Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Thế gian quan của Phật Giáo

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11100)
2. Thế gian quan của Phật Giáo

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 2: Thế gian quan của Phật Giáo

Phiên Âm:

Đệ nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu; như thị quán sát, tiệm ly sinh tử.

Dịch Nghĩa:

Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vốn vô thường, cõi nước rất mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấmvô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn việc ác, thân là rừng nghiệp tội; nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tử.

Giảng giải:

Đây là điều giác ngộ thứ nhất mà người tu học Bồ tát đạo, lo việc liễu sinh thoát tư cần phải có.

Đoạn Kinh văn này có thể nói đã chỉ tổng quát thế gian quan của Phật giáo. Kinh văn nói: Thế gian vô thường, cõi nước mong manhvô thường quán; bốn đại khổ khôngkhổ không quán; ngũ ấm vô nga là vô ngã quán; tâm là nguồn ác, thân là rừng tội là bất tịnh quán.

Trước hết tôi xin giảng về thế gian vô thường quán. Thế gian là chỉ thời giankhông gian. Thế là thời gian ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai; gian là không gian mười phương: Đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên, phương dưới.

Thế gian cũng đồng nghĩa với vũ tru. Thời gian từ xưa đến nay gọi là vũ; không gian bốn phương trên dưới gọi là tru. Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Trong phật giáo, thế gian không phải chỉ là hiện tượng trong thế giới tự nhiên, mà tất cả vũ trụnhân sinh đều gọi chung là thế gian. Vũ trụ quốc độchúng sinh nương tựa gọi là khí thế gian; sắc thân của chúng sinh do hoặc nghiệp tạo thành phải chịu sinh tửhữu tình thế gian.

Anh thấy chăng?
Hoàng hà nước tự trời cao
Xuôi ra biển cả chẳng bao giờ về.
Anh thấy chăng?
Cha soi kính tóc bạc phơ
Sớm tơ tối tuyết, ngẫn ngơ chợt buồn!
(Tương Tiến Tửu – Lý Bạch)

chúng ta không biết thế gian vô thường, nên đã sinh ra nhận thức sai lầm, cho rằng mọi sự vật là thật có, rồi khởi tâm tham luyến, chấp trước. Song cuối cùng nhìn lại, có mấy ai thắng vượt được vô thường?

Kinh Kim Cang nói:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương sớm, điện chớp
Nên quán chiếu như vậy.

Đại Trí Độ Luận cũng nói:
Thế gian biết mấy vô thường!
Bóng trăng, thân chuối, giả nương hợp thành.
Phước dù đến tận trời xanh
Gió vô thường đến, hóa thành hư vô!

Phú quí vinh hoa trong đời khác chi giấc mộng giữa đêm. Ngay như tấm thân mà ta mỗi ngày tắm rửa, quí tiếc, rốt cuộc sống được bao năm? Hoàn cảnh, thân thể, tâm lý đều đang hoạt động, đang thay đổi từng phút từng giây, không ngừng lưu chuyển. Ruộng dâu ngày xưa nay đã trở thành biển cả; biển cả bây giờ rồi sẽ hóa ra ruộng dâu ở tương lai! Cho nên tục ngữ bảo: Bãi bể nương dâu là vậy. Như thế, trong thế gian này có cái gì là trường cửu? Có cái gì là chân thật đâu? Nếu bảo thế gian có cái gì chân thật, thì đó chính là vô thường! Tất cả đều vô thường, huyễn hóa, như áng mây trôi giữa trời cao, như bọt nước trên đầu ngọn sóng, như bóng hoa ảnh hiện trong gương, như ánh trăng long lanh trên nước!

Thế gian đã vô thường, thì cõi nước mong manh (nguy thúy) là điều tất nhiên không cần nói nữa. Cõi nước không an gọi là nguy, chẳng thật gọi là thúy. Không nói chi xa, chỉ xem động đất ở Đài LoanNhật Bản cũng đủ thấy. Mỗi lần động đất có biết bao tài sản bị tổn thất, sinh mạng bị tử vong! Cõi nước như vậy, chẳng phải mong manh là gì?

Ở trên đã giảng rõ thế gian vô thường quán rồi, giờ lại giải thích tiếp tứ đại khổ không quán. Chúng ta thường nghe người không thông hiểu Phật Pháp cũng biết nói câu tứ đại giai không. Chẳng qua tứ đại giai không ở đây nói, không phải như người ta thường hiểu lầm, cho rằng tứ đại là tửu, sắc, tài, khí và tứ đại giai không là không tham luyến tửu, sắc, tài, khí. Thực ra, tứ đại khổ khôngđức Phật ở đây, là thuyết minh về bản chất của hiện tượng nhân sinhthế giới.

Nói tứ đại là chỉ bốn nguyên tố tổ hợp thành vật thể. Nhỏ từ cánh hoa cọng cỏ, lớn đến thế giới, nhân sinh, không một thứ nào là không do bốn nguyên tố này kết hợp tạo thành. Bốn nguyên tố là đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Đất là chất mang tính chất rắn chắc, nước là chất mang tính ẩm ướt, lửa là chất mang tính ấm nóng, gió chất mang tính lưu động. Tất cả hiện tượng trong vũ trụ không có thứ nào là không do bốn chất này hợp thành. Ví dụ lấy con người nói, lông, tóc, móng, răng, thịt, da, gân, xương… mang tính rắn chắc là địa đại; đàm, dãi, nước tiểu… mang tính ẩm ướt là thủy đại; nhiệt độ trong người mang tính ấm nóng là hỏa đại; hơi thở ra vào mang tính lưu động là phong đại.

Người ta sống là do bốn đại hòa hợp. Nếu bốn đại không điều hòa sẽ sinh ra bệnh, bốn đại phân tán sẽ đưa đến tử vong. Người đã như vậy, hoa cỏ cũng như vậy. Như một cây hoa cần phải có đất để lấy chất dinh dưỡng (địa đại), cần có nước tưới thích nghi (thủy đại), cần có ánh nắng của mặt trời sưởi ấm (hỏa đại), cần có không khí lưu động (phong đại) mới mọc lên tươi tốt và đơm hoa kết nụ. Thiếu một trong bốn điều kiện này, hoa không thể nào sống được.

Thân tứ đại hòa hợp của con người sao lại nói là khổ không? Nhà triết học Lão Đam (Lão tử) nói: "Ta sở dĩtai hoạn lớn là do ta có thân; nếu ta không có thân, làm gì có tai hoạn!" Thân thể chúng ta chỉ là chỗ tích tụ của các khổ. Trong tâm thì có các khổ phiền não: tham, sân, si; trên thân thì có các khổ: già, bệnh, chết; ở gia đình thì khổ vì lo ăn lo mặc, ân ái xa lìa; ngoài xã hội lại khổ do đấu tranh phải trái, oán thù gặp gỡ; còn hoàn cảnh lại khổ vì bão lụt, động đất, chiến tranh. Khổ cứ luôn đeo đẳng, khống chế chúng ta. Thật đúng là chúng sinh đang sống trong biển khổ!

Có một số người mới học Phật Pháp, nghe nói đến chữ khổ, liền cho học Phật chính là học chịu đựng đau khổ, không chịu đựng được khổ, thì không thể nào học Phật! Thực ra, đây là cách nói hoàn toàn sai lầm. Phật giáo là một tôn giáo an lạc hạnh phúc. Chúng ta vì muốn lìa khổ được vui, nên mới tu học Phật Pháp. Người tu học Phật Pháp trước hết phải nhận thức đúng đắn về khổ. Ý thức được khổ mới biết tìm cầu an lạc. Nếu như sống trong khổ mà không cho là khổ, hoặc sống trong khổ mà lại cho là vui, thì người như thế làm sao chịu tu học Phật Pháp?

Biết khổ chính là cánh cửa bước vào đạo.

Thuở xưa, có đôi vợ chồng sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh. Hai người cực khổ làm ăn, dành dụm tài sản rất nhiều, nhưng tuy lớn tuổi mà vẫn hiếm muộn. Họ đi cầu cúng mọi nơi, xin Phật trời ban cho đứa con, mà mãi vẫn không được như nguyện. Hai vợ chồng già tha thiết muốn biết rõ nguyên nhân vì sao mình hiếm muộn, nhưng không biết hỏi ai, vì trong làng không có người đạo hạnh. Ngày kia, có một vị mới xuất gia đi du phương ghé ngang. Hai vợ chồng vừa trông thấy liền mừng rỡ, mời vị ấy về nhà để cúng dường. Thọ trai xong, hai người mới thỉnh vị xuất gia thuyết Pháp, khai thị về nguyên nhân không có con. Vị này vì mới xuất gia, chưa biết thuyết Pháp, nên rất bối rối không biết nói như thế nào mới phải. Vợ chồng ấy thành tâm thành ý quỳ trước ghế, phủ phục sát đất không ngước đầu lên. Vị xuất gia thấy vậy trong ruột nóng như thiêu, nghĩ rằng mình là người xuất gia không lẽ lại bảo là không hiểu Phật Pháp, không biết thuyết Pháp hay sao? Lúc ấy vị đó mới cảm thấy làm người xuất gia quả thật rất khó, bất giác buột miệng thốt lên: Quả thật là khó!

Hai vợ chồng quỳ dưới đất nghe câu ấy, thấy nói trúng tâm trạng của mình. Họ cảm thấy câu khai thị này thật là danh ngôn chí lý, cả hai người cầu xin chút con mà làm cách nào cũng không cầu được, quả thật là khó! Hai người vô cùng cảm động vội dập đầu lễ bái không ngừng!

Ngồi ở trên thấy đôi vợ chồng đó chí thành như thế, vị này càng thêm bối rối, tiến thoái lưỡng nan, thấp thỏm như ngồi trên bàn chông, mồ hôi ướt đầm cả người, buột miệng than rằng: Quả thật là khổ!

Câu này vừa thốt ra, cả hai vợ chồng như nghe được tiếng chuông thức tỉnh, thấy rõ chân lý. Mình cao tuổi như thế này mà ngay một đứa con cũng không có, quả thật là kho?! Cuộc đời quả thật là khổ! Hai vợ chồng xúc động sâu xa, vừa quỳ vừa khóc, nước mắt đầm đìa. Vị mới xuất gia thấy vậy không biết tính sao, ba mươi sáu kế, rút lui là thượng sách!

Hai vợ chồng khóc lóc hồi lâu, lại lắng nghe chờ khai thị tiếp nhưng không thấy nói gì, vội ngước lên nhìn thì vị xuất gia ấy đã đi mất tự bao giờ! Hai người cho rằng đây chính là Phật Bồ tát thị hiện, chỉ cho họ biết cuộc đờiđau khổ. Từ đó họ trở nên ngưòi Phật tử thuần thành, tin sâu Phật Pháp, tinh tấn tu học, cuối cùng được giải thoát khỏi não phiền.

Cho nên, ý thức được khổ mới biết cầu giải thoát; khổ cũng chính là tăng thượng duyên cho người học đạo.

Sao lại nói: Bốn đại khổ không? Trong thế gian, từ thân thể con người cho đến mọi vật đều do tứ đại hợp thành. Vì nó do nhân duyên hoà hợp, nên giả tạm, như huyễn, không chân thật. Trong cái hư giả ấy, con người lại phải chịu hành hạ bởi tám thứ khổ: Sinh, già, bệnh, chết, ân ái chia lìa, oán thù gặp gỡ, ước muốn không thành, thân tâm đều kho? Cho nên nói: Bốn đại khổ không là vậy.

Câu Năm ấm vô nga là vô ngã quán trong Phật giáo. Năm ấm là gì? Năm ấm chính là đại danh từ của cái ta (ngã). Năm ấm gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ta là một hợp thể giữa vật chấttinh thần. Trong Phật Pháp, vật chất là sắc; tinh thần là thọ, tưởng, hành, thức.

Sắc có nghĩa biến ngại (??). Đây là nói tất cả vật thể hữu hình đều biến đổi vô thường và có sự chướng ngại. Giữa vạn vật, cái này với cái kia nếu tính chất hợp nhau thì có chiều hướng kết hợp lại; còn như tính chất trái nghịch nhau sẽ có chiều hướng tan rã. Kết hợp là tạo thành, tan rã là hoại diệt.

Thọ có nghĩa lãnh nạp (??). Cảm giác khổ đau là khổ thọ, cảm giác vui sướng là lạc tho; khi không đau khổ, không vui sướng gọi là bất khổ bất lạc thọ.

Tưởng có nghĩa nắm bắt hình tượng (??). Phan duyên ngoại cảnh, nhớ việc đã qua, mơ tưởng tương lai đều gọi là tưởng.

Hành có nghĩa tạo tác (??). Do nắm bắt hình tướng mà có hành động tạo tác, có khi làm thiện, có khi làm ác. Đây là sức mạnh của hành.

Thức có nghĩa phân biệt rõ ràng (??). Như mắt có thể phân biệt rõ các màu xanh, vàng, trắng, đen; tai có thể phân biệtâm thanh hay dở; mũi có thể phân biệt rõ các mùi thơm hôi; lưỡi có thể phân biệt rõ các vị chua, ngọt, cay, đắng; thân có thể phân biệtcảm giác nóng, lạnh, cứng, mềm.

Sắc thân do nghiệp báo hình thành của chúng ta sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, chính là cái ngã ngũ ấm này. Ấm có nghĩa là che ngăn (??). Ý nói năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức ngăn che Phật tánh chân nhưbản lai diện mục của chúng ta. Chúng sinh sở dĩ trầm luân trong biển khổ, là do mê lầm chấp trước, cho rằng cái ngã ngũ ấm này là thật có.

Năm ấm vô nga chính cùng một ý với Tâm Kinh Bát Nhã nói: "Bồ tát Quán Tự Tại khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật thâm sâu, sáng soi thấy năm uẩn, đều cùng một tánh không, vượt qua vòng khổ ách". Năm uẩn cũng chính là năm ấm. Quán chiếu thấy được năm uẩn đều không, là thể nhận được năm ấm vô ngã.

Hiện nay thân ngũ ấm hòa hợp của chúng ta rõ ràngchân thật. Thân này hành động tự do, muốn làm gì thì làm, cảm thọ khổ vui cũng hết sức cụ thể, vậy tại sao lại nói là năm ấm vô nga?

Thì ra, cái ngã năm ấm xét kỹ lại chẳng qua là do nhân duyên tạm thời hòa hợp, không thể thường tồn, không có tự thể, cho nên nói vô ngã.

Vừa nghe nói đến không có cái ta (vô nga), người ta nói chung đều giật mình lo sợ! Hai chữ vô nga như tiếng bom nguyên tử phát nổ, phá tan tình kiến ngã chấp của chúng sinh, không còn lưu lại chút dấu vết! Cho nên, người ta đối với lý vô ngã Đại thừa này, làm sao mà không e sợ? Thực ra, nếu chúng ta không thể quán chiếu thấy được cái ngã năm ấm là không, thì không sao hiển lộ được cái ngã chân thật của Phật tánh. Hư vọng đã dứt trừ, cái chân thật tự nhiên sẽ hiển hiện, như mây mù tan hết, mới thấy được cảnh trời xanh trong sáng.

Ngươi học đạo lâu năm do không thể quán chiếu thấy được năm ấm vô ngã, nên không cách nào giải thoát, vẫn bị giam cầm trong thế gian hư giả!

Vào triều Tống, Thiền sư Phật Ấn ở núi Kim Sơn khi giảng Kinh trên Pháp tòa, tứ chúng nghe chật cả Pháp đường thì có cư sĩ Tô Đông Pha làm quan Đại Học Sĩ vừa đến nghe Pháp. Thiền sư liền dùng cơ ngữ nhà Thiền nói với ông:

- Nơi đây không có chỗ ngồi của Học sĩ!

Tô Đông Pha cũng là một vị tham thiền học Phật lâu năm, nghe qua liền dùng thiền ngữ đáp lại:

- Sao không mượn tạm thân tứ đại của thiền sư làm tòa ngồi?

- Này Học sĩ, ông đã muốn lấy thân tứ đại của lão tăng làm tòa, lão tăng có câu hỏi này, ông nếu đáp được, thì sẽ đem thân cho ông ngồi. Còn như ông không đáp được, xin đem đai ngọc để lại chỗ này làm vật trấn sơn môn.

- Được, được, xin Ngài cứ hỏi!

- Phật Pháp nói: Bốn đại vốn không, năm ấm vô ngã. Vậy xin hỏi Học sĩ lấy cái gì làm tòa?

Học sĩ Tô Đông Pha Kinh luận nằm lòng, thế mà bị Thiền sư hỏi một câu này cũng đành ngậm miệng, không biết làm sao đối đáp. Mãi đến ngày nay, Chùa Giang Thiên ở núi Kim Sơn vẫn còn lưu giữ đai ngọc của Tô Đông Pha, trở thành vật cổ giá trị liên thành hiếm có!

Kinh này nói năm ấm vô ngã, cách giải thích tốt nhất vẫn là lấy văn của Kinh này để giải thích. Vì sao nói năm ấm vô ngã? Đó là do sinh diệt biến đổi, giả dối vô chủ.

Ở trên chúng tôi đã giảng qua thân người do nhân duyên hòa hợp gọi là sinh, nhân duyên ly tán gọi là diệt, thân tâm loài hữu tình thay đổi không ngừng, khi này khi khác. Cái ta ngũ uẩn này thực ragiả dối không thật, không có tự do, không thể tự tại, không có chủ tể (vô chủ).

Đã giảng qua thế gian vô thường quán, tứ đại khổ không quán, ngũ ấm vô ngã quán, sau hết tất nhiên sẽ giảng đến bất tịnh quán, tức câu: Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội.

Lương tâm! Lương tâm! Tuy mọi người lớn tiếng kêu gọi làm người phải có lương tâm, nhưng rốt cuộc kẻ thiếu lương tâm vẫn nhan nhản trong xã hội!

Thân phạm tội gian dâm, tay phạm tôi trộm cướp, miệng phạm tội ác khẩu đều do tâm sai sử, tâm làm chủ! Những tội ác đau thương đến cùng cực, như tạt acid phá hủy nhan sắc người mình từng thương yêu; giết hại bạn thân lâu năm rồi phân thây, xóa mất dấu vết…, đều không phải bắt nguồn từ tâm của con người hay sao?

Con người vì lòng ích kỷ cá nhân nên bản tính quang minh bị che mất. Lòng ích kỷ cá nhân quá nặng thì đâu còn kể gì đến đạo nghĩa, nhân tình, chuyện hại người lợi mình nào cũng dám làm cả. Trên đời này, từ việc nhỏ như thị phi, nhân ngã trong gia đình, cho đến việc lớn như đấu tranh trong xã hội và chiến tranh giữa các quốc gia, đều do tâm tự tư tự lợi này mà ra cả.

Xã hội hiện nay đề xướng việc phát minh khoa học, khích lệ sự tiến bộ nghệ thuật, đều không ngoài mục đích đem lại an lạc hạnh phúc cho nhân sinh. Nhưng đây vẫn là biện pháp tương đối, tạm thời, vì khoa học, nghệ thuật không thể hoàn toàn ngăn được nhân loại phạm tội. Vì vậy, sau khoa học và nghệ thuật, phải cần phát dương Phật Phápphương pháp trị tận gốc khổ đau, giúp con người khai mở lương tri, chấm dứt nguồn tâm tự tư tạo tội, khiến tâm không còn phan duyên nơi cảnh huyễn. Được như vậy, xã hội sẽ an ninh, thế giới sẽ hòa bình và nhân loại mới được hạnh phúc chân thật!

Cái mà người đời yêu quý nhất là thân thể xinh đẹp, quan tâm nhất là tài sản dồi dào. Nhưng đến phút cuối của cuộc đời, thân thể, tài sản tất cả đều không mang theo được! Khi còn sống, thứ mà người ta ít quan tâm nhất đó là tâm, nhưng đến khi giả biệt cuộc đời, chỉ có nó mới đi theo chúng ta!

Người vì thân bận rộn nhọc nhằn thì nhiều, người vì tâm mà thanh tịnh tu niệm lại ít! Thảo nào thế gian có biết bao nhiêu điều lầm lỗi thiếu sót! Thân thể, tài sản không phải là của chúng ta, tâm mới là ông chủ của mình!

Kinh Hoa Nghiêm nói:

Tâm như họa sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Cảnh ngũ ấm thế gian
Không pháp nào chẳng tạo.

Lại nói:

Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.

Tâm là nguồn ác, nhưng tâm cũng là nguồn thiện! Thiện hay ác chỉ trong một niệm của chúng ta mà thôi. Vì tâm dễ tạo ác, nên thân hữu vi do tâm tạo nghiệp chiêu cảm ra này cũng giống như một thùng rác, chứa đầy đồ nhơ uế! Giả sử đổi ác làm thiện, tuy có thân thể, ngay đó đã thanh tịnh giải thoát.

Ai có thể quán tưởng, phản tỉnh, quán sát những đạo lý trên, thì sẽ lần lần lìa được biển khổ sinh tử! Nên Kinh văn trong phần tiểu kết ở điều giác ngộ thứ nhất nói: Nếu quán sát như thế, lần lần lìa sinh tư.

Ở trên đã giảng qua điều giác ngộ thứ nhất trong Kinh Bát Đại Nhân Giác. Nay tóm yếu nghĩa lý của điều giác ngộ này lại như sau: Người gánh vác sự nghiệp lớn, học Bồ tát đạo, liễu sinh thoát tử, rộng độ chúng sinh, trước hết cần phải giác ngộ: Nhân sinhvũ trụ vốn vô thường, thế gian nơi đâu cũng bất an chẳng thật. Cái ta do nhân duyên tứ đại, ngũ ấm hòa hợp này chính thật là khổ, không, vô ngã, sinh diệt, biến đổi, giả dối, không có chủ tể. Vọng tâm chấp trước là cội nguồn của tội ác; sắc thân huyễn hiện là nơi chốn của nghiệp tội. Ai có thể hiểu được đạo lý này, thường thường tư duy quán xét, sẽ lần lần thoát khỏi đau khổ, phiền não của sinh tử luân hồi.

Dịch Thơ:

Điều thứ nhất tâm luôn giác biết
Cõi thế gian quả thiệt vô thường
Đổi dời sinh tử tang thương
Cõi nước tuy lớn cũng dường mỏng manh!
Thân tứ đại sinh thành tử hoại
Già bệnh đeo khổ ải, giả không
Hòa hợp năm ấm lửa vòng
Chỉ là ảo ảnh, ngã không thể tìm.
Thế mới biết thế gian hư huyễn
Diệt lại sinh biến chuyển vô thường
Chúng sinh mê đấm chấp nương
Vô ngã chấp ngã vào đường khổ đau.
Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác
Thân nghe theo tạo tác tội khiên
Xuống lên sinh tử triền miên
Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang.
Người con Phật phải toan quán sát
Đạo lý này bao quát đường tu
Đó là thiền quán công phu
Dứt mê, chuyển nghiệp, khỏi tù tử sinh.

Điều giác ngộ thứ nhất, được thuyết minh qua biểu đồ ở trang sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34447)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16115)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant