Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Bát Đại Nhân Giác lược giải

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 20090)
Kinh Bát Đại Nhân Giác lược giải

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC LƯỢC GIẢI
Hậu Hán Sa Môn An Thế Cao dịch 
TT Thích Thiện Huệ

Toàn văn phân ra làm ba, trước là nêu chung, thứ là giải riêng, sau cùng là kết luận.

Nay nói phần đầu:

đệ tử Phật, phải ngày lẫn đêm, chí tâm tụng niệm, Tám Điều Giác Ngộ của bậc đại nhân.

Bất kể tại gia, xuất gia, hễ đã quy y nơi Phật, đều là đệ tử Phật. Đã là đệ tử Phật, ắt phải hằng tu Tám Điều Giác Ngộ này. Nói cả ngày lẫn đêm để nêu rõ công phu không gián đoạn. Bảo chí tâm là chỉ sự chân thành tha thiết. Lại nói tụng niệm, để hiển bày văn nghĩa thuần tịnh, ghi nhớ không quên vậy. Tám Điều Giác Ngộ, sẽ chú thích trong văn kết thán.

Thứ hai giải riêng tám điều:

- Trước nhất giác vô thường vô ngã:

Giác ngộ thứ nhất: Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô ngã, sinh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ, tâm là nguồn ác, thân là mọi tội, quán sát như vậy, xa dần sinh tử.

Đây là cửa đầu nhập đạo, trước bầy pháp ngã pháp hai chấp. Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo (1) không còn tham cầu. Thứ đến do bốn đại quán thân, đất nước gió lửa gây hại lẫn nhau, nên có 404 bệnh khổ. Đại nào cũng không thật tính, nên cứu cánh đều không. Lại do năm uẩn quán tâm, thọ tưởng hành thức hợp cùng sắc thân gọi là năm ấm, nơi đây thực chẳng có ngã và ngã sở, chỉ là pháp sanh diệt biến hoại đổi dời trong từng sát na, không thật nên hư ảo, chẳng chân thành giả ngụy. Chỉ do nơi các tướng đổi thay nên thật không chủ, do vậy nơi chánh báo (2) không khởi tâm tham đắm. Lại thân tâm chính báo này, dẫu ta có yêu mến nó, cũng chí luống công chẳng được lợi ích, mà còn do vừa mê sáu trần duyên cảnh, cho là tướng tự tâm, tâm lập tức trở thành cội gốc của tội ác. Vừa mê bốn đại tưởng tướng của tự thân, thân liền thành chỗ chứa mọi tội lỗi. Nếu không xét thấu điều này, tất hại cho sự an lành vô cùng. Có quán sát được vậy, ắt hai chấp thân tâm giảm nhẹ, đó là phương tiện thứ nhất xa dần sinh tử.

- Thứ hai giác thường tu thiểu dục:

Giác tri thứ nhì: Đa dục là khổ, sinh tử nhọc nhằn, do tham dục khởi, thiểu dục vô vi (3), thân tâm tự tại.

Đã do điều giác ngộ thứ nhất hàng phúc kiến hoặc (4) nay lại do điều giác ngộ thứ hai hàng phục tư hoặc (5) vậy. Tư hoặc tuy nhiều, dục tham đứng đầu, hễ tu thiểu dục, tất ngộ vô vi mà được tư tại.

- Thứ ba giác tri túc thủ đạo. 

Giác tri thứ ba: Tâm không chán đủ, chỉ hay đa cầu, tăng trưởng tội ác, Bồ Tát không vậy, thường niệm tri túc, an bần giữ đạo, Huệ là sự nghiệp.

Đã tu thiểu dục, nên tu tri túc, bằng cách chuyên tâm nơi huệ nghiệp vậy. Người đa dục không tri túc, ngăn che trí huệ vô cùng. Nay nơi thiểu dục, lại thêm tri túc, tất huệ nghiệp tự nhiên thăng tiến.

Thứ tư thường hành tinh tiến:

Giác tri thứ tư: Giãi đãi đọa lạc, thường hành tinh tiến, phá ác phiền não, hàng phục bốn ma, ra khỏi nhà ngục ấm giới.

Phàm gọi là thiểu dục tri túc, chính là muốn tự xét sức mình để làm các việc. Nếu mượn cớ tri túc mà ngồi trong hầm giãi đãi, tất đọa lạc càng sâu, nên phải thường hành tinh tiến để phá trừ hai món phiền não kiến tư. Trừ ma phiền não, ắt hàng phục được hết ấm ma, tử ma (6), có như vậy mới ra khỏ nhà ngục ngũ ấm thập bát giới (7).

-Thứ năm giác đa văn trí huệ.

Giác ngộ thứ năm: Sinh tử ngu si, Bồ Tát thường niệm, quảng học đa văn, tăng trưởng trí huệ, thành tựu biện tài, giáo hóa hết thảy, khiến được vui lớn.

Tuy nói tinh tiến, mà không quảng học đa văn để tăng trưởng trí huệ, tất thành cái lỗi ám chứng (8), lai có nghe mà không huệ, như đem lửa tự đốt; có huệ mà thiếu nghe, như cầm dao tự cắt. Nghe (Văn) và Huệ phải đầy đủ, mới tự lợi lợi tha.

-Thứ sáu giác bố thí bình đẳng.

Giác tri thứ sáu: Nghèo khổ đa oán, thường kết ác duyên, Bồ Tát bố thí, oán thân bình đẳng, không nhớ ác cũ, không ghét ác nhân.

Tuy có trí huệ mà không phúc đức, cũng không sao tự lợi lợi tha, nên cần hành đủ tam đàn vậy. Biết nghèo khổ nhiều oán trái, nên hành bố thí, đó là tài thí. Rõ oán thân nên bình đẳng, mà không nhớ ghét, tức vô úy thí. Pháp thí như văn trên đã nói, nay thêm tài thívô úy thí để đủ tam đàn vậy.

-Thứ bảy giác xuất gia phạm hạnh.

Giác ngộ thứ bẩy: Năm dục tội lỗi, tuy là tục nhân, không nhiễm dục lạc thế gian, thường niệm pháp thí, ba y một bát, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao vời, từ bi mọi loài.

Tuy trí huệ phúc đức, nếu không dứt hẳn ngũ dục gia đình, ắt không sao thiệu long Tam Bảo, thụ trì Phật pháp. Phải biết ba đời chư Phật, chưa từng không thị hiện thân xuất giathành đạo cả. Tam y (9), một là An Đà Hội, hai là Ưu Đa La Tăng, ba là Tăng Già Lê. Nên tuy cư thân xuất gia mà không giữ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao vời, tư bi với muôn loài, tất chỉ là gã trộm Phật hình nghi, càng gây thêm tội, phải hiểu rõ như vậy.

-Thứ tám giác đại tâm phổ tế.

Giác tri thứ tám: Sinh tử thiêu đốt, khổ não vô cùng, phát tâm đại thừa, cứu vớt hết thảy, nguyện thay chúng sanh, chịu vô lượng khổ, khiến mọi chúng sanh, tất cánh an lạc.

Tuy đã xuất gia, không phát tâm Đại thừa rộng độ, tất từ tâm không trọn, không phát tâm chịu khổ thay chúng sanh, ắt bi tâm không vẹn. Từ bi trọn đủ mới thức là người con chấn hương gia nghiệp nhà Phật.

Phần kết thán:

Tám điều như vậy, là chỗ giác ngộ của Bậc Đại Nhân, chư Phật bồ Tát tinh tấn hành đạo từ bi tu huệ, ngồi thuyền pháp thân đến bờ Niết Bàn lại vào sinh tử độ thoát chúng sanh, dùng tám điều này khai đạo tất cả, khiến các chúng sanhsinh tử khổ, xả bỏ ngũ dục, tu tâm thánh đạo. Nếu đệ tử Phật, trong hằng mỗi niệm, tụng tám điều này, diệt vô lượng tội, tiến đến Bồ Đề, tốc chứng chính giác, vĩnh đoạn sanh tử, thường trụ khoái lạc.

Từ Tu Tám điều như vậy trở xuống đến chữ thứ 16, kết thành danh nghĩa. Từ Tinh Tiến hành đạo trở xuống đến chữ thứ 16, kết thành công đức tự giác. Thuyền Pháp thân chỉ cho đức tánh giác ngộ, bờ Niết Bàn hiển bày chỗ tu đức. Từ Lại vào sinh tử độ thoát chúng sanh trở xuống đến chữ thứ 32 (tu tâm thánh đạo), kết thành công đức giác tha, chỉ có tự giác mới giác tha được. Từ Nếu đệ tử phật cho hết phần kết thán, kết thành công đức tụng niệm. Đã thường tụng văn này, tất khéo hiểu chân ý nghĩa, nhờ khéo tư duy nghĩa này, mà có thể tự giác giác tha. Do vậy diệt tội lỗi và đoạn trừ sinh tử khổ, hướng đến bờ giác và chứng được sự an lạc vĩnh hằng.
 
 

Chú Thích Kinh Bát Đại Nhân Giác
Y Báo: Y báochánh báo gọi chung là nhị báo. Y báo còn gọi là Y quả, tức quốc độ,thế giới, nhà cửa, khí cụ các thứ, do nghiệp đời trước mà chúng sanh cảm được, thân của chúng sanh nương các thứ này mà tồn tại, nên gọi là Y báo.

Chính báo: Còn gọi là Chính qủa, tức thân ngũ uẩn, chúng sanh do nghiệp đời trước mà cảm được thân này, đó là qủa báo chính, nên gọi là chính báo (xem Hoa Nghiêm Đại sớ 1)

Vô Vi:

Kiến tư: Là Kiến hoặcTư hoặc, còn gọi là Kiến Ái, Kiến Tu, Tứ Trụ, Nhiễm Ô Vô Tri, Chi Mạt Vô Minh, Thông Hoặc, Giới Nội Hoặc, đều khái qúat gọi chung phiền não của Tam Giới

Kiến Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt và suy lường lệch lạc của các đạo lý, mà phát sanh ra các thự vọng hoặc như Ngã Kiến, Biên Kiến.

Tư Hoặc: Các mê tình như Tham, Sân, Si, các vọng hoặc phát khởi do tư lự các sự vật ở thế gian

Như vậy dựa theo sự mê chấp, gọi là Kiến hoặcLý hoặc, Tư HoặcSự Hoặc. Vì Kiến hoặc là những thứ tà tưởng, thường kiên, ngã kiến phát sanh bởi sự mê lầm chân lý, vô thường, vô ngã, và vì Tư hoặc là những vọng tình tham sân si phát sinh do sự mê nhiễm sắc thanh của cás sự vật ở thế gian. Song phâng Kiến, hoặc, Tư Hoặc theo mê lýmê sự, là theo Pháp Tướng của Tiểu Thừa Câu Xá. Còn theo Pháp Tướng của Đại Thừa Duy Thức, thì phân loại theo hai thứ Phân Biệt khởiCâu Sinh khởi. Hai chướng phiền nãosở tri do Phân Biệt khởiKiến hoặc, hai chướng phiền nãosở tri do Câu Sinh KhởiTư Hoặc. Lại gọi là Kiến vì gồm hai nghĩa

a) Các hoặc bị đoạn trừ khi chiếu kiến chân lý, nên gọi là kiến hoặc 

b) Kiến có nghĩa suy lường, hoặc này lấy suy lường làm tính, nên gọi là kiến hoặc

Tư cũng có hai nghĩa

a) Một khi đã kiến thấy chân lý đoạn kiến hoặc rồi\, lại tư duy tu tập chân lý để đoạn hoặc này, nên gọi là tư hoặc

b) Vì tư duy thế gian, vọng chấp sự vật mà khởi hơặc nên gọi là tư hoặc

Cả hai hoặc này là nhân chính thọsinh tử trong tam giới, đoạn hai hoặc này mới thoát được sanh tử trong tam giới. Ðoạn hoặc cũng theo thứ tự, trước đoạn kiến hoặc, sau đoạn tư hoặc. Kiến hoặc có tính mãnh lợi, khi kiến (thấy) đế lý liền đoạn sạch. Còn tính hoặc có tính độn muội , phải nhiều lần tư duy đế lý mới từ từ đoạn được. Vị đoạn kiến hoặc gọi là kiến đạo, vị đoạn tư hoặc gọi là tu đạo. Vị đoạn cả hai hoặc gọi là Vô Học đạo

Thiên Thai Tông quy kết hết thảy vọng hoặc làm ba thứ: 

a) Kiến Tư là chướng ngăn Niết Bàn.
b) Trần Sa là chướng ngăn Bồ Ðề.
c) Vô Minh là chướng ngăn Trung Ðạo thật tướng.

Tư Hoặc:

Ấm ma, Thiên ma, Tử Ma: Gọi là Tam Ma. Chỉ trì tập âm nghĩa giải thích Tam Ma như sau: 

1) Phiền não ma: Chỉ hết thảy vọng hoặc trong Tam giới, các vọng hoặc này nhiễu loạn tâm thần hành giả, khiến không thành tựu Bồ đề được, nên gọi là Phiền não ma. Ngũ ấm ma được nhiếp trong ma này. 

2) Thiên ma: Tức trời thứ sáu của dục giới. Nếu người nào muốn cần tu các thắng thiện để siêu xuất sinh tử của Tam giới, ắt bị Thiên ma này chướng ngại, tạo nên đủ nhiễu loạn, khiến hành giả không thể thành tụu được thiện căn xuất thế. Gọi đó là Thiên ma

3) Tử ma: Chỉ bốn đại phân tán, cái chét ngăn chận sự kéo dài huệ mệnh, nên gọi là Tử ma

Lại Trí Ðộ Luận quyển năm và Nghĩa Lâm Chương quyển sáu gọi Phiền Não ma, Ấm ma, Thiên maTử maTứ ma

1) Phiền não ma: Các thứ phiền não tham dục , san khuể thường gây não hại thân tâm, nên gọi là Ma. 

2) Ấm ma: Hay còn gọi là ngũ chúng ma, tan dịch là Uẩn ma. Năm ấm thường sinh đủ mọi khổ não, nên gọi là Ma. 

3) Tử ma: Sự chết hay đoạn mệnh căn của người nên gọi là Ma. 

4) Thiên ma: TứcTha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma, tân dịchTự Tại Thiên Ma, là ma vương của trời thứ sáu dục giới, thường phá ại các thiện sự của người, nên gọi là ma. Chỉ có ma này trong tứ ma là bổn pháp, còn ba thứ kia theo ý nghĩa mà gọi là ma.

Thập bát giới: Gồm lục căn (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Lục trần: (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), và lục thức (nhãn cho đến ý thức). Giới có hai nghĩa sai khác, vật này vật nọ không xen tạp được nhau. Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển tám mạt (Giới là phân giới, do các pháp có tính khác biệt gọi là "Giới"). Vì lục căn, lục trần, lục thứctính cách khác biệt, nên gọi chung là 18 giới. Lại Câu Xá Luận quyển nhất nói: "Giới có nghĩa các loại pháp (pháp chủng tộc), như trong một núi có nhiều loại như đồng , sắt, vàng, ... gọi là đa giới (nhiều chất loại). Như vậy một thân hoặc một tương tục có đến 18 loại pháp chủng tộc , gọi là 18 giới . Hiểu theo nghĩa trên, giới của Tam giớiThập Bát giới là giới theo Ða giới, không nên hiểu theo là pháp giới.

Ám Chướng: Chuyên lấy tọa thiền làm công phu, còn nơi văn nghĩa của nghĩa lý thì mờ ám.

Tam Y: Y phục do Phật chế phân làm ba loại: 

1) Tăng Già Lê (Sanghati) dịch là Chú Tụ Thời Y. Y này để mặc vào những lúc đại chúng tề tập truyền giới hay thuyết giới

2) Uất Ða La Tăng (Uttarasanga) dịch là Thượng Y (y trên) mặc trên y An Ðà Hội . 

3) An Ðà Hội (Antarvasaka) dịch là Trung Trước Y (áo mặc bên trong). 

Sau này ba y được theo Ðiều , như An Ðà Hội là Ngũ điều y, Uất Ðà La Tăng là Thất Ðiều Y, và Tăng Già Le là Cửu Ðiều trở lên, hay còn gọi là Ðại y.

Kinh Bát Ðại Nhân Giác. Việt dịch: TT Thích Thiện Huệ 
Đánh máy: Tuệ Cường

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12271)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12002)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11727)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16514)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant