Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Trí tuệcăn bản để chuyển hóa ngu mê

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10322)
6. Trí tuệ là căn bản để chuyển hóa ngu mê

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 6: Trí tuệcăn bản để chuyển hóa ngu mê

Phiên âm:

Đệ ngũ giác ngộ: Ngu si sinh tử, Bồ tát thường niệm: Quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ năm: Ngu si phải sinh tử, nên Bồ tát thường nhớ: Luôn học rộng nghe nhiều, để tăng trưởng trí tuệ, và thành tựu biện tài, rồi đem niềm vui lớn, giáo hóa cho tất cả.

Giảng giải:

Điều thứ năm mà bậc Đại nhân tu học Bồ tát đạo, lo sự nghiệp liễu sinh thoát tử cần phải giác ngộ là: Do ngu si mới lưu chuyển trong sinh tư. Để đối trị ngu si, cần phải tăng trưởng trí tuệ. Ở đây, nên nói qua quan điểm của Phật giáo về tri thức như thế nào.

Phật giáo không phải là tôn giáo không coi trọng lý luận. Phật giáotôn giáo tri thứcđức hạnh. Trong xã hội, học vấn, kỹ năng được xem là điều cần thiết cho cuộc sống, nó có thể giải quyết được những nhu cầu vật chất của con người. Nhưng người có học vấn, có kỹ năng không nhất định có được cuộc sống hạnh phúc. Cho dù thông đạt được tất cả khoa học, triết học, văn học trong thế gian, cũng chỉ là hiểu biết ngọn ngành; đối với vũ trụ, nhân sinh vẫn không thể hiểu biết một cách triệt để.

Tri thức thế gianhữu lậu học, Phật Pháp mới là vô lậu học. Tri thức thế gian lợi và hại ngang nhau, như khoa học một mặt tạo phước cho nhân loại, mặt khác lại làm hại cho nhân loại, như vũ khí hạt nhân, hóa học, vi trùng v.v… đều là sản phẩm của tri thức khoa học. Phật giáo cũng có tri thức, nhưng tri thức Phật giáo tuyệt đối có ích mà không có hại. Tri thức Phật giáotrí tuệ Bát nhã. Trí tuệ Bát nhãtri thức do trừ bỏ lòng ích kỷ, tự tư, nghiệm chứng được trí tuệ trong tâm; không như tri thức thế gian, do tìm hiểu hiện tượng bên ngoài mà có. Theo Phật giáo, người ta sở dĩ không thể liễu sinh thoát tử, đều do ngu si mà ra.

Ngu si cũng không phải là hoàn toàn không có tri thức. Chúng ta tìm hiểu chữ si trong chữ ngu si sẽ thấy: Chữ si (?) vốn có chữ tri (?) trong chữ tri thức. Nhưng trên chữ si này lại có bộ nạch (?) là bệnh tật. Ý nói tri thức bệnh hoạnngu si.

Ngu si thì tâm tánh ám muội, không có trí tuệ để thấu hiểu sự lý, nên cũng gọi là vô minh. Do nơi ngu si nên khởi hoặc tạo nghiệp, luân hồi sinh tử, chịu kho?vô cùng. Vì vậy, không thể giải thoát, không nhận thức được mình, đều do ngu si mà ra.

Ngu singu si về kiến giải (kiến hoặc) và ngu si về tư tưởng (tư hoặc).

Ngu si về kiến giải có năm loại:

1. Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Tà kiến, 4. Giới thủ kiến, 5. Kiến thủ kiến

Ngu si về tư tưởng cũng có năm loại, chính là năm căn bản phiền não mà văn trên đã giảng:

1. Tham dục, 2. Sân hận, 3. Ngu si, 4. Kiêu mạn, 5. Nghi hoặc.

Trước hết sẽ giải thích ngu si về kiến giải của chúng sinh.

Người ta ai cũng ái chấp năm uẩn của mình là ngã; vật ngoài thân là sở hữu của ngã. Họ không biết rằng thân mình là do nhân duyên bốn đại, năm uẩn hòa hợp mà thành; vật ngoài thân cũng là huyễn cảnh, vô thường chẳng thể bền lâu. Thân và vật rõ ràng là do nhân duyên hòa hợp mà giả có, chúng sinh lại lấy giả dối làm chân thật, đó gọi là thân kiến.

Có người cho rằng chết là hết, tất cả sẽ không còn, người chết như đèn tắt. Có người cho rằng người chết rồi vẫn còn là linh hồn người; trâu ngựa heo dê sau khi chết vẫn còn linh hồn trâu ngựa heo dê. Những kiến giải chấp thường, chấp đoạn, thiên lệch một bên như thế, gọi là biên kiến.

Lại có một số người thấy mặt trời, trăng sao vận chuyển, gió mưa, điện chớp đúng thời, liền nghĩ rằng: Nhất định phải có đấng thượng đế toàn năng điều khiển. Tin vào thượng đế vạn năng, bài báng không có nhân quả, không hiểu được các pháp duyên khởi, đây gọi là tà kiến.

Lại có một số người chấp giữ những giới điều phi lý, cho rằng đây là cách sinh lên cõi trời để hưởng thụ an lạc. Như một số ngoại đạo tu học khổ hạnh vô ích, hay giết hại sinh vật để cúng tế. Đây gọi là giới thủ kiến.

Chấp trước một hay nhiều kiến giải như trên, lầm tưởng mê vọng cho là chân lý cứu cánh, đây gọi là kiến thủ kiến.

Kế đây sẽ giải thích ngu si về tư tưởng.

Gặp được những gì mình yêu thích liền khởi tâm tham trước. Nhân tâm tham ái mà sinh tâm keo kiệt. Do tâm có tham lam về ngã (ngã tham), ái luyến về nga (ngã ái) nên hình thành tâm tự tư, đây gọi là tham dục.

Gặp chuyện trái ngang liền sinh tâm sân hận. Phàm không biết nhẫn nại, sinh ra tranh cãi, hơn thua với người, hoặc âm mưu làm hại, oán trời trách người, đều gọi là sân hận.

Không biết thức tỉnh, sáng suốt suy xét, lung lòng mặc ý chạy theo vật dục, không thích nghe điều thiện, lại ham làm việc ác. Như ta khuyên người tu học, làm phước, họ lại cho là mê tín, vô ích; còn kẻ rủ rê họ rượu chè, bài bạc, thì lại được khen là có giao tình! Mê muội, điên đảo như vậy gọi là ngu si.

Thấy mình hơn người, ỷ mình lấn hiếp người khác, có bảy loại tất cả: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ti mạn, tà mạn… đều gọi là kiêu mạn. Đối với sự lý chân thật còn do dự không quyết định, đối với chân lý không khởi chánh tín, đem phàm tình so lường thánh trí, đó là nghi hoặc.

Chúng sinh vì có ngu si về kiến giải, ngu si về tư tưởng như trên, nên phải chịu luân hồi sinh tử. Sinh tử cũng có chia ra phần đoạn sinh tử và biến dị sinh tử. Sinh tử trong sáu nẻo luân hồi, do nghiệp thiện ác hữu lậu chiêu cảm ra thân quả báo, khi này khi khác. Đó gọi là phần đoạn sinh tử. Các bậc Thánh giả tuy hết phần đoạn sinh tư, song khi chưa chứng được quả Phật cứu cánh, vẫn còn biến dịch sinh tử. Sinh tử này không có hình sắc đẹp xấu, cũng không có thọ mạng dài ngắn, mà chỉ là sự chấm dứt mê tưởng, chứng ngộ pháp thân trong từng giai đoạn. Sự thay đổi từng giai đoạn từ mê đến ngộ này, gọi là biến dị sinh tử.

Bồ tát giác ngộ nhứt định phải tìm cách chấm dứt ngu sisinh tử. Bồ tát mong mỏi học rộng pháp thế gianxuất thế gian, nghe nhiều Thánh giáo, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu vô ngại biện tài, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho mọi người đều được hạnh phúc, đem niềm hoan hỷ chan hòa khắp trong cuộc đời.

Trong Kinh nói đến ngu si liền đem bóng tối ra ví dụ, và trí tuệ được biểu trưng bằng ánh sáng. Bồ tát học rộng nghe nhiều thì ánh sáng trí tuệ lần lần tăng trưởng, đẩy lui bóng tối ngu si. Kinh Bốn Mươi Hai Chương nói: "Phàm người thấy đạo như cầm đuốc đi vào phòng tối, bóng tối liền tan, chỉ còn ánh sáng; cũng vậy, học đạo thấy được chân lý, vô minh liền diệt mà tuệ giác còn mãi." Cho nên, trí tuệ là con thuyền kiên cố, vượt qua biển cả sinh già bệnh chết; là ngọn đèn sáng lớn, phá tan bóng tối vô minh; là phương thuốc hay, trị lành tất cả tâm bệnh; là chiếc búa bén, đốn ngã cội cây phiền não. Vì vậy, nói Phật học, có nghĩa là tuệ học.

Ba môn vô lậu học của Phật giáogiới định tue? Tuệ có ba loại: Trí tuệ do nghe Pháp thành tựu (văn sở thành tuệ), trí tuệ do tư duy thành tựu (tư sở thành tuệ), trí tuệ do tu tập thành tựu (tư sở thành tuệ, tu sở thành tuệ). Thái Hư đại sư từng nói: Từ Trí tuệ do nghe Pháp thành tựuxây dựng lòng tin; từ trí tuệ do tư duy thành tựu mà nghiêm trì cấm giới; từ trí tuệ do tu tập thành tựutương ưng định tâm.

Tại sao nói: Tư trí tuệ do nghe Pháp thành tựuxây dựng lòng tin?

Vì nhờ nghe Phật Pháp, mới khai mở trí tuệ, hiểu rõ Chánh Pháp; nhờ hiểu rõ nên sinh lòng tin kiên cố. Cho nên cổ đức nói: "Phật Pháp như biển cả, chỉ có lòng tin mới có thể vào được". Đến với Phật giáo, bước trước nhất phải có lòng tin. Lòng tin này nhất định phải được xây dựng trên sự nghe hiểu Phật Pháp. Nếu chưa nghe hiểu Phật Pháp, chưa nghiên cứu Kinh luận, chưa thông hiểu đạo lý căn bản trong đó, thì không thể nào có lòng tin chân chánh được.

Vì sao nói: Từ trí tuệ do tư duy thành tựu mà nghiêm trì cấm giới?

Nhờ nghe Phật Phápsinh khởi lòng tin, rồi từ lòng tin mà có sự tư duy, tìm hiểu Chánh Pháp, nhận thấy đúng đắn, có ích lợi, nên tuân thủ, làm theo. Lấy trí tuệ do nghe thành tựu để thể nghiệm hành vi của mình trong khi khởi tâm động niệm; cũng lấy đó làm tiêu chuẩn để phân định thiện ác, đúng sai, rồi lần lần sửa đổi những tư duy sai lạc, những thói quen không tốt trong cuộc sống. Như thế, đối với Chánh Pháp, càng lúc càng thể nghiệm, liễu tri sâu sắc hơn, đó gọi là trí tuệ do tư duy thành tựu. Trí tuệ do nghe thành tựutrí tuệ tri hành hợp nhất, hạnh giải tương ưng; là trí tuệ đoạn trừ hết mọi việc ác, thực hiện tất cả điều lành, có thể hoàn thành giới hạnh. Cho nên nói: Từ trí tuệ do tư duy thành tựu mà nghiêm trì cấm giới.

Vì sao nói: Từ trí tuệ do tu tập thành tựutương ưng định tâm?

Trí tuệ do nghe thành tựu là tin hiểu (tín giải); trí tuệ do hành trì thành tựuhành trì. Dựa trên cơ sở đó tu tập, rèn luyện tâm ý đến mức độ thành thục, sẽ được định tâm. Khi thân tâm an trúthiền định sẽ cảm thấy vô cùng khinh an, vắng lặng, đoạn tận mọi phiền não. Đây chính là: Từ trí tuệ do tu tập thành tựutương ưng định tâm.

Hàng Bồ tát sơ học muốn tăng trưởng trí tuệ, trước hết phải học rộng nghe nhiều. Học rộng nghĩa là rộng tu học giới, định, tuệ, không nên có thành kiến môn hộ, hay cậy mình chê người. Ngày nay có một số người tu học Phật Pháp, nếu là người niệm Phật thì bảo ngoài Kinh A Di Đà ra không cần phải xem các Kinh khác; người tham thiền lại bảo không cần niệm Phật làm gì! Đây thật là trái ý chỉ Bồ tát học rộng quá xa!

Bình thường tôi đi hành cước các nơi cũng thường nghe người ta hỏi tôi tu học theo tông nào. Vấn đề này tôi thật khó trả lời. Phật Pháp đâu cần nhất định phải nhìn bằng con mắt tông phái! Phật Pháptoàn thể, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, cần gì phải phân tông, lập phái, để rồi tự tôn tự đắc!

Bồ tát không những phải học rộng Kinh Luật Luận ra, lại còn phải nghe nhiều Chánh Pháp. Nghe nhiều (đa văn) là dựa vào nhĩ căn. Trong các căn, nhĩ căn thông lợi hơn cả. Kinh Lăng Nghiêm nói Bồ tát Quán Âmnhĩ căn viên thông, do vì tai hơn hẳn mắt. Tai có ba món chân thật:

1. Thông chân thật: Đây là nói mắt có chướng ngại thì không thể thấy, còn tai có chướng ngại thì vẫn có thể nghe được âm thanh.

2. Viên chân thật: Đây là nói mắt chỉ có thể xem một hướng phía trước, còn tai có thể đồng thời nghe âm thanh mười phương truyền đến.

3. Thường chân thật: Từ quá khứ truyền đến hiện tại, từ hiện tại truyền đến vị lai, đều nhờ sự nghe biết của nhĩ căn.

Tu học Phật Pháp, học rộng là điều vô cùng quan trọng, mà nghe nhiều, huân tập Chánh Pháp cũng là việc hết sức cần thiết. Một vị Bồ tát học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, mục đích không phải chỉ vì giải thoát cho mình, mà còn vì thành tựu biện tài, giáo hóa tất cả, khiến mọi loài chúng sinh đều được đại an lạc.

Muốn thuyết Pháp độ sinh, chủ yếu phải có vô ngại biện tài. Biện tài không phải là biện luận, không phải là thế trí biện thông. Biện luận hay thế trí biện thông chẳng qua là dùng xảo biện để chiết phục đối phương; còn biện tài của Bồ tát là từ trong trí tuệ văn tư tu un đúc mà lưu xuất ra.

Nói đến biện tài chúng ta không nên cho rằng nói thao thao bất tuyệtvô ngại biện tài. Có khi ta nói càng nhiều, lại càng làm cho người nghe đã không hoan hỉ, lại còn chán ghét!

Đại triết gia Socrates dạy phương Pháp diễn giảng cho thanh niên. Học phí mỗi người là mười đồng. Một hôm, có một thanh niên đến ghi danh. Sau khi đóng học phí, anh ta nói với Socrates đủ thứ chuyện, nào là vì sao anh ta phải học diễn giảng, cho đến học tập diễn giảng có lợi ích gì v.v…. Đợi một hồi lâu, đến lúc anh ta nói xong, Socrates lại đòi thêm mười đồng học phí nữa. Anh ta rất không vừa lòng hỏi:

- Người khác đến học diễn giảng, thầy đều lấy có mười đồng học phí, tại sao lại đòi em thêm mười đồng?

Socrates thong thả trả lời:

- Người khác trả mười đồng học phí, vì tôi chỉ dạy cho họ cách diễn giảng. Nay sở dĩ thu học phí anh gấp đôi, vì tôi chẳng những dạy anh biết cách ăn nói, mà còn phải dạy anh biết cách im lặng!

Không có chuyện gì mà lải nhải nói mãi, khiến người ta phát chán, bắt họ phải bị nghe, thật là việc rất khổ não!

Trong Kinh Duy Ma ghi: Cư sĩ Duy Ma thị hiện bệnh tật, có rất nhiều Bồ tát, La hán đến thăm bệnh ông. Trước gường bệnh, các vị cùng bàn luận về Pháp môn bất nhị. Thế nào là Pháp môn bất nhị?

Sau khi ba mươi mốt vị Bồ tát trình bày qua ý kiến của mình, Ngài Duy Ma hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

- Thế nào là Bồ tát nhập Pháp môn bất nhị?

Bồ tát Văn Thù đáp:

- Theo ý tôi, đối với tất cả pháp không ngôn ngữ, không thuyết minh, không chỉ bày, không phân biệt, lìa các vấn đáp, đó là nhập Pháp môn bất nhị.

Kế đó Bồ tát Văn Thù lại hỏi cư sĩ Duy Ma:

- Chúng tôi ai nấy đã nói rồi, xin Nhân giả nói thế nào là Bồ tát nhập Pháp môn bất nhị?

Lúc đó, Duy Ma im lặng không nói.

Văn Thù Sư Lợi liền khen ngợi:

- Lành thay! Lành thay! Cho đến không có văn tự, ngữ ngôn, mới thực sự nhập Pháp môn bất nhị!

Chỗ này thật sinh động biết bao! Khéo léo biết bao! Dùng vô ngôn mà nói, vô ngại biện tài đến như vậy thật vô cùng tuyệt diệu! Qua đó có thể thấy, thuyết Pháp không phải ở nói nhiều.

Đương nhiên, vô ngôn biện tàicảnh giới cao nhất của ngôn ngữ. Trong Kinh Đại Bát Nha ghi lại: Tôn giả Tu Bồ Đề là vị khéo nói nghĩa không, một hôm đang ngồi yên trong núi rừng, bổng thấy rất nhiều chư thiên đang rải hoa cúng dường giữa hư không. Những đóa hoa trời ngũ sắc rơi đầy bên mình, Tôn giả thấy vậy hỏi:

- Ai đang rải hoa thế?

- Thưa Tôn giả, tôi là trời Đế Thích. Vì Ngài khéo nói lý không Bát Nhã nên tôi mang hoa đến rải cúng dường.

Tu Bồ Đề đáp:

- Tôi ngồi yên vốn không có nói.

- Ngài đã không nói, tôi cũng không nghe.

- Thế tại sao lại rải hoa cúng dường?

- Không nói, không nghe mới là Bát nhã chân thật!

Qua đó chúng ta có thể thấy, Thánh giả Bồ tát thành tựu biện tài, không phải là suốt ngày nói đến ăn mà bụng lại đói; đếm châu báu, song là của người khác, còn mình thực sự không được chút lợi ích nào! Như Tu Bồ Đề không có mở miệng mà trời Đế Thích khen Ngài thuyết Bát nhã hay quá. Không nói mà nói, đây mới là biện tài chân chính!

Biện tài được chia làm bốn loại:

1. Pháp vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với ngôn ngữ, văn tự trong giáo Pháp.

2. Nghĩa vô ngại biện tài: Là thông suốt không ngăn ngại đối với nghĩa lý chứa đựng trong giáo Pháp.

3. Từ vô ngại biện tài: Là tinh thông, lưu loát đối với các ngôn ngữ, văn tự.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện tài: Là có trí tuệ về ba loại biện tài trên, nên có thể thuyết Pháp một cách an lạc, tự tại, khiến chúng sinh được giác ngộ, hạnh phúc.

Ngoài biện tài thuyết Pháp không lời của Bồ tát và các bậc Thánh giả ở trên ra, Đại sư Trí giả giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, suốt ba tháng mới giảng xong chữ Diệu; Pháp sư Đạo Sinh giảng Kinh ở núi Hổ Khưu tỉnh Tô Châu, khiến cho đá phải gật đầu; Bồ tát Quán Thế Âm đối với ba mươi ba loại chúng sinh, dùng mười chín thứ phương tiện ngữ ngôn để thuyết Pháp; Pháp sư An Thế Cao dịch giả Kinh này, có thể thông hiểu tiếng của loài chim thú v.v… đều là vô ngại biện tài.

Thành tựu biện tài như thế, đương nhiên có thể giáo hóa được tất cả chúng sinh. Mục đích giáo hóa chúng sinh là đem lại niềm vui lớn cho tất cả mọi loài.

Niềm vui lớn không phải là năm món dục lạcthế gian, cũng không phải là đem vật chất ra thỏa mãn lòng tham muốn của người ta để đổi lấy sự tín ngưỡng! Nói được niềm vui lớn, là có thể khiến tất cả chúng sinh trong chín pháp giới xa lìa ngu si sinh tử, thoát khỏi khổ não trong ba cõi, chứng được niềm vui lớn của Niết Bàn cứu cánh.

DỊCH THƠ:

Điều thứ năm nằm lòng giác biết
ngu si muôn kiếp tử sanh
Bồ tát phát nguyện tu hành
Nghe nhiều học rộng Pháp lành Như lai.
Để tăng trưởng gia tài trí tuệ
Và tựu thành xuất thế biện tài
Giảng Kinh giáo hóa muôn loài
Cho niềm vui lớn, cùng ngồi tòa sen.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12641)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10182)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10949)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10393)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12345)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16280)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14133)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11642)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14645)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11908)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11476)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51766)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15328)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13860)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11356)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12665)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13103)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54045)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14272)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9847)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57626)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14355)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19981)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17364)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13218)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11827)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12040)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11959)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13177)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25378)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12099)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41947)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28174)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38581)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14614)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12589)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16107)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant