũng tốt, tu chợ cũng hay và tu chùa cũng tiện. Thật ra tu nhà hay tu chợ thì khó hơn tu chùa bởi vì ở nhà và ở chợ thì gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng và tiếp xúc nhiều chúng sinh xấu ác nên có nhiều cơ duyên thực hành Bồ-tát đạo. Pháp là vô tướng vì nếu còn chấp có tướng giàu nghèo, cao thấp, đẹp xấu là tâm còn phân biệt, chấp trước, không bình đẳng. Pháp không được trụ ở bất cứ pháp môn nào mà phải tùy thuận theo chúng sinhhoan hỷ hướng dẫn họ tu hành. Căn cơ chúng sinh sai khác nên nếu ai thích niệm Phật thì cùng họ niệm Phật, ai muốn tham thiền thì cùng họ tham thiền nhập định, ai muốn trì chú thì cùng họ tu trì thần chú mật ngữ. Pháp môn nào cũng tốt cả như trăm sông cùng đổ về biển lớn là giải thoát giác ngộ.

Dựa theo giáo lý Tiểu thừa tức là pháp sắc tướng sinh diệt thì thấy cuộc đời khổ đau nên họ cầu vui, cầu hạnh phúc. Mà có cầu, có xin là tâm còn tham đắm. Nhưng dựa theo triết lý Đại thừa thì khi chúng sinh làm một việc thiện thì chính họ đã có sự lợi ích rồi. Bởi vì làm việc thiện thì tâm thức được tự tại, thân tâm được an vui và dĩ nhiên luật nhân duyên quả báo sẽ tự động đền bù cho họ những phước đức sau nầy cho dù họ có cầu hay không. Thêm nữa chúng sinh thường hồi hướng việc làm tốt của mình cho mọi loài chúng sinh để cùng sớm thành Phật đạo. Một lần nữa tư tưởng nầy chỉ áp dụng cho giáo lý tiểu thừa tức là giáo lý phương tiệnchúng sinh còn cầu mong sớm được thành Phật. Giáo lý tiểu thừa thì nương vào năng cầu sở cầu, năng nguyện sở nguyện mà một khi còn năng nở thì con người vẫn còn vướng mắc vào vòng bất ý, bất toại nguyện. Ngược lại giáo lý liễu nghĩa đại thừa thì không cần phải hồi hướng, không mong cầu bất cứ việc gì ngay cả quả vị Phật vì bản nguyên chúng sinh đã là Phật rồi.

Nói tóm lại, cầu pháp theo tinh thần Đại thừa là không cầu một cái gì hết vì nếu chúng sinh biết học chánh pháp, biết hành chánh pháp và biết sống theo chánh pháp thì trong ta đã có đầy đủ những đức tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rồi. Bởi vì các pháp không sanh không diệt nên nói là Thường, lúc nào cũng an nhiên tự tại nên gọi là Lạc, là chủ sinh là muôn pháp nên gọi là Ngã và không bị cấu nhiễm nên gọi là Tịnh. Thêm nữa, Bồ-đề và Niết bàn là vô tại vô bất tại tức là nó không có ở đâu hết mà không ở đâu chẳng có Bồ-đề, Niết bàn. Nó không có trong con người nào hết nhưng không có con người nào là không có Bồ-đề, Niết bàn. Do đó kinh nói :”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là một khi tâm mình đã tịnh thì thế giới chung quanh mình sẽ là cõi Tịnh độ. Vì thế nếu tâm đã thanh tịnh thì có Bồ-đề, Niết bàn mà khỏi phải cầu cái gì hết. Còn tâm không thanh tịnh thì có cầu cũng không bao giờ có. Cũng như khi đào ao thì khỏi phải trông chờ trăng sao gì hết, miễn là cái ao làm xong có nước trong đứng lặng thì trăng sao sẽ rọi vào mà thôi.

Ông Duy Ma Cật nói xong những điều trên, bấy giờ có năm trăm thiên tử đối với các pháp có được cái nhận thức thanh tịnh (đắc pháp nhãn tịnh).

Các vị trời nhờ tu mười điều thiện mà có phước báo lành. Nay nhờ nghe được những lời mầu nhiệm của ông Duy Ma Cật mà thấy được thế giới của Bản Thể Chân Như thì tâm không còn mong cầu tham đắm mà chỉ thực hành Bồ-tát đạo cho được viên mãn. Họ như người mù được sáng, người mê được tỉnh và thấy được chân lý.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật hỏi Bồ-tát Văn Thù rằng:

- Nhân giả từng vân du vô lượng vô số cõi nước. Ngài biết cõi Phật nào có tòa sư tử đẹp nhất do công đức trang nghiêm thành tựu?

- Có. Thưa cư sĩ. Bồ-tát Văn Thù đáp.

Ở về phương Đông, từ đây phải trải qua ba mươi sáu hằng hà sa nước, có thế giới tên Tu Di Tưởng, đức Phật ở cõi nước đó hiệu Tu Di Đăng Vương đang trụ thế. Thân Phật lớn hơn tám muôn bốn ngàn do tuần. Tòa sư tử của Phật cũng cao tám muôn bốn ngàn do tuần, lộng lẫy trang nghiêm bậc nhất.

Ông Duy Ma Cật vận dụng hiện sức thần thông khiến ba muôn hai ngàn tòa sư tử lộng lẫy trang nghiêm cao rộng tự chuyển vào trong tịnh thất của ông trong khoảnh khắc.

Chư Bồ-tát, các đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên nghĩ rằng việc nầy từ trước đến nay chưa từng thấy. Chu vi ngôi tịnh thất hữu hạn chừng ấy, lại bao dung cả ba muôn hai ngàn tòa sư tử đồ sộ thế kia mà không chướng ngại gì nhau. Thành Tỳ Xá Ly cũng có chừng mực phạm vi của nó thế mà mọi hiện trạng đều y nguyên như cũ, không chật chội hơn chút nào!

Cư sĩ Duy Ma Cật bây giờ mới bắt đầu biểu diễn chân lý Bất khả tư nghì giải thoát. Giải thoát Bất tư nghì là sự giải thoát mà chỉ có một mình mình biết và một mình mình hay mà thôi. Người kế bên cũng không hề cảm biết ngoại trừ những bậc có trí huệ tức là trình độ nhận thức chân lýtrình độ trí tuệ tu tập ngang nhau thì mới biết được. Nhưng người học Phật nếu muốn thể nhập sâu sắc chân lý huyền diệu nầy mà không bị rơi vào mê tín dị đoan và có thể cắt nghĩa được những Bất Tư Nghì Sự của Bồ-tát thi thố để hiểu đúng những Bất Tư Nghì Pháp của Bồ-tát nói và có thể thật thấy mà không phải thấy thật những Bất Tư Nghì Cảnh Giới mà Bồ-tát trình diễn thì tuyệt đối không được khởi niệm tin rằng ông Duy Ma Cật có tài phép biến hóa như một nhà ảo thuật hay một vị thôi miên, phù thủy.

Bồ-tát trụ trong Pháp Môn Bất Tư Nghì nên có thể làm tất cả việc Bất Tư Nghì bởi vì Bồ-tát biết sử dụng Quán Trí Bất Tư Nghì để thấy và biết rõ tánh duyên khởi huyền diệu của vạn pháp. Vì thế khi nói đến Bất khả tư nghìchúng sinh không vận dụng công phu trong việc “Tư Duy” “Quán Chiếu” để thể nhập Thập Huyền Duyên Khởi thì không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục đích của kinh.

Thập Huyền Duyên Khởi là mười sự duyên khởi huyền diệu của tất cả vạn pháp trong thế giới nhân sinh vũ trụ nầy mà được giải thích trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham Huyền Ký của ngài Hiền Thủ. Đó là:

1)Đồng Thời Cụ Túc Tương Ưng: Trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Thí dụ một giọt nước có đủ của muôn ngàn sông biển.

2)Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng: Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau mà không phá hoại cái tướng riêng biệt của mỗi vật. Thí dụ như có ngàn cây nến đang cháy trong một gian phòng, nhưng ngọn đèn này lẫn hiệp với ngọn đèn kia mà ngọn đèn nào cũng có ánh sánh riêng của nó.

3)Chư Pháp Tương Tức Tự Tại: Pháp nầy dung thông pháp kia và pháp kia dung thông pháp nầy tức là trong pháp nầy hàm chứa chủng tử của tất cả pháp kia và trong pháp kia có chứa chất liệu chủng tử của chất nầy. Vì thế chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau, tương tức tương nhập một cách tự tại. Thí dụ như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

4)Quảng hiệp tự tại vô ngại: Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn. Một vật gọi là nhỏ, chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái Lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mảy lông có thể chứa cả càn khôn vũ trụ mà không chật. Nói một cách khác, trong pháp giới, sự sự đã vô ngã, dung thông thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông.

 

5)Nhân Đà La Võng Cảnh Giới: Nhơn-đà-la tức là phiên âm chữ Indra là cõi trời Đế Thích. Theo Bà-la-môn giáo thì trên cõi trời Nhơn-đà-la có các màn lưới bằng bửu châu; mỗi hạt bữu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này, hạt khác chói sáng lẫn nhau lớp lớp không cùng tận. Pháp môn nầy thì cũng thế. Trong mỗi pháp có nhiều pháp khác và trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp khác nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng vô tận. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:”Tất cả thế giới đều như thế giới màn lưới Nhơn-đà-la.

6)Vi Tế Tương Dung An Lập: nghĩa là rộng hẹp tự tại vô ngại. Dù vật nhỏ cách mấy như một mảy may hay ở một điểm vi tế nào cũng hàm dung chất liệu của tất cả hiện tượng vạn pháp. Thí dụ như một giọt nước thì bao gồm bởi nhiều hạt nước, mà mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất. Mỗi hóa chất gồm biết bao nguyên tử và mỗi nguyên tử thì gồm nhiều điện tử và cái nhân. Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

7)Bí Mật Ẩn Hiện Câu Thành: Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn và khi phương diện kia ẩn thì phương diện nầy hiện. Trong ẩn có hiện, trong hiện có ẩn, ẩn hiện đắp đổi nhau mà thanh tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại chống đối nhau. Thí dụ có một pho tượng bằng vàng. Nếu chúng ta chú ý đến vàng thì không chú ý đến cái đẹp của pho tượng. Ngược lại khi chú ý đến cái đẹp của pho tượng thì không chú ý đến chất vàng. Nói tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn và khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn.

8)Mười Đời Cách Pháp Dị Thành: Đây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Đáng lẽ ra chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương lai là đủ, nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi thì Kinh chia làm mười đời. Đó là trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai, trong hiện tại và tương lai cũng thế. Như vậy có tất cả chín đời, nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có ý niệm với thời gian. Vì thế cho nên ngoài chín niệm riêng biệt cộng thêm một niệm tổng quát thành ra mười.

9)Chủ, bạn,viên minh công đức: Nếu ta lấy một pháp làm chủ thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy công đức, lớp lớp không cùng tận. Thí dụ như mặt trăng sáng trên không trung chiếu rọi khắp sông ngòi, đồi núi, ao hồ làm cho cảnh vật khắp nơi càng thêm rạng rỡ.

10)Thác Sự Hiểu Pháp Sanh Giải: Nghĩa là nhờ Sự mà hiểu được Lý, nhưng khi Lý đã rõ thì Lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Thí dụ như vết dầu lan ra trên mặt nước, chỉ một tia lửa có thể bừng cháy rất xa.

Thập Huyền Duyên Khởi giúp chúng sinh có được một cái nhìn sâu xa về sự duyên khởi của tất cả vạn pháp trong thế gian vũ trụ nầy. Theo tinh thần của Hoa Nghiêm thì giải thoát mà vẫn không phá hoại thế gian tướng nghĩa là không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Nói một cách khác nếu chúng sinh phân biệt được chân, vọng để khử trừ điên đảo khiến cho tâm được thanh tịnh thì có giải thoát. Có thấu hiểu Thập Huyền Duyên Khởi thì khi đọc đến phẩm Bất Tư Nghì mới không còn nghĩ rằng Bồ-tát làm những chuyện phi lý, ảo tưởng, hoang đường.

Trong Phật giáo thì sự phát triển trí tuệ tùy theo khả năng nhận biết chân tướng của nhân sinh vũ trụ.

1)Đối với phàm nhân thì họ nhìn cuộc đời, thế gian vũ trụ bằng nhục nhãn tức là bằng đôi mắt thịt nghĩa là cái gì có hình sắc, kích thước, âm thanh, mùi vị…thì họ cho là thật. Họ tin thân mình là thật nên còn chấp ngã, tin thế gian vũ trụ là thật nên còn chấp pháp. Vì còn chấp ngã, chấp pháp nên tham-sân-si, mạn nghi, tà kiến phát tác mà tạo ra nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.

2)Nhất Thiết Trí: Các vị Thanh văn không nhìn đời bằng nhục nhãn như phàm nhân mà họ nhìn thế gian bằng Pháp nhãn. Họ thấy thân mình là không thật, là tạm bợ, là dơ dáy, là cội nguồn của những nổi khổ nên họ cố tu để chứng đắc sự an lạc của Niết bàn và tìm sự giải thoát quả vị Bồ-đề. Chẳng những nhìn thân mình không thật mà họ còn nhìn cả thế gian vũ trụ cũng không thật nên chán ngán cuộc đời và tránh xa bụi trần ô nhiễm. Vì thế hàng Thanh văn thì chấp ngã không còn tức là Ngã Không, nhưng vì còn thấy có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có đạo quả Bồ-đề để đắc nên họ vẫn còn chấp Pháp tức là Pháp có. Cho nên cái trí tuệ của họ không phải là trí tuệ giải thoát tự tại mà vẫn còn dính mắc của Pháp nên trí tuệ nầy là Nhất Thiết Trí.

3)Đạo Chủng Trí: Đối với các vị Bồ-tát thì họ nhìn thế gian vũ trụ bằng Tuệ nhãn tức là họ hành thâm bát nhã ba-la-mật để thấy rằng ngũ uẩn giai không. Dưới mắt của họ thì thế gian vũ trụ là do duyên khởi tạo thành nên tất cả đều là giả huyễn, là không thật, là Không. Vì ta là giả, là không thật nên họ có ngã không. Ta không thật thì người và thế gian vạn vật cũng không thật nên họ có pháp không. Nói một cách tổng quát dưới mắt của Bồ-tát thì thế gian vũ trụ là Không. Mặc dù biết thế gian là Không, nhưng Bồ-tát vẫn còn chấp cái Không nên tâm không được hoàn toàn tự tạitrí tuệ chưa hoàn toàn sáng suốt triệt để nên cái trí tuệ nầy gọi là Đạo Chủng Trí.

4)Nhất Thiết Chủng Trí: Hàng Thanh văn thì chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì vẫn còn chấp Không. Nếu bây giờ bỏ được chấp Pháp có và chấp Không tức là không còn chấp có pháp môn để tu, có Niết bàn để chứng, có quả vị Bồ-đề để thành và không còn chấp thế gian vũ trụ là Không thì có được trí tuệ viên mãn, dung thông tự tại mà nhà Phật gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì thấy vạn pháp là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Vì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã chia ly thì vạn pháp diệt. Thế thì vạn pháp do nhân duyên hòa hợp nên sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà người được Nhất Thiết Chủng Trí thì luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh của hiện tượng vạn pháp nên không cần phải tiêu cực như hàng Thanh văn và cũng không cần phủ nhận tất cả như các vị Bồ-tát mà phải thấy vạn pháp nầy có mà không phải có thật. Mặc dầu không phải có thật mà hiện giờvẫn có vì thế nên người có Nhất Thiết Chủng Trí làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù chúng sinh là không có thật. Đây chính con đường trung đạo dung thông giữa cái Có và cái Không và chỉ có Phật mới đạt được cái trí tuệ nầy.

Khi Bồ-tát trụ Bất Tư Nghì Giải Thoát để làm những việc Bất Tư Nghì là cách vận dụng ngôn ngữ để chuyên chở trí tuệ Bất Tư Nghì của con người đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí huệ của một vị Phật, của một bậc Chánh đẳng Chánh giác.

Cách nay trên mấy ngàn năm khi khoa học chưa phát triển như ngày nay mà Đức Phật Thích Ca đã cho chúng sinh một khái niệm về thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Ngài thường ví mỗi thế giới như một hạt cát của sông Hằng. Trong kinh nầy Bồ-tát Văn Thù đại diện Phật mà nói rằng ở về phía hướng Đông cách trái đất của chúng ta ba mươi sáu lần cát của sông Hằng thì có một quốc độTu Di Tưởng và Đức Phật hiệu là Tu Di Đăng Vương Như Lai.

Kinh điển Phật giáo Đại thừa, mỗi khi giới thiệu một vị Phật hay một vị Bồ-tát thì kinh thường ám chỉ một đức tính cao quý, một ý nghĩa thiêng liêng huyền diệu như trong phẩm Bồ-tát có nói đến Đức Nan Thắng Như Lai. Trong phẩm nầy, kinh lại giới thiệu Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai nghĩa là ngọn đèn vua tức là ngọn đèn sáng nhất, chiếu soi xa nhất và cao nhất trên núi Tu Di. Nhưng thật ra tất cả những đức tính trên là muốn ám chỉ cho Chân tâm, Phật tánh bất sanh bất diệt sáng soi vô cùng vô tận có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh.

Mỗi tòa sư tử cao rộng 84,000 do tuần mà một do tuần dài 30 km. Cho nên tòa sư tử cao rộng 2,520,000 cây số vuông. Vậy mà ông Duy Ma Cật dùng sức thần thông đem về 32,000 tòa sư tử cao rộng như thế và đặt hết vào trong cái tịnh thất của ông, ngay cả thành Tỳ Xá Ly và xóm làng cũng không chật chội hơn chút nào.

Dựa trên sự kiện này, kinh Duy Ma Cật muốn nói gì đây? Và chúng ta là người Phật tử phải tin hiểu cách nào?

Tại sao đem 32,000 tòa sư tử to lớn như thế mà đặt vào tịnh thất cho được? Phải chăng đây là chuyện ảo tưởng, hoang đường?

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc thì gọi là địa đại. Khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát cũng giống như Quán Tự Tại Bồ-tát trong Tâm Kinh đã xác định rằng:” Quán tự tại Bồ-tát hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Vì thế ông Duy Ma Cật cũng hành thâm bát nhã ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không để thấy sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc và sắc tức là không và không tức là sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Trong khi đó kinh Lăng Nghiêm cũng nói thêm rằng:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Khi Bồ-tát đã có trí tuệ sáng suốt triệt để thì họ nhìn sắc tức là không. Không ở đây chính là đương thể bất không tức là không chẳng khác sắc. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinhứng hiện. Cho nên nếu Bồ-tát có tâm cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không nghĩa là Sắc tức là Không.

Nếu đứng về phương diện sắc Tướng thì mới có sự phân biệt cao thấp, to lớn, rộng hẹp. Nhưng ở đây kinh muốn nói đến Thể Tánh tức là tánh Không của Bát nhã thì làm gì có lớn nhỏ, cao thấp. Tánh Không thì không có hình tướng, kích thước nên tất cả vạn pháp dung thông rất tự tại. Thể Tánh, Chân Không tức là Phật Tánh, Chơn Tâmtâm thanh tịnh bản nhiên của tất cả chúng sinh. Chính cái Chơn Tâm có khả năng chuyển biến xoay vần, duyên khởi tác dụng vạn pháp vào nhau hình thành một cách mầu nhiệmchúng ta gọi là thần thông biến hóa. Ngày xưa các vị đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... sau khi đã được tâm thanh tịnh thì tự nhiên họ cũng phát hiện những thần thông tự tại. Còn ở đây ông Duy Ma Cật đã thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí tức là trí tuệ của một vị Phật thì khả năng thần thông biến hóa còn xa biết bao, không thể nghĩ bàn.

Thêm nữa, muốn đừng hiểu đây là chuyện phi lý, hoang đường, thần thoại thì chúng sinh phải biết Quảng Hiếp Tự Tại Vô Ngại tức là rộng hẹp tự tại vô ngạitư duy quán chiếu về Thập Huyền Duyên Khởi để hiểu hiện tượng nầy bằng trí, thấy bằng trí cho nên thấy thật chân lý mà không phải thật thấy. Không thật thấy vì không thể nào đặt 32 ngàn tòa sư tử vào trong cái tịnh thất được, nhưng chúng có thể thấy thật là vì chúng ta thấy hiện tượng nầy bằng trí vì Nhất Đa Tương Dung tức là một và nhiều tương dung nhau, Chư Pháp Tương Túc Tự Tại nghĩa là cái nầy là cái kia và cái kia có cái nầy, Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng tức là một pháp có đủ, chất liệu của vạn pháp.

Vi Tế Tương Dung An Lập là bất cứ vật chất nào trong thế giới vũ trụ nầy thì cái nhỏ (vi tế) vẫn tương dung trong cái lớn và ngược lại tức là nếu chúng ta lấy một mẫu cực nhỏ của vật chất thì nó cũng bao hàm tất cả những đặc tính của vật chất ấy cho dù vật chất nầy to lớn như hành tinh vũ trụ. Thí dụ như khoa học ngày nay, chúng ta chỉ cần lấy một mẫu DNA của bất cứ con người, súc vật hay vật chất nào thì mẫu DNA nầy là bao gồm tất cả những tính đặc thù của vật chất đó. Bây giờ hãy quan sát pháp Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng môn. Đó là bất cứ một vật gì trong thế gian vũ trụ nầy cũng bao hàm đầy đủ tất cả những chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp, duyên khởi mà hình thành. Nói một cách khác bất cứ vật chất gì cũng từ lục đại duyên khởi mà ra. Đó là chúng phải có đầy đủ đất, nước, gió, lửa, không gian và thức mà duyên sanh và khởi sanh để tạo thành con người, cây cỏ, nhà cửa, áo quần, xe cộ, ly chén, bát đỉa, thức ăn thức uống và hành tinh vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng Bản Thể của chúng vẫn là một. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình tướng có thể hoạt động. Thí dụ như khi cầm cái ly thì cái ly nầy đã có đủ đất, nước, gió, lửa, không khí và thức (năng lực) để duyên khởi mà kết thành cái ly. Còn nếu đem cái ly ra phân tích dựa theo khoa học thì nó có biết bao hóa chất như khoáng, nước, khí, đồng, kẻm, chì, oxgen…hợp lại. Bây giờ chúng ta nên biết pháp Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng nghĩa là một là một của tất cả và tất cả là tất cả của những cái một dung nhiếp quyện chặt vào nhau. Nói một cách khác một là tất cả và tất cả là một. Trong thế giới vô cùng vô tận nầy thật ra cũng bắt đầu từ những vật chất rất vi tếduyên khởi tác tạo hình thành. Đây chính là sự biến hiện thay đổi của không gianthời gian.

Ngày nay khoa học đã chúng minh sự hình thành của tất cả thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng bắt nguồn từ sự nổ tung của một vi tử mà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn (The Big Bang) cách nay khoảng 13.7 tỷ năm về trước. Theo lý thuyết nầy thì tất cả vật chấtnăng lượng được chất chứa trong một vi tử cực nhỏ, nhỏ hơn cả kích thước của một nguyên tử. Điểm vi tử nầy có mật độ vật chất và nhiệt độ vô hạn lớn hàng tỷ tỷ độ C (lớn hơn 1030 độ C). Vì chịu áp xuất quá lớn và độ nóng cùng cực nên vi tử nầy bị nổ tung và từ đó không gian từ từ mở rộng dựa theo tiến trình nguội dần của những phần phân tán vi tử. Dựa theo sự đo lường của khoa học thì khoảng 300,000 năm sau đó thì những nguyên tử mới được hình thành và nhiệt độ vẫn còn nóng đến 10,000 độ C. Khoảng một tỷ năm sau đó thì khí Hydrogen và Helium mới được tạo tác và những đám mây cũng như hành tinh bắt đầu xuất hiện và lực hút quân bình giữa các hành tinh cũng hình thành. Khi nhiệt độ giảm dần thì không gian cũng từ từ nới rộng và những dãy thiên hà cũng vì thế được kiến tạo cho đến ngày nay. Hiện nay thì vũ trụ vẫn còn trong trạng thái nới rộng nên sẽ có nhiều dãy thiên hà mới được tạo dựng. Khi không gian được mở rộng cùng với thời gian làm cho các dãy thiên hà di chuyễn xa nhau hơn. Để có một cái nhìn đơn giản về sự hình thành của nhân sinh vũ trụ, các khoa học gia đã giới thiệu cuốn Lịch Vũ Trụ (the Cosmic Calender) như sau: Bắt đầu từ ngày một tháng giêng thì vi tử nổ tung (The Big Bang) và dãy Ngân Hà (Milky Way) được tạo thành ngày 31 tháng giêng. Mãi đến tháng tám thì Thái dương hệ (Solar System) mới hình thành. Nhưng khoảng ngày 16 đến ngày 17 của tháng tám thì cuộc sống của các sinh vật mới hiện hữu trên trái đất nầy. Và sau đó loài người được hình thành ngày 31 tháng tám. Nhưng trong tương lai khi vũ trụ giản nở đến một kích thước cực đại thì nó sẽ bắt đầu co lại. Dấu hiệu của tận thế là khi tất cả các hành tinh và vũ trụ từ từ nguội dần và tắt hẳn cũng như mặt trời trong thái dương hệ không còn cháy và toàn thái dương hệ sẽ chìm trong bóng tối. Thế giới sẽ trở thành băng giá và tan biến vào tháng ngày 16 tháng năm năm tới của Lịch Vũ Trụ. Sau đó, vũ trụ sẽ trở nên đặc hơn, nóng hơn và sau cùng thu gọn bằng một vi tử như lúc ban đầu. Những tôn giáo thờ phượng Thượng đế thì họ lý luận rằng nếu thế gian vũ trụ bắt đầu từ một vi tử thì đây chính là điểm khởi đầu tức là thỉ? Nếu đã có thỉ thì Phật giáo làm sao giải thích nguyên lý vô thỉ vô chung? Chẳng những thế mà họ còn tự nhận Thượng đế chính là vi tử trên đã sáng tạo ra tất cả. Chỉ có Phật giáo là có quan niệm rất chính xác và tương đồng với khoa học vì Phật giáo xác định vũ trụ là vô thỉ vô chung tức là không có điểm bắt đầu hay có ngày cùng tận mà chẳng qua là những chu kỳ duyên khởi sinh diệt mà thôi. Vi tử nổ tung tạo thành vũ trụ và khi vũ trụ thu trở lại thì sẽ thành vi tử. Chu kỳ nầy xảy ra vô cùng vô tận thì cái nào là cái bắt đầu? Còn nếu nói Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ thì sau bao nhiêu tỷ năm vũ trụ thu dần nhỏ lại thành vi tử thì ai chịu trách nhiệm cho việc nầy? Thánh kinh xác định là Thượng đế đã tạo ra trái đất nầy khoảng mười ngàn năm, nhưng ngày nay khoa học đã chứng minh trái đất hiện diện trong vũ trụ nầy gần năm tỷ năm rồi. Nếu nói chỉ có mười ngàn năm thì làm sao nói xưa như trái đất được! Tóm lại, khoa học cũng chứng minh rằng khi đũ nhân duyên thì từ một vi tử mà sanh ra vũ trụ và khi hết nhân duyên thì vũ trụ bao la vô cùng vô tận cũng trở về thành một vi tử mà thôi.

Hiện tượng nầy không có gì xa lạ đối với Phật giáo. Đó chính là bất biến tùy duyêntùy duyên bất biến của Pháp giới duyên khởi của đại thừa. Khi nhân duyên hòa hợp thì tạo thành con ngườivũ trụ nghĩa là bất biếntùy duyên. Còn nhân duyên tan rã thì con người, vũ trụ sẽ trở về với bản thể ban đầu tức là tùy duyênbất biến. Thế thì đâu có cái gì Có và Mất đâu. Đây chẳng qua là tiến trình của Duyên Khởi mà thôi.

Khoa học thì cũng chứng minh như thế. Nguyên lý bảo tồn năng lượng xác định rằng năng lượng luôn luôn được bảo tồn tức là năng lượng không bao giờ mất mà chỉ thay hình đổi dạng (dU=dQ-dW). Thí dụ như chúng ta mở cái nút điện thì đèn sáng nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang quang năng. Một thí dụ khác là khi mở máy xay sinh tố thì máy chạy nghĩa là năng lượng chuyển từ điện năng sang cơ năng. Cũng như nước chảy của đập thủy điện là cơ năng làm cho các trục biến điện di động tạo thành điện năng. Một nguyên lý thứ hai của vật lý học xác định rằng tất cả tổng số sự bất ổn của vật chất luôn luôn tăng trưởng nghĩa là vật chất sẽ hư hoại, tan biến dựa theo thời gian (Q/T≥0). Đây chính là luật vô thường vô ngã của nhà Phật vậy.

Vì có Nhất Thiết Chủng Trí nên ông Duy Ma Cật có thể hiểu biết tất cả các pháp và Thể Tánh chân thật của nó. Khi sử dụng Nhất Thiết Chủng Trí thì ông Duy Ma Cật thấy, biết rõ ràng một pháp có đủ chủng tử, chất liệu của vạn pháp và tự nó ứng hợp lại với nhau mà hình thành. Pháp nầy hàm chứa chủng tử của pháp kia và chủng tử của vạn pháp trùng trùng duyên khởi cho nhau. Mặc dù một pháp là yếu tố cấu tạo nên vạn pháp nhưng tướng một pháp và tướng vạn pháp vốn không hai mà cũng không phải là một tức là bất nhị. Thêm nữa, ông Duy Ma Cật quán chiếu Nhân Đà La Võng Cãnh Giới để thấy biết vạn pháp tương ứng, tương túc và tương nhập tác dụng lẫn nhau như sự ánh hiện trùng trùng phản chiếu vô cùng vô tận. Do đó khi đem 32 ngàn tòa sư tử to lớn như thế vào nhà mà không hề bị chật hẹp đó chính là Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại. Tất cả những tòa sư tử vì không có tướng trạng mà chỉ là tư tưởng nên chúng không bị giới hạn bởi không gian hữu hạn nên không bị chật hẹp. Chân tâm thì vô cùng vô tận, không những đem 32 ngàn tòa sư tử mà có thể thu nhiếp cả thế giới vũ trụ vào mà không bao giờ đầy cả. Thí dụ như khi nhìn ngọn Hy Mã Lạp Sơn thì chúng ta liền đem ngọn núi to lớn nầy vào trong tâm tưởng của mình mà không thấy to lớn, chật hẹp bởi vì ngọn núi chỉ là tư tưởng chớ không phải thật có. Ở đây hàng thấp nhất là A La Hán đều đã đoạn tất cả phiền não lậu nên có được tâm thanh tịnh tức là có được Chân tâm nên ông Duy Ma Cật dùng Chủ, Bạn Viên Minh Công Đức khiến mọi người thấy biết những hiện tượng bất khã tư nghì nầy một cách rõ ràng như thật.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật mời Bồ-tát Văn Thù và chư đại Bồ-tát an tọa. Các Bồ-tát được thần thông tự biến thân cao lớn bốn muôn hai ngàn do tuần, mới lên tòa ngồi được. Các Bồ-tát tân phát ý và hàng Thanh Văn đại đệ tử đều không lên ngồi được.

Trưởng giả Duy Ma Cật mời ông Xá Lợi Phất thăng tòa.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! tòa cao quá tôi không lên được.

Trưởng giả Duy Ma Cật nói:

- Xá Lợi Phất! Ngài hãy làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai rồi có thể lên tòa ngồi được.

Hàng tân phát ý Bồ-tát và tất cả đại đệ tử Thanh Văn làm lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, bấy giờ mọi người đều lên được tòa ngồi.

Quả vị Phật, trí tuệ Bồ-đề ngay cả Niết Bàn thanh tịnh không phải chỉ dành riêng cho Phật, nhưng Phật và Bồ-tát có Bồ-đề, có Niết bàn, riêng về phần Như Laivô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn phàm phu chúng sinh thì cũng có tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn như vậy, nhưng họ không hưởng được Niết bàn an lạc nầy và không sử dụng được trí tuệ vô thượng Bồ-đề của mình mà còn chìm đắm trong vòng sắc tài danh lợi thị phi phải quấy hơn thua tốt xấu nên phải chịu chập chùng đau khổ hàng ngày cho đến hết kiếp. Sau khi đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã hồi đầu thị ngạn thì họ mới có thể lên tòa ngồi được. Tại sao? Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì vốn cũng đã ở trên bờ như Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dụcvô minh che lấp trí tuệ nên đã lên thuyền vượt ra biển cả mênh mông mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bây giờ nếu nghe lời ông Duy Ma Cật mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có thể lên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi đầu thị ngạn tức là có hồi thuyền mới có ngày đến bến. Người học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhận được chân lý huyền diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phật và Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng chính chúng sinh phải tự mình hồi đầu thị ngạn bằng cách áp dụng những chân lý nhiệm mầu của Phật. Đó chính là ba từng kinh điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ không có nghĩa là Phật ra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã ban cho. Thí dụ như chúng ta muốn khai khẩn một lô đất để trồng rau cải. Phật đem cuốc xẻn đến giúp chúng taphương tiệnchỉ dẫn cách trồng trọt. Nếu chúng ta y giáo phụng hành thì sau vài tháng sẽ có vườn rau xanh mướt. Nói một cách khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng lạy cho ai hết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, chèo chậm là tùy theo căn cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngày đến bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành riêng cho Như Lai, nếu các vị Thanh Văn chịu hướng về với tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh của mình thì sẽ có Bồ-đề ngay.

Các đại Bồ-tát thâm nhập trí tuệ Đại thừa nên không còn chấp ngã, chấp pháp. Họ lìa Sự Tướng mà nhập Bản Thể thanh tịnh nên có thần thông diệu dụng và tâm thể dung thông với vạn pháp nên không có gì ngăn ngại. Họ quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại mà tự biến hóa tương ứng với kích thước tòa sư tử nên mới lên tòa sư tử ngồi được. Nhưng đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm và hàng Thanh Văn thì họ còn chấp Pháp tức là thấy có pháp môn để tu, có quả vị để chứng và còn cầu Niết bàn để được an vui tịch diệt nên chưa thâm nhập được Bản Thể thanh tịnh mà không thể dung thông với vũ trụ và hòa nhập với thiên nhiên được. Mặc dầu họ cũng có thần thông nhưng bị giới hạn. Sau khi đảnh lễ Đức Tu Di Đăng Vương Như Lai có nghĩa là họ đã lìa Tướng mà nhập Thể Tánh. Bỏ Tiểu thừa về với Đại thừa, bỏ tối về sáng, lìa vô minh về với trí tuệ hằng sáng chói của mình thì họ có được thần thông diệu dụng và tự mình biến hóa để lên ngồi trên tòa sư tử.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Thưa cư sĩ! Quả là việc lạ lùng chưa từng có. Diện tích của ngôi tịnh thất hữu hạn nầy mà lại có thể dung chứa hàng mấy muôn cái tòa rộng. Thành Tỳ Xá Ly, xóm làng, cõi nước đều không chật chội trở ngại gì nhau. Đây là việc chưa từng có.

Ông Duy Ma Cật nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật, Bồ-tát có pháp môn giải thoát gọi là :”Bất Khả Tư Nghì”. Nếu Bồ-tát trụ trong pháp môn giải thoát đó, có thể lấy núi Tu Di cao rộng để vào trong một hạt cải, mà núi Tu Di vẫn y nguyên trạng, hạt cải vẫn không thêm bớt chút nào. Trời Thiên Vương, Đạo Lợi, Chư Thiên không hề hay biết cảnh giới Chư Thiên đang ở trong hạt cải. Chỉ có những người đáng độ (Bồ-tát đăng địa), mới thấy biết núi Tu Di được đặt vào trong hạt cải.

Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát tức là Bồ-tát đã thành tựu Bát nhã ba-la-mật. Tất cả những cái vật chất trong thế gian nầy mà kinh Lăng Nghiêm gọi là Sắc tức là địa đại. Cho nên khi Bồ-tát lấy núi Tu Di để lọt vào trong hạt cải thì đây chính là sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Vì Thể Tánh của Sắc có tính thanh tịnh bản nhiên nhưng sở dĩ nó có là tùy theo tâm lượng hay theo sự yêu cầu của chúng sinh mà phát hiện. Cho nên nếu Bồ-tát cầu cở nào thì nó phát hiện cở ấy còn không cầu thì nó không có. Nói một cách khác là Bản Thể của vật chất là Không tức là Sắc tức là Không. Do đó khi thấy hiện tượng giới như đem vật lớn đặt vào chỗ nhỏ là Bồ-tát muốn chúng sinh tư duy quán chiếu để thấy một cách triệt đểngũ uẩn giai không.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, có thể lấy nước biển cả để vào lỗ chân lông mà nước biển cả vẫn y nhiên. Các loài thủy tộc cá, tôm, rùa, rạch…không bị khuấy động. Long vương, quỷ thần, A tu la…không hề hay biết và họ chẳng bị nhiễu hại chút nào.

Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoát, còn xắn lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay và ném qua hằng hà sa thế giới, rồi thu về đặt lại chỗ củ mà thế giới vẫn y nhiên. Người người ở trong các thế giới kia không hề hay biết về sự đi lại của mình.

Còn Bồ-tát đem nước biển để vào lỗ chân lông hay lấy ba ngàn đại thiên thế giới để trên bàn tay là ý như thế nào?

Hai hiện tượng trên đây cũng đều là phản ảnh cho sự biến đổi của không gian vì thế chúng ta cũng có thể áp dụng câu:”Tánh thủy chơn Không, Tánh không chơn thủy, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện” nghĩa là Tánh của nước là Không, Tánh Không là nước, tự nó rất thanh tịnh, nhưng vì nhu cầu của chúng sinhứng hiện. Vì nước nầy là do tinh khí và dưỡng khí hòa hợp mà thành nghĩa là nước không có tự tánh tức là Không. Khi đầy đủ nhân duyên hội tụ thì Không trở thành nước còn bình thường thì nước trang biến pháp giới mà lại thanh tịnh bản nhiên. Cho nên ở đâu cũng có nước mà nước không làm ngập lụt chết người vì tánh của nước là thanh tịnh bản nhiên. Chỉ khi nào cần và có đủ nhân duyên hội tụ thì Không thành ra nước tức là tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng nghĩa là đáp ứng tùy theo nhu cầu của chúng sinh. Do đó đứng về sắc thì thấy có nước biển nhiều, nhưng Bản Thể của nước biển là Không cho nên nếu Bồ-tát quán Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại thì có thể biến hiện Thể Không của nước biển vào trong lỗ chân lông là vậy.

Còn nữa, thưa ngài Xá lợi Phất! Nếu có chúng sinh thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, trong khoảng bảy ngày, Bồ-tát nói với họ là một kiếp, khiến chúng sinh kia tin nhận là một kiếp.

Hoặc có chúng sinh không thích sống lâu ở đời, vì hóa độ họ, Bồ-tát rút ngắn một kiếp nói là bảy ngày, khiến chúng sinh kia tin nhận là bảy ngày.

Những phần trên của phẩm nầy thì Bồ-tát đã biểu diễn Bất khả tư nghì giải thoát do sự thay đổi biến hiện của không gian. Bây giờ ông Duy Ma Cật muốn chứng minh thời gian cũng như không gian là vô thường vô ngã sinh diệt, là những tướng trạng tương đối, là những khuôn mẩu đặt ra để phân biệt, là giả huyễn không thật có.

Dựa theo Mười Đời Cách Pháp Dị Thành thì một đời bao gồm cả ba đời nghĩa là ngay trong đời hiện tại đã có sự hiện diện của đời quá khứ, hiện tạivị lai. Tại sao? Bởi vì đời hiện tại của chúng ta ngày nay chẳng qua là kết quả của biết bao nghiệp nhâncon người đã tạo tác trong những đời quá khứ và cũng chính đời hiện tại nầy chúng ta đang tạo ra rất nhiều nghiệp nhân mà sẽ là kết quả cho đời tương lai. Vậy đời nào là đời thật? Vì thế đời không có gì làm tiêu chuẩn cho quá khứ, hiện tại, vi lai cả. Thí dụ như nhìn thấy một người chúng ta cho họ là năm sáu mươi tuổi. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để chúng ta kết luận như vậy? Phải chăng là nhìn thấy người nầy tóc hoa râm, mắt kém…Nhưng thật sự làm sao biết chắc người nầy năm sáu chục tuổi? Có người sáu bảy chục tuổi mà mắt vẫn sáng như sao, tóc da tươi nhuận. Còn có người mới ba bốn mươi tuổi nhưng vì cuộc sống đầu tắt mặt tối nên đầu tóc bạc phơ thì già hơn trước tuổi là chuyện thường. Do đó nếu dựa trên thời gian thì không tìm đâu cho ra tuổi. Tuổi mà con người dựa theo là tính theo sự vận chuyển của địa cầu quanh mặt trời đâu có giống tuổi của những thế giới khác. Một ngày trên không gian dài hơn một ngày dưới địa cầu rất nhiều. Ngày xưa Lưu Nguyễn ngao du chốn bồng lai mới vài năm mà khi về lại nhà củ làng xưa thì hoàn toàn thay đổi vì mấy năm tiên cảnh bằng vài trăm năm trần thế. Vậy tuổi nào là tuổi thật? Kiếp sống chết của con người không bao giờ có thể luận theo tuổi tác được. Có người chết già, có kẻ chết bệnh và có kẻ sống dở chết dở cho nên thời gian chẳng có giá trị chân thật bởi vì khái niệm thời gian chỉ là dựa trên sự vô thường chuyển biến của các pháp hữu vi. Thí dụ như ngày và đêm đâu có đồng nhất. Ngày ở Hoa kỳ tức là đêm ở Việt nam vậy thời gian cùng một thế giới nhỏ nầy mà không giống nhau thì làm sao gọi là chân lý.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát lấy những sự trang trí đẹp đẽ của tất cả cõi Phật nhóm lại ở một chỗ chỉ bày cho chúng sinh xem thấy rõ ràng. Bồ-tát lấy tất cả chúng sinhcõi Phật để trên bàn tay bay đến khắp mười phương, chỉ rõ cho tất cả mà “bổn xứ” không hề động chuyển.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Những món đồ cúng dường chư Phật trong mười phương, Bồ-tát có thể đem vào trong một lỗ chân lông khiến cho ai cũng có thể được thấy.

Mười phương cõi nước có bao nhiêu nhật nguyệt, tinh tú gom về trong một lỗ chân lông, khiến cho xem thấy dễ dàng.

Mười phương thế giới có bao nhiêu gió, Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Tất cả cây cỏ bên ngoài không bị gãy đổ.

Mười phương thế giới, khi kiếp tận, lửa cháy ngút trời, Bồ-tát hút tất cả lửa vào trong bụng mà thân không bị tai hại.

Bồ-tát có thể lấy một cõi Phậthằng hà sa thế giới ở hạ phương, cầm đem lên cách hằng hà sa số thế giớithượng phương như cầm một que tăm găm vào một là táo, không khó khăn mệt nhọc chút nào.

Còn nữa thưa ngài Xá Lợi Phất! Trụ bất tư nghì giải thoát, Bồ-tát có thể dùng thần thông hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Chuyển luân Vương.

Lại nữa, trong mười phương thế giới có bao nhiêu thứ âm thanh, thượng, trung, hạ đều có thể biến thành âm thanh Phật, diễn nói những pháp của chư Phật trong mười phương đã nói như vô thường, khổ, không và vô ngã khiến cho chúng sinh hữu duyên đều được nghe.

Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tôi lược nói về thần lực bất khả tư nghì giải thoát của Bồ-tát là thế. Nếu nói rộng suốt kiếp cũng không nói hết được.

Cũng như lửa cháy ngút trời mà Bồ-tát hớp vào miệng mà thân không hề tổn hại. Nếu nhìn bằng nhục nhãn thì làm sao hớp lửa ngút trời vào trong bụng cho được, nhưng ở đây một lần nữa Bồ-tát không nhìn vật chất bằng nhục nhãn mà nhìn bằng mắt trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì thấy lửa tức là Không và Không tức là lửa (Tánh hỏa chơn Không, Tánh Không chơn hỏa). Thanh tịnh bản nhiên là lửa ở khắp trong vũ trụ mà không làm cháy ai hết, nhưng nếu chúng sinh tâm ứng sở tri lượng tuần nghiệp phát hiện thì nếu con người cần lửa thì nó mới cháy. Thí dụ như ánh sáng mặt trời là một dạng của lửa thì có cháy ai đâu, nhưng chỉ khi nào chúng ta đem kính lúp đặt dưới ánh sáng mặt trời thì sẽ có lửa cháy ngay.

Nói chung những hiện tượng trên giúp chúng sinh tư duy quán chiếu về địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đạo và thức đại. Tất cả đều là Không mà Không chẳng khác có và có chẳng khác Không vậy. Nói một cách khác lửa chẳng khác Không và Không chẳng khác lửa.

Thêm nữa, khi Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát hiện các thân Phật, Bích Chi Phật, Phạm Vương…hay biến cả các thứ âm thanh to nhỏ thành tiếng Phật thì tất cả hiện tượng nầy đều là Sắc. Mà:”Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc, thanh tịnh bản nhiên trang biến pháp giới tùy chúng sinh tâm ứng sở ứng tri lượng tuần nghiệp phát hiện”. Dù biết thân Phật, thân Bích Chi Phật, ngay cả âm thanh hay tiếng Phật là giả huyễn mà Bồ-tát vẫn biến hiện các hình tướng thích hợp với hoàn cảnhhoằng dương Phật pháp. Họ dùng phương tiện để giúp chúng sinh tìm về với cứu cánh giải thoát giác ngộ.

Nếu chúng sinh biết tư duy quán chiếu để thấy biết rằng vũ trụ là do sự tạo thành biến hiện của không gianthời gian, nhưng không gianthời gian là giả huyễn, là vô thường vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khác hẳn với hàng Thanh Văn vì thấy thế gian vũ trụsinh diệt nên họ cố tu để mong chứng quả vị Bồ-đề và cầu sự tịch diệt an lạc của Niết bàn nên họ còn chấp Pháp có và các vị Bồ-tát thì chấp Không vì đối với họ vạn pháp giai Không tức là không có gì trên đời là thật có cả. Ở đây chúng sinh nên bắt chước chư Phật để xóa tan những tư tưởng về chấp Phápchấp Khôngnhận biết rằng vạn pháp tuy là Có nhưng không phải là Có thật, còn Không nhưng không phải là không của cái trống không. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanhchúng sinh vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Cùng lối nhìn như Bồ-tát để thấy rằng con người, vạn pháp là Không nghĩa là không thật có mà hiện giờvẫn có vì thế con người nên làm bất cứ cái gì cần làm để giúp đở cho tất cả chúng sinh mặc dù họ là không có thật.

Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc sống thì con người sẽ không còn chấp Tướng tức là hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoátung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.

Ngài Đại Ca Diếp sau khi nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, rất hoan hỉ, tán thán và nói với ông Xá Lợi Phất rằng:

- Ví như sắc tượng hiện hữu ngay trước mắt người mù nhưng người mù không sao thấy được. Cũng vậy, với pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, hàng Thanh Văn dù có nghe nhưng cũng không hiểu rõ được.

Người trí ai nghe mà chẳng phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Hàng Thanh Văn chúng ta vì sao lại dứt hẳn hạt giống đại thừa để cho mầm tược cháy khô. Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, nên khóc rống lên đi! Khóc cho vang động cả ba ngàn đại thiên thế giới! Còn tất cả các Bồ-tát, những người chủng tánh đại thừa nên hân hoan tiếp thụ, kê đầu đội lấy pháp môn nầy.

Bồ-tát tin và hiểu pháp môn bất khả tư nghì giải thoát, tất cả các ma dù có thể lực bao nhiêu đi nữa cũng không làm gì động chuyển.

Ngài Đại Ca Diếp nói xong. Khi bấy giờ có ba muôn hai ngàn thiên tử phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Các vị Thanh văn tuy chứng quả A La Hán và được ra khỏi sinh tử luân hồi nhưng tâm vẫn còn chấp trước nơi pháp Tiểu thừa nên chưa được giải thoát rốt ráo. Sau khi nghe Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát làm Bất tư nghì sự và trình diễn Bất tư nghì cảnh giới thì như người mê chợt tỉnh, bỏ tối tìm sáng mà phát tâm vô thượng Bồ-đề để quay về với chân lý liễu nghĩa tối thượng đại thừa.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với ngài Đại Ca Diếp:

- Thưa nhân giả! Trong thập phương vô lượng A tăng kỳ thế giới, những người làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát, dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh mà hiện làm ma vương như vậy.

Lại nữa, thưa ngài Ca Diếp! Bồ-tát trong mười phương nhiều vô số. Có khi người ta theo các ngài để xin mắt, mũi, tay, chân, máu thịt, xương tủy, đầu óc…Xin quốc thành thê tử, tượng mã, kim ngân…xin cả y phụcthức ăn. Người xin như vậy, phần nhiều là Bồ-tát trụ bất khả tư nghì giải thoát dùng sức phương tiện để thử thách hạnh sở hành của Bồ-tát khiến cho sức kiên cố càng thêm kiên cố.

Thử thách như vậy để làm gì?

Bởi vì Bồ-tát trụ bất tư nghì giải thoátnghị lựcuy đức lớn lao cho nên dùng những hành động bức bách dồn ép làm những việc khó làm để biểu thị sức tinh tấn, chỉ bày đức nhẫn nhục…vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh.

Hạng phàm phu hạ liệt không có uy lực, không thể kham chịu những sự bức bách nghiệt ngã như Bồ-tát được. Ví như sức lừa không chịu nổi sự dẫm đạp của long tượng.

Thông thường ma quỷ là những hình bóng, hiện tượng kỳ quái xuất hiện khiến cho con người lo sợ, khiếp đảm làm cản trở chướng ngại sự tu hành. Nhưng ở đây chính các vị Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát lại thị hiện làm ma vương để dùng phương tiệngiáo hóa chúng sinh. Thí dụ như có người phát nguyện tu bố thí ba-la-mật để phát triển chủng tử từ bi đại thừa thì ma vương thị hiện đến xin từ ngoại tài như vàng bạc, châu báu, thức ăn, áo mặc cho đến nội thân như chân tay, mắt, mũi…cốt là để thử thách người đó có thực hành hạnh bố thí như họ đã phát nguyện không. Ma vương cũng thị hiện đến quấy phá những người tu hạnh nhẫn nhục, quấy nhiễu những kẻ tu thiền, làm phân tâm những người niệm Phật. Ngày xưa lúc Đức Phật tu dưới cội Bồ-đề sắp thành ngôi Chánh giác thì Ma Nữ cũng xuất hiện rất nhiều để thử thách lòng kiên cố, tâm kiên nhẫný chí sắc đá của Ngài.

Thật ra ma vương mà kinh nầy muốn ám chỉ chính là lục dục thất tình núp thật sâu vào trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Đó chính là tham-sân-si, mạn, nghi, tà kiến…những ảo tưởng của thị dục, những thói hư tật xấu luôn thúc đẩy con người lún sâu vào vòng tăm tối, xấu xa. Khác hẳn với hàng Thanh văn hay phàm nhân thì sợ nghịch cảnh, không dám đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng, ở đây Bồ-tát trụ Bất tư nghì giải thoát thị hiện làm ma vương để giáo hóa chúng sinh tu trong nghịch cảnh. Có đối diện với nghịch cảnh, biết mặt thật của cuộc đời thì con người mới nung nấu chí nguyện của mình trở thành sắc đá, tăng trưởng tâm nhẫn nhục, phát huy lòng từ bi, đạo đức làm nền tảng cho tâm được thanh tịnh mà có trí tuệ sáng suốt. Vì thế người xưa cũng có câu:”Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, lửa có cao mới biết vàng nhiều tuổi, có vào hang cọp mới bắt được cọp con. Bồ-tát thì phải làm cho được những việc khó làm. Cố gắng tích cực chế ngự nghịch cảnh, vượt qua mọi khó khăn, cứu giúp tất cả chúng sinh mà không chán nản mệt mỏi và không hề bị dòng đời lôi cuốn. Bồ-tát luôn vận dụng trí tuệ để đáp ứng mọi yêu cầu, sang bằng mọi thử thách để hoàn thành hạnh nguyện. Khác với các vị A La Hán thấy đời vô thường vô ngã sinh sinh diệt diệt nên cố tu tìm giải thoát tịch diệt Niết bàn và mong chứng quả vị Bồ-đề, ông Duy Ma Cật vạch ra một con đường sáng là lấy gia đình xã hội làm đạo tràng tu thanh tịnh, lấy chúng sinh làm đối tượng tu học, lấy nghịch cảnh làm phương châm giáo hóa. Ngay trong cảnh phiền não ô trược, xã hội phức tạpchúng sinh vẫn có được Niết bàn cũng như hoa sen thơm ngát vươn lên trong bùn tanh hôi hám. Còn quả vị Vô thượng Bồ-đề thì chúng sinh cũng không cần mong cầu trông đợitự tánh Bồ-đề thì lúc nào cũng có sẳn trong mọi chúng sinh. Nếu con người chịu lìa xa vọng chấp, tâm không còn dính mắc và hướng về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình tức là hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến thì ai ai cũng có ngay Phật tánh, chơn tâm nghĩa là Bồ-đề hiễn hiện vậy.

Đó là pháp môn phương tiệntrí tuệ của Bồ-tát trụ Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát pháp môn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15190)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16419)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12566)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11729)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17884)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15188)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14151)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10591)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant