Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Đa dụccăn bản của sanh tử luân hồi

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11050)
3. Đa dục là căn bản của sanh tử luân hồi

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 3: Đa dụccăn bản của sanh tử luân hồi

Phiên âm:

Đệ nhị giác tri: Đa dục vi khổ, sinh tử bì lao, tùng tham dục khởi; thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ hai: Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra; nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại.

Giảng giải:

Điều giác ngộ thứ nhất trong Kinh Bát Đại Nhân Giác nói đến thế gian quan của Phật giáo. Từ điều giác ngộ thứ hai đến điều giác ngộ thứ bảy là nói về nhân sinh quan của Phật giáo.

Phật giáo nói đến thời gian, thì chia làm ba: quá khứ, hiện tại, vị lai; còn thuyết minh không gian, lại có thế giới này, thế giới khác, mười phương vô lượng thế giới; nói đến hữu tình, chia làm mười pháp giới: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, trời, người, a tu la, ngạ quỉ, súc sinhđịa ngục. Đạo lý Phật giáo tuy có phạm trù rộng lớn, nhưng vẫn lấy vấn đề nhân sinh làm trọng tâm.

Nói đến nhân sinh, người ta liền liên tưởng đến những vấn đềcon người cần thiết như ăn mặc, dục lạc, hôn nhân v.v…. Thực ra, những vấn đề này tuy quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là vấn đề sinh tử.

Giới văn hóa ngày nay rất đông, ai cũng nêu cao khẩu hiệu mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng khoa học phát đạt, nghệ thuật xương minh, văn học ưu mỹ, chính trị tiến bộ cũng không thể giải trừ hoàn toàn đau khổ cho nhân loại. Khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị tuy có công năng cải thiện cuộc sống, nhưng không thể giải thoát sinh tử cho con người.

Chúng sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường, sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, gánh chịu biết bao đau khổ, đều do tham dục dẫn khởi mà ra. Học thuật tiến bộ, văn minh vật chất đều không giúp con người thiểu dục tri túc. Dục vọng càng nhiều thì khổ não tự nhiên cũng nhiều.

Tô Đông Pha nói: " Lòng dục của con người không cùng, song vật có thể làm thỏa mãn lòng dục của ta lại có hạn." Các ngành học thuật một mặt cải thiện cuộc sống của nhân sinh, song mặt khác cũng lại làm tăng thêm dục vọng của con người. Cho nên khoa học, nghệ thuật, văn học, chính trị đối với nhân loại công và tội gần bằng nhau. Nó đem lại hạnh phúc cho nhân loại, song đồng thời cũng đào sâu biển khổ cho con người!

Túi tham của con người không đáy, khó đầy. Mọi người đều tranh nhau tìm cầu dục lạc do tài lợi, thanh sắc đem đến. Song trong dục lạc đã sẵn mầm đau khổ, mà họ lại không biết e sợ! Đây là do chúng sinh mê mất bản tính, lấy khổ làm vui trong sinh tử luân hồi. Một khi đã dấn sâu vào đó, thì khó ai biết quay đầu trở lại, suốt ngày làm nô lệ cho dục vọng, không biết hướng đến Phật Pháp tìm cầu giải thoát.

Trong Kinh có ghi lại một câu chuyện như sau:

Bên bờ sông Hằng nước Ấn, có một nhóm phụ nữ mang những giỏ cá từ chợ về nhà. Giữa đường họ gặp một trận mưa to, trời cũng vừa tối mà cách nhà còn đến năm sáu dặm đường. Trong lúc bối rối chưa biết tính sao, các cô may mắn gặp được một vị chủ cửa hàng hoa, mời lưu lại nhà mình qua đêm. Trong phòng toàn là hoa, mùi hương sực nức cả nhà. Suốt ngày mệt nhọc, nhưng các cô nằm xuống vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Mùi hương hoa làm mọi người không quen cảm thấy khó chịu, cho đến gà gáy báo sáng mà mọi người vẫn còn trằn trọc không yên. Trong đó có một cô thông minh, liền đem giỏ cá đặt nơi đầu giường. Mùi tanh lấn át mùi hương, các cô mới nhắm mắt ngủ được một lát.

Chúng sinh bị tham dục cầm tù, ô uế tanh hôi, nhưng mọi người ở lâu trong đó trở lại cho là khoái lạc! Đa dục là khổ, người có từng trải mới có thể hiểu được. Tuy nhiên dục không nhất định hoàn toàn là xấu. Kinh nói dục có tạp nhiễm dục và thiện pháp dục. Nội tâm bất tịnh, tham đắm danh lợi thanh sắc bên ngoài là dục. Mang lý tưởng giúp đời, làm công tác phúc lợi xã hội cũng là dục. Vì vậy, chúng ta nên tăng trưởng thiện pháp dụcgiảm thiểu tạp nhiễm dục.

Đại đa số người chỉ lo tham cầu tạp nhiễm dục, mà không biết hướng đến thiện pháp dục. Vì thế đức Phật khi thuyết Pháp thường quở trách lòng dục. Dục vọngmọi người muốn thỏa mãn nếu không phải lòng dục về quyến thuộc đông đầy, thì cũng là lòng dục về tiền của dồi dào; nếu không phải lòng dục về thăng quan tiến chức, thì cũng là lòng dục về sống lâu không già. Song những dục vọng này có thể thực sự đem lại an vui cho con người không? Lòng dục về quyến thuộc: cha con, mẹ con, thầy trò, họ hàng, chồng vợ, anh em, bè bạn, tôi tớ cho dù được thỏa mãn đầy đủ, song cũng có khi lại biến thành oan gia oán thù! Tục ngữ bảo: "Chẳng phải oan gia chẳng gặp nhau." Anh em giành của, cha con trở mặt, chồng vợ ly hôn, tôi tớ hại chủ…, quyến thuộc yêu thương một phen trở mặt còn tệ hại hơn người dưng! Cho nên người thông minh đâu cần nhất định phải thỏa mãn lòng dục về quyến thuộc!

Đài Loan, một trong những vấn đề lớn của xã hộivấn đề con gái nuôi. Có rất nhiều con gái nuôi thưa kiện cha mẹ nuôi của mình ở tòa án hay sở cảnh sát. Đây chính là do lòng dục về quyến thuộc làm hại!

Ngoài lòng dục về quyến thuộc ra, lòng dục về của cải cũng rất mãnh liệt. Người ta không những mong muốn việc ăn mặc được đầy đủ, chỗ ở được rộng rãi, thoải mái, mà còn muốn đất đai, vàng bạc càng lúc càng nhiều! Ai cũng hy vọng mình mỗi ngày một sở hữu càng nhiều của cải, vật chất. Thực ra, những của cải này có khi lại gây ra lắm điều phiền lụy! Cổ nhân từng bảo: " Người vì của mà chết, chim vì ăn mất mạng." Cho nên, có biết bao mạng sống, nhân cách của con người bị chôn vùi dưới đống của cải! Thấy vàng bạc, của cải trước mắt, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa bạn bè , chẳng kể chi đến đạo đức lương tâm, con người tự đánh mất chất người của mình!

Ngoài lòng dục về quyến thuộc, của cải ra, còn có lòng dục về thân thể. Ai cũng muốn nhan sắc mình được trẻ đẹp, sức khỏe mình được lâu dài. Nhưng thế gian vốn vô thường, tuổi xanh đi qua mau, trẻ đẹp có bao lâu? Ngay điều mà cổ nhân gọi là tam bất hủ: lập công, lập đức, lập ngôn, để xây dựng nên công nghiệp hiển hách, cũng phải chịu không biết bao nhiêu đắng cay, khổ não!

Xét cho cùng, người lòng dục nhiều chừng nào thì khổ não cũng càng lắm chừng đó. Tham tài, tiền tài không nhất định đem đến an vui, song người mất mạngtiền của lại không ít; tham danh, danh không nhất định mang lại an lạc, song người lụy vì danh lại rất đông; tham sắc, sắc không nhất định đem đến hạnh phúc, song có biết bao người đau khổ vì sắc đẹp! Do đó có thể thấy, câu Kinh: Đa dục phải là khổ, quả thật là tiếng đại hồng chung ban sớm, đánh thức người đời tỉnh khỏi giấc mộng lợi danh!

Cổ nhân nói: Người đạt đến chỗ vô cầu, tự nhiên phẩm cách cao thượng. Cảnh giới vô cầu cũng chính là cảnh giới vô dục. Người mà vô dục thì phẩm cách tự nhiên sẽ cao thượng, và khổ não tự nhiên sẽ giảm thiểu. Hãy nhìn xem, những kẻ trong trường danh lợi, những người đầu cơ buôn bán, cúi luồn nịnh hót, hoa ngôn xảo ngữ, làm nô lệ cho dục vọng lại cho là khoái lạc, thật đáng thương biết chừng nào!

Đương nhiên, Phật giáo không phải dạy chúng ta tuyệt đối cấm dục, song cũng không tán thành việc phóng túng lòng dục. Phật giáo dạy chúng tathái độ trung đạo. Đối với các dục về quyến thuộc, của cải, thân thể cố nhiên không thể phóng túng, nhưng cũng không cách nào hoàn toàn thoát ly. Cần phải dùng trí tuệ để chuyển hóa tình cảm, thực hiện thiện pháp dụcxa lìa phiền não dục. Giở lại lịch sử Ấn Độ, xã hội khi Phật còn tại thế có một nhóm người chủ trương hưởng thụ dục lạc, phóng túng lòng dục. Họ quan niệm: Hôm nay có rượu, hôm nay say, còn chuyện ngày mai lo làm gì, nên tìm đủ cách hưởng thụ dục lạc, ăn chơi xa hoa trong cuộc sống hiện tại. Lại có một nhóm người tu khổ hạnh theo ngoại đạo, chủ trương tuyệt đối cấm dục. Nhà khổ hạnh không những đoạn tuyệt lòng dục về nam nữ, mà còn sống hết sức khắc khổ trong cái ăn, cái mặc, cái ở để tu luyện. Họ chỉ ăn rong rêu, hoặc rễ cỏ, vỏ cây, hoa quả cho đỡ đói. Họ không mặc y phục, suốt ngày thân thể để trần. Có người ngồi trên gai góc, hay bên bờ vực thẳm; có người nằm sát bên đống lửa. Những khổ hạnh vô ích này, chỉ làm khổ cho mình, hoàn toàn không thể nhờ cái khổ đó mà được giải thoát. Họ tuy xa lìa được lòng dục về lạc hạnh, song lại bị lòng dục về khổ hạnh trói buộc, rốt cuộc vẫn không phải là pháp giải thoát. Cho nên đức Phật sau khi thành đạo, đã tuyên bố chân lý trung đạo, dạy người học đạo phải xa lìa hai cực đoan là tham đắm dục lạc (túng dục) và cố chấp khổ hạnh (cấm dục), nên y theo Bát chánh đạo để tinh tiến tu tập.

Chúng ta phải hãy dùng lòng từ bi thay thế tham dục, dùng trí tuệ hóa giải tình cảm, không để lòng mình sinh khởi tạp nhiễm dục, tự nhiên sẽ tránh được vấn đề đa dục là khổ!

Người ta thường nói: Người không nhiều dục vọng thì không có thất vọng; người dục vọng càng nhiều thì đau khổ càng nhiều. Kinh Di Giáo cũng nói: "Người biết tri túc, tuy nằm trên đất vẫn thấy an lạc; người không tri túc, dù ở thiên đường, cũng không vừa ý." Đệ tử Phật là Tôn giả Ca Diếp, chuyên tu nơi gò mả mà giải thoát, an lạc; học trò Khổng TửNhan Hồi, sống trong ngõ hẻm tồi tàn vẫn thanh thản, an vui. Đây là những hình ảnh sống động, nhằm chứng minh ý nghĩa xác thực của đoạn Kinh trên. Qua đó ta thấy, khổ là do nhiều lòng dục mà có; nhiều lòng dục là nguồn gốc của khổ.

Kinh văn nói: "Bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra." Chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo, tử rồi lại sinh, sinh rồi lại tử, những nhọc mệt khổ đau này, không phải đều từ tham dục mà ra sao? Lấy cuộc sống hiện thực mà nói, chúng ta suốt ngày tìm cầu, tham lam chiếm hữu, làm trâu ngựa cho cuộc sống, lúc nào cũng lo được lo mất, bối rối bất an, đều từ tham dục mà ra cả.

Tham dục thật là đáng sợ! Kẻ táng thân mất mạng trong đời thường là do nơi tham dục. Các vị hãy xem con thiêu thân lao vào lửa, con cá mắc phải lưỡi câu, chẳng phải đều do lòng tham dục xui nên hay sao? Những phạm nhân trong tù, người thì phạm tội trộm cướp, kẻ thì phạm tội gian dâm, chẳng phải đều bị lòng dục làm hại đó sao? Thuở xưa có hai người họ Trương và họ Vương cùng nhau đi du lịch nơi xa. Giữa đường họ nhặt được một khối vàng ròng. Cả hai mừng quá bèn bàn nhau chia đôi. Trên đường đi, anh họ Trương nói với anh họ Vương:

- Khối vàng này chúng ta nhặt được là do Thành hoàng nơi đây có mắt, cho chúng ta cơ hội phát tài. Chúng ta nên mua một ít rượu thịt đến trước Thành hoàng cúng bái để tạ ơn.

- Được lắm, anh đi mua đồ, tôi ở trước miễu Thành hoàng đợi.

Anh họ Trương hoan hỷ đồng ý. Nhưng ngay sau đó trong lòng hai người liền nảy sinh ý niệm tham lam, muốn một mình chiếm hữu.

Anh họ Trương nghĩ: Khối vàng ròng này nếu chia đôi, chỉ còn phân nửa, thì tiêu xài không được bao lâu.

Anh họ Vương cũng nghĩ: Khối vàng ròng này nếu chia đôi thật là uổng, chi bằng ta tìm cách hưởng hết một mình.

Tâm tham dục vừa khởi, điều ác đã đến nơi. Anh họ Trương mua thuốc độc lén bỏ vào rượu và thức ăn để giết hại anh họ Vương. Anh họ Vương thấy trong miếu thành hoàng không có ai, cũng chuẩn bị một cây búa để đập chết anh họ Trương. Hai người thầm đắc ý với diệu kế của mình, cho rằng đối phương quyết không hay biết.

Anh họ Trương mua rượu và thức ăn về, khi đang lạy cúng Thành hoàng, không ngờ bị anh họ Vương đập một búa vào đầu, ngã lăn ra chết.

Anh họ Vương giết xong anh họ Trương lấy làm đắc ý, vừa định lấy vàng đào tẩu thì cảm thấy bụng đói cồn cào. Anh nghĩ: Mình hãy ăn uống no say đã, rồi trốn đi, đâu có vội gì? Anh liền bày rượu thịt ra ăn uống một mình. Đang ăn, bổng cảm thấy trời đất xoay chuyển, thuốc độc phát tác, anh ta cũng ngã lăn ra chết!

Hai người họ Trương họ Vương lòng tham quá lớn, vì muốn một mình hưởng trọn khối vàng, có tâm hại người nên trở lại tự hại lấy mình! Đây là nhân quả hiện tiền, cũng là nói tất cả tội ác đều từ tham dục sinh ra.

Trung Quốc có câu tục ngữ rất hay: Của hoạnh tài không làm giàu được kẻ số nghèo. Giàu có vốn không phải do tham dục mà được. Làm giàu phải có phước, không phước mà cầu giàu sang để thỏa mãn lòng dục, thì kết quả vô cùng bi thảm!

Có phước giàu sang là nhờ bố thí để tích chứa phước đức, mà không phải là do tham dục. Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn đều từ tham dục ra. Vậy chúng ta làm thế nào để đối trị đây? Kinh nói: "Nếu ít muốn vô vi, thân tâm được tự tại".

Chúng tôi đã giảng qua ở trên, dục không phải nhất địnhhoàn toàn tội lỗi. Người vì xã hội lo việc phước lợi, thiện pháp dục này không những không bị người ta phản đối mà còn được rất nhiều người tán dương. Chẳng qua, lòng dục về danh lợi tài sắc nếu kiêu xa quá đáng, thì dư luận xã hội cũng không đồng tình. Đối với lòng dục về tiếng khen, tài lợi, nam nữ, ẩm thực v.v…, Kinh điển không phải bắt các vị hoàn toàn đoạn tuyệt. Thực ra, trong thực tế cũng không cách gì đoạn tuyệt được tất cả. Trong Kinh chỉ dạy chúng ta giảm thiểu lòng dục, sống đời thanh thản, không vướng bận, não phiền (vô vi). Người lòng dục nhiều thì phiền não tất nhiên cũng nhiều; ngươi lòng dục ít thì phiền não tự nhiên cũng ít.

Người ít dục vọng thì tâm không dua nịnh, không mong cầu vô lý. Tâm không tham dục sẽ trở nên cương trực, thẳng thắn. Người ít muốn vô vi sẽ không bị các căn mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình và sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp bên ngoài trói buộc. Thân tâm của vị đó tự nhiên được tự tại, giải thoát.

Nhan sắc diễm lệ, giọng ca ngọt ngào, điệu múa uyển chuyển, vị ngon ăn uống, tiếng tăm lừng lẫy… đều có sức mạnh mê hoặc lòng người rất lớn. Nó khiến người ta phóng đãng dục tình, cùn nhụt ý chí, đắm đuối tìm cầu. Danh lợi tài sắc rõ ràng là biển dục khiến người ta phải trầm luân nơi nguy hiểm. Con người như một chiếc thuyền con đang lặn ngụp, trôi giạt giữa biển khổ sóng to, gió cả!

Người đời lặn ngụp trong biển dục, thì thân tâm làm sao có thể tự tại an lạc!

Cách tốt nhất là phải xa lìa biển dục phiền não, không mạo hiểm trong biển dục, luôn đề cao cảnh giác không bị nó dẫn dụ, làm mê hoặc. Người Phật tử nên dùng sức thiền định, trí tuệ để phụng hành giới họcđức Phật đã dạy, tuy ăn uống song không vì tham lam vị ngon mà sát sinh; tuy giữ của, song không phải vì tham lam mà dùng thủ đoạn để bòn rút, cướp đoạt; tuy có vợ có chồng, mà không tà dâm gây ra việc tình ái lăng nhăng; tuy nói năng mà không vọng ngữ, thêu dệt…. Nếu thế gian có thái độ ít muốn vô vi như vậy, thì thân tâm chắc chắn sẽ được tự tại, thanh thảnnhân loại cũng không có tranh chấp, hơn thua!

Dịch thơ:

Điều thứ hai phải nên giác ngộ
Ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu
Đều do tham dục dẫn đầu gây nên.
Tâm ít muốn, giữ bền đạo nghiệp
Hạnh vô vi, không tiếp nghiệp duyên
Tự nhiên sẽ hết não phiền
An vui tự tại giữa miền nhân gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11634)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12557)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17977)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11726)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12349)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12000)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14839)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19663)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12666)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12253)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11846)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11948)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12766)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13048)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12197)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15310)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16610)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14270)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19699)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14150)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant