Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10423)
4. Tri túc là căn bản để gìn giữ đạo nghiệp

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 4: Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp

Phiên âm:

Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác. Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ ba: Tâm nếu không biết đủ, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác. Bồ tát không như vậy, thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp.

Giảng giải:

Điều giác ngộ thứ hai: Đa dụccăn bản của sinh tử. Còn điều giác ngộ thứ ba: Tri túccăn bản để gìn giữ đạo nghiệp. Muốn lìa sinh tử, đầu tiên phải trừ dục; muốn tu chính đạo, trước hết phải tri túc. Người không tri túc, cho dù tu hành bao lâu năm, vẫn không có ngày thành tựu.

Tâm của chúng sinh không bao giờ thấy thỏa mãn đối với những gì mình đã có được. Tiền bạc có một trăm lại nghĩ đến một ngàn, được một ngàn lại đòi lên một vạn! Quan vị là quận trưởng mong làm tỉnh trưởng, lên tỉnh trưởng lại muốn làm bộ trưởng!

Có một bài ca nói thật đúng cái tâm không biết đủ của con người:

Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ:
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì!
Vợ đẹp, hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi!
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị người khi!
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vua, chắc có khi?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ!
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi!

Đây là nói về một người sống trong dục vọng, không bao giờ biết đủ về giàu sang, công danh, để kiếp người đáng qúi trôi qua trong phiền não khổ đau.

Tai họa trên thế gian, tội ác trong cuộc sống đều do tâm không biết đủ này mà ra. Mọi người ai cũng biết:

Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần!

Nhưng họ sống một ngày là lại tham cầu một ngày!

Theo truyền thuyết, ông Lữ Động Tân vốn là vị tu tiên về sau qui y Phật giáo. Một hôm, ông chợt khởi lên ý tưởng muốn thử căn cơ chúng sinh, xem có thể hóa độ được không. Ông liền hóa làm một ông lão xuống phàm trần và gặp một đứa trẻ. Ông bước đến hỏi:

- Này chú bé, chú muốn gì? Chỉ cần chú nói cho tôi biết, tôi sẽ làm vừa lòng chú!

Chú bé ấy suy nghĩ, cái quí nhất trong đời không gì hơn vàng, có vàng chuyện gì làm cũng xong, nên đáp:

- Tôi muốn có một khối vàng!

Lữ Động Tân liền chỉ ngón tay vào tảng đá bên cạnh, khối đá bổng nhiên biến thành khối vàng! Ông nói:

- Này chú nhỏ, hãy mang khối vàng này đi, xem như là lễ ra mắt của chúng ta!

Chú bé ấy ngạc nhiên đến sững người trước việc chỉ đá hoá vàng của Ngài, nhưng sau khi suy nghĩ một lát, lại nói:

- Tôi không muốn khối vàng này!

- Vì sao không muốn?

- Tôi chỉ muốn ngón tay của Ngài!

- Ngươi muốn ngón tay ta để làm gì?

- Vừa rồi Ngài nói sẽ làm vừa lòng tôi. Khối vàng này có lúc sẽ xài hết, nếu Ngài cho tôi ngón tay, lúc cần tiền chỉ việc dùng nó để chỉ đá hóa vàng, sẽ mặc sức tiêu xài!

Chú bé này tâm không biết đủ, không nhận ra tấm lòng của người tốt khiến cho Lữ Động Tân vô cùng thất vọng. Ngài chỉ còn biết than chúng sinh khó độ mà thôi!

Chúng sinh tâm không biết đủ, chỉ lo tham cầu, tăng thêm tội ác là một điều không thể phủ nhận. Tham dục càng nhiều, tội lỗi càng lắm. Không ai biết nghĩ đến:

Ngàn gian nhà rộng thênh thang Đêm nằm ngủ chỉ vài gang là vừa Tiền muôn bạc vạn thải thừa Ngày ăn ba bữa, cất chừa làm chi?

Đàng sau gia tài đồ sộ kia, không biết che dấu biết bao tội ác! Bên trong địa vị cao sang đó, ai hay ẩn chứa thật lắm âm mưu! Những tham cầu phi pháp, làm tăng thêm tội lỗi, tóm lại có mấy điểm như sau:

Lấy trộm tài vật của người:

Ví dụ như ăn trộm, ăn cướp, làm thổ phỉ chuyên cướp đoạt tài vật của người để sống.

Chối bỏ trách nhiệm:

Như mượn đồ vật của ai, đến kỳ không trả, lại chối nói không có, hay đổ thừa, hại người lợi mình

Nuốt lời gửi gắm:

Ví dụ có người bận việc đi xa, gửi đồ cho mình trông coi hộ. Đến khi họ trở về lấy lại, mình phủ nhận, rồi chiếm làm của riêng.

Dối lấy của chung:

Ví dụ hai người cùng hùn vốn làm ăn, khi có lợi nhuận đáng lẽ phải chia đều, mà mình vì muốn hưởng nhiều hơn, nên số lời nhuận đúng ra là mười triệu mà chỉ nói có năm triệu.

Thừa cơ chiếm dụng:

Ví dụ biển thủ của công, giảm bớt giờ làm, ăn xén vật liệu, mượn của công làm việc tư v.v….

Cậy thế lực lấy của người:

Ví dụ như tham ô, dùng thủ đoạn qua mặt pháp luật, mượn thế lực chèn ép, cưỡng đoạt của người ta, khiến cho họ không dám kêu ca.

Kinh doanh phi pháp:

Như mở quán rượu, vũ trường hay giết heo mổ trâu, hoặc buôn bán các dụng cụ sát sinh.

Lòng người không biết nhàm đủ, nên việc tham cầu phi pháp là điều không thể tránh khỏi. Thực ra, y phục vốn là để che thân và ngăn gió lạnh, nhưng người có tiền lại đòi hỏi quần là áo lụa, nhung gấm hoa hòe; cơm ăn vốn cho khỏi đói, nhưng người có tiền lại muốn mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị; chỗ ở vốn để tránh gió che mưa, nhưng người có tiền lại muốn nhà cao cửa rộng, trang hoàng lộng lẫy; về mặt giải trí thì núi sông hoa cảnh trong thiên nhiên người ta không cho là đủ, lại còn rượu chè, khiêu vũ, bài bạc đủ thứ . Vật chất hữu hạn mà dục vọng con người lại vô cùng thì làm sao thỏa mãn cho được? Do đó con người cứ chạy theo lòng dục, luôn mãi tìm cầu, bất kể thủ đoạn, hại người lợi mình, gây ra vô số tội ác.

Phàm phu trong vòng điên đảo do tâm không biết đủ nên tham cầu nhiều điều phi pháp. Nhưng bậc Bồ tát tu hành lại thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp. Pháp sư Đạo An đời Tấn là vị công thần bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Một hôm có cư sĩ là Khích Siêu sai người dâng Ngài một ngàn hộc gạo trắng để cúng vào ngôi Tam Bảo. Trong chùa không có kho lương thực lớn nào có thể chứa đủ số lượng nhiều như thế. Ngài Đạo An phải dành ra ba ngôi nhà lầu mới để hết một ngàn hộc gạo. Nhân đó Ngài viết thư trả lời cư sĩ Khích Siêu, trong đó có đoạn viết: "Nhờ ông cúng cho chúng tôi một ngàn hộc gạo, nhưng cũng vì thế mà tăng thêm phiền hà cho việc chứa cất!"

Bất cứ ai cũng hiềm của cải ít, mà Đạo An lại hiềm của cải nhiều! Đây là tâm lượng của bậc Thánh giả, là thái độ của Bồ tát đối với thế gian.

Bậc tu đạo giác ngộ đối với vật dục thế gian cho rằng: Tham cầu nhiều, kết quả sẽ bần cùng; hoan hỷ xả bỏ, sẽ giàu có hạnh phúc. Của cải nhiều thì tâm làm tôi mọi cho hình hài, cuộc sống không sao an tĩnh được!

Một người không biết tri túc, tâm đam mê ngoại cảnh, hễ tham tài lợi thì sinh mạng nằm trong tay của tài lợi; hễ tham sắc đẹp thì sinh mạng nằm trong tay của sắc đẹp! Người tham lam cần phải biết, ngay thân mình còn không giữ được, huống chi của cải là những thứ bên ngoài? Như các tay cự phú bao đời mà nay có còn đâu? Nếu biết tri túc thì sinh mệnh mới an định, cuộc sống mới thực sự an lạc.

Thuở xưa có một người cưỡi la ra ngoài dạo chơi, gặp một người cưỡi ngựa đi phía trước, trong lòng rất ưa thích, mong ước có được con ngựa cao to như thế để cưỡi. Nhưng liền đó anh ta quay đầu lại nhìn thấy một người đang cực nhọc đẩy xe mồ hôi như tắm. Anh suy nghĩ chu đáo, tâm tham muốn liền lắng dịu, rồi cảm khái thốt lên bài thơ:

Người khác cưỡi ngựa, mình cưỡi la
Tủi thân sao lại kém người ta?
Quay đầu chợt gặp ông xe đẩy
Mới thấy vẫn còn hơn người xa!

Điều này cho thấy, nếu chúng ta nhìn người giàu sang hơn mình, sẽ bất bình, sinh tâm không biết đủ. Nhưng nếu ta so với người nghèo hèn hơn, sẽ tự nhiên không còn tham cầu, không tạo nghiệp xấu. Câu biết đủ thường an lạc thật đáng cho người học đạo chúng ta ghi lòng tạc dạ!

Người giác ngộ luôn luôn là người tri túc nên không tham cầu phi pháp. Bồ tát giác ngộ không phải là không cần tiền, mà là khéo biết dùng tiền. Tiền bạc tích trữ thì không phải thuộc về mình, tiền bạc dùng vào việc có ích mới thuộc về mình. Cho nên cách người giác ngộ xử lý tiền bạc như sau:

Mười phần tiền của kiếm được, hai phần dùng vào việc phước thiện, bố thí cúng dường; hai phần chi dụng trong cuộc sống hàng ngày; hai phần để dành phòng khi già cả, yếu đau, và lúc cần gấp. Còn lại bốn phần dùng vào việc kinh doanh để phát triển gia nghiệp.

Phật Pháp nói tiền bạc là sở hữu chung của năm nhà:

1. Nhà vua quan: Bọn tham quan ô lại có thể dựa vào quyền thế để tước đoạt của cải chúng ta.

2. Nhà lửa nước: Tai nạn lũ lụt, hỏa hoạn có thể cuốn trôi, đốt sạch của cải chúng ta trong một buổi.

3. Nhà trộm cướp: Trộm cướp lén lấy trộm hay ngang nhiên cướp đoạt của cải chúng ta.

4. Nhà chiến tranh: Gặp lúc chiến tranh khói lửa, nhà cửa ly tán, của cải càng nhiều càng lo sợ, nguy hiểm.

5. Nhà con cái: Gặp con cái bất hiếu, phá tán gia tài, khiến tan nhà nát cửa.

Tiền của chính thuộc về năm nhà này. Người tri túc vì biết: Người ta ăn thì còn, còn mình ăn thì hết, nên không chỉ cất chứa, hưởng thụ riêng cho mình, mà còn biết bố thí cúng dường để vun trồng cội phước và làm những việc lợi ích. Của cải đó mới là chân thật của mình.

Thời Chiến Quốc vua Tề Tuyên Vương muốn bái Nhan Xúc làm thầy, nên nói với ông rằng:

- Chỉ cần Ngài nhận tôi làm đệ tử, sống chung với tôi, thì mỗi ngày sẽ ăn cao lương mỹ vị, mặc toàn lụa là gấm vóc, ra ngoài có kiệu xe đưa rước, lại thêm có mỹ nhân hầu hạ.

Nhan Xúc thản nhiên đáp:

- Cảm ơn lòng tốt của Ngài, nhưng tôi không mong làm thầy của vua. Tôi chỉ mong được thảnh thơi ăn cơm, thì ngon đồng như ăn thịt; ra đường từ từ dạo bước, nào khác với việc đi xe; an phận giữ mình, không làm điều sai quấy, thì đó là tôn quí; đời sống thanh tịnh, phàm làm việc gì đều không trái với đạo lý, thì đó là an lạc, hạnh phúc.

Tri túc như Nhan Xúc mới không bị thế gian làm nhục. Người tu hạnh Bồ tát có thể sống yên vui trong cảnh nghèo vẫn giữ đạo thanh tịnh, lấy việc cầu trí tuệ giải thoát làm sự nghiệp cả đời mình. Đại sư Huệ Năng giã gạo chuyên cần. Thiền sư Bách Trượng một ngày không làm, một ngày không ăn. Luật sư Hoằng Nhất mấy mươi năm mặc một chiếc áo bông. Hòa thượng Hư Vân lúc ở chùa Chân Như chỉ uống nước thay cơm mà không khuất phục trước thế lực ác. Học được tinh thần vui nghèo giữ đạo của các vị đó mới có thể thực sự thấu hiểu được cuộc sống, tận dụng được cuộc sống!

Bồ tát tu học Phật Pháp không nhất thiết phải nghèo khổ mới gọi là thanh cao. Trong Phật giáo có rất nhiều vị trưởng giả giàu có. Nếu bên trong tham dục không trừ, bề ngoài làm ra vẻ khổ hạnh, đây là điều cần phải tránh!

Trong Phật giáo, cũng không phải dạy chúng ta không cần tiền, mà dạy chúng ta nên có tiền của chính đáng, dùng vào chỗ chính đáng. Nếu tiền của có được và sử dụng một cách chính đáng, thì có càng nhiều lại càng tốt! Nếu là tiền của không chính đáng, dầu một đồng xu cũng không lấy.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm Ngài và A Nan cùng đi trên đường, gặp một khối vàng không biết là của ai đánh rơi. Đức Phật thấy rồi quay sang A Nan bảo:

- Này A Nan, ông có thấy không? Rắn độc đó!

A Nan đáp:

- Bạch Phật con có thấy. Quả là rắn độc!

Đức PhậtA Nan đi khỏi, hai cha con nông dân đang làm ruộng nghe nói rắn độc, bèn hiếu kỳ bước lại xem thử, song không ngờ đó lại là một khối vàng! Hai người hết sức vui mừng, cười thầm thầy trò đức Phật thấy của qúi mà không biết. Họ bèn mang khối vàng về nhà, cho rằng nay mai sẽ phát tài. Không bao lâu, nhà vua biết vàng bạc trong kho có người trộm mất nên ra lệnh điều tra. Đội điều tra tìm thấy trong nhà hai cha con có khối vàng ròng, thật không cách gì chối khỏi tội trộm, khi chứng cứ đã rành rành. Do đó họ bị bắt giam vào ngục, khép vào tử tội. Hai cha con nông dân thấy mình thật oan uổng, mới nhớ lại lời đức Phật nói với A Nan quả không sai. Người cha bèn đóng vai đức Phật, nói với con rằng:

Này A Nan, ông có thấy không? Rắn độc đó!

Người con đáp:

Bạch đức Phật, con có thấy. Quả là rắn độc!

Quan coi ngục nghe hai cha con hỏi đáp rất lấy làm kỳ lạ, nên cho thẩm vấn lại, điều tra kỹ lưỡng mới biết họ bị oan.

Hai cha con người đó vì cất chứa vàng bạc mà làm hại mình. Họ lại nhờ nhớ được lời Phật và A Nan đối đáp về đạo lý vui nghèo giữ đạo mới được cứu thoát. Qua đó ta thấy, của cải không phải phần mình không nên lấy, vui nghèo giữ đạo mới là cách sống an ổn chân chính.

Tiền bạc là rắn độc, nhưng sống không thể thiếu tiền bạc. Cho nên tiền bạc cũng là tư lương của người học đạo. Đây chỉ là vấn đề sử dụng tiền bạc đúng hay không đúng mà thôi! Dùng tiền bạc để lo sự nghiệp xây dựng hạnh phúc cho mọi người; dùng tiền bạc để hộ trì việc tu học, bồi dưỡng giới thân tuệ mạng của tăng ni, thì tiền bạc không phải là rắn độc mà là tịnh tài!

Bậc Thánh giả vui nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì không nên cất chứa rắn độc, song nên biết dùng tịnh tài để lo việc Phật sự.

Dịch Thơ:

Điều thứ ba biết tâm giong ruổi
Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
Không sao thỏa được lòng tham
Tội kia theo đó, càng làm càng sâu
Bậc Bồ tát vô cầu, biết đủ
Vui phận nghèo, qui củ tu hành
Trau dồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, cắt mành vô minh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14741)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11807)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12743)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10319)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12055)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15269)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11055)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10500)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12451)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16419)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14287)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11763)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14775)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16798)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11557)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12723)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11329)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12036)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52065)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13956)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11421)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13147)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12763)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13197)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17886)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12435)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12636)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54182)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14411)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9923)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13812)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57930)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14475)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20121)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13759)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15387)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17482)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13299)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11910)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13475)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14651)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12471)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12149)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13270)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12524)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13312)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25569)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12168)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14521)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11829)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42045)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28305)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38776)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14708)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12685)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16232)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant