Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng

23 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10619)
8. Trì giới là căn bản để tiết chế dục vọng

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang

Bài 8: Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng

Phiên âm:

Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc. Thường niệm tam y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.

Dịch nghĩa:

Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dụctai họa, tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bátpháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch, hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất cả.

Giảng giải:

Trong điều giác ngộ thứ hai, chúng tôi từng giảng qua nhiều lòng dục là kho? nói lòng dục chính là căn bản của sinh tử, rồi chỉ ra phương pháp để đối trị nhiều lòng dục là ít muốn vô vi.

Nay trong bài giảng này, sẽ thuyết minh tội lỗi, tai họa của năm dục, lại đưa ra phương pháp trì giới, sống đời phạm hạnh là phương thuốc đối trị tham dục. Ở đây, chúng tôi sẽ thuyết minh giới học trong Phật Pháp, tức đề tài: Trì giớicăn bản để tiết chế dục vọng. Người đời không có trí tuệ, cho rằng tham đắm năm dục là vui. Nhưng Bồ tát giác ngộ thấy tham đắm năm dục sẽ gây ra các tội lỗi, cho đến chịu tai họa trong sinh tử luân hồi.

Năm dục theo thế gian là: tài, sắc, danh, thực , thùy.

Tài là tiền bạc của cải.

Sắc là tình yêu nam nữ.

Danh là địa vị danh tiếng.

Thực là ăn uống vị ngon.

Thùy là giải đãi hôn trầm.

Năm dục theo Phật Pháp là: sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Sắc là hình sắc xinh đẹp.

Thanh là âm thanh êm tai.

Hương là hương thơm nồng nàn.

Vị là vị ngon vừa miệng.

Xúc là xúc chạm ưng ý.

Cuộc đời không thể hoàn toàn phủ nhận là không có thú vui của năm dục. Vì theo kinh nghiệm cảm quan của căn thức con người, thì năm dục quả có thể dẫn đến hỉ lạc tạm thời, không triệt để. Người ta vì nó mà không tự chủ, bị mê hoặc, suốt ngày làm nô lệ cho năm dục, tham cầu vọng tưởng khiến cuộc sống không lúc nào được tự tại, an lạc.

Tài là tiền bạc, của cải. Nó vốn để người ta sử dụng, nhưng có tiền bạc, của cải chưa chắc đã hạnh phúc. Người ta vì tiền mà chết rất nhiều. Hai ba năm trước đây, báo chí đăng tin Uông Chấn vì mưu đoạt tiền bạc mà phanh thây người bạn thân hơn hai mươi năm của mình là Trương Xương Niên làm ở ngân hàng Đài Loan! Tình bạn thân mà tàn ác như vậy, không phải đều do tham tiền bạc mà gây ra sao?

Sắc là tình yêu trai gái. Trong hoàn cảnh thuần phong mỹ tục suy đồi hiện nay, tình áima lực rất lớn. Chúng ta thấy nhan nhản, nghe đầy tay những vụ án tạt acid, giết tình địch xảy ra hàng ngày trong xã hội. Ngày nay, trai gái yêu đương xen lẫn với thù hận, vì thù hận mà dẫn đến kết cuộc bi thảm, như tằm nhả tơ tự trói buộc lấy mình.

Danh là địa vị danh tiếng. Cổ ngữ bảo: thời Tam đại về trước, người ta sợ rằng mình hiếu danh; thời Tam đại về sau, người ta chỉ lo mình không hiếu danh! Yêu thích thanh danh vốn là điều rất tốt, nhưng mỗi khi cạnh tranh tuyển cử, người ta vì tranh danh mà không ngại gì công khích lẫn nhau, đưa nhau ra tòa. Thật đúng là: Cây càng to thì gió càng lớn; danh càng cao, ghét nhau càng nhiều! Hay: Leo lên càng cao, ngã xuống càng đau! Viên Thế Khải không phải vì quá trọng danh vị mà bị đời sau phỉ nhổ hay sao?

Thực là ăn uống vị ngon. Người ta không ăn không thể sống. Nhưng ăn quá đáng gây ra các bệnh đường ruột, bao tử là tự làm khổ mình. Thậm chí có nhiều người vì tham ăn mà trúng độc. Có người nói: Chiến tranh trên thế giới đều do vấn đề bánh mì! Như vậy có thể thấy, tham dục về ăn có tai hại lớn đến dường nào! Người ta suốt ngày xuôi ngược đông tây, tìm cầu suy tính, đều không phải vì miếng ăn cả hay sao?

Thùy là giải đãi hôn trầm. Ngủ nghỉ vừa phải là điều cần thiết. Tham ngủ quá đáng, giải đãi hôn trầm, lại là việc không nên. Đời người nếu sống được chín mươi năm, mỗi ngày ngủ tám giờ thì đã có ba mươi năm trôi qua trong ngủ nghỉ! Vì thế, tham ngủ có hại đến đạo nghiệp, có biết bao nhiêu việc có ý nghĩa cần làm, lẽ nào vì ngủ nghỉ mà làm lỡ mất hay sao?

Không luận tài sắc danh thực thùy, hay sắc thanh hương vị xúc, dục vốn không nhất địnhtội ác. Chúng ta sống với năm dục thích đáng là điều không có gì đáng trách.

Trong Kinh nói: Nam nữ, ẩm thực, danh dự không phải thực sự là dục, nó chỉ là pháp chướng đạo mà thôi. Nhưng nếu phóng túng lòng dục, sẽ do nơi lòng dục về nam nữ v.v…, gây tạo ra các tội ác tày trời. Cổ đức bảo: Tài sắc danh thực thùy, năm gốc rễ địa ngục. Người phóng túng lòng dục nên suy xét kỹ lời nói này!

Sống trong đời vốn không thể xa lìa được tài sắc danh thực thùy. Vì sao trong Kinh lại nói rằng: Năm dục là tai họa? Tham cầu năm dục đưa đến gây tạo tội lỗi, rước lấy tai họa là điều thường xuyên xảy ra. Nói tóm lại, những tội lỗi, tai họa của năm dục là:

1. Tăng thêm đấu tranh.

2. Làm khổ não người.

3. Gây ra họa hại.

4. Không có chân thật.

5. Không được trường cữu.

Năm dục đối với người như mật ngọt dính trên lưỡi dao, không đủ cho một bữa ăn ngon. Nhưng trẻ con vì không biết sự tai hại của nó, nên đưa lưỡi ra liếm, phải chịu tai họa đứt lưỡi!

Ngũ dục gây cho người tai họa to lớn như vậy, cho nên: Tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc. người Phật tử tại gia sống trong vòng thế tục mà đoạn trừ ngũ dục là việc khó thể làm được. Nhưng chỉ cần không bị dục lạc của thế gian ô nhiễm là được.

Cư sĩ Duy Ma Cật trong thành Tỳ Da Ly là một vị trưởng giả giàu có. Đó gọi là: Tuy sống ở nhà, không vướng ba cõi, hiện có vợ con, thường tu phạm hạnh. Hay: Hiện việc phàm phu, không rời đạo pháp. Hay: Chỉ có trừ bệnh, mà không trừ pháp.

Ở đời cần phải hăng hái xây dựng, mở ra một cảnh giới an lạc cho cuộc sống. Cảnh giới an lạc này ở ngay trong nhân quần, xã hội! Chúng ta chỉ cần không bị năm dục làm mê hoặc, trói buộc, thì dù sống trong cuộc đời ngũ dục cũng không ngại gì. Như trưởng giả Tịnh Danh đối với nhân sinhxã hội hiện thực vẫn vô cùng lạc quan. Ông ấy là điển hình của hàng tại gia học Phật. Sống trong cuộc đời ngũ dục mà muốn không bị ngũ dục làm ô nhiễm, đây là điều vốn không dễ dàng. Nhưng người tu học Bồ tát đạo không thể bị ngũ dục làm ô nhiễm. Chỉ cần chúng ta đem Pháp lạc thay thế dục lạc, lấy việc tu tập để đối trị tham dục, thì cuộc sống tự nhiên sẽ tự tại, an lạc.

Lấy việc tu tập để đối trị ngũ dục có hai cách: Một là của đệ tử xuất gia, hai là của đệ tử tại gia.

Phật tử tại gia muốn không bị chìm đắm trong ngũ dục, ít nhất phải giữ gìn năm giới.

1. Không sát hại bừa bãi, phải có lòng nhân từ.

2. Không lấy của phi pháp, phải tôn trọng đạo nghĩa.

3. Không tà dâm, phải giữ gìn lễ giáo.

4. Không vọng ngữ, phải chân thật, thành tín.

5. Không uống rượu, phải bình tỉnh, sáng suốt.

Năm giới này là căn bản làm người. Đại sư Thái Hư nói: Nhân cách thành tựu thì Phật thành tựu. Làm người nếu làm tốt đẹp, thì việc tu học theo Phật Pháp tự nhiên cũng thành tựu. Làm người tốt đẹp thực ra cũng không phải là việc dễ dàng gì. Socrates ban ngày cầm đuốc đi ngoài đường. Ai hỏi ông làm gì, ông đều trả lời:

- Tôi muốn tìm xem có ai là Người trên đời này không!

Người gìn giữ năm giới trên đời này rất ít, mà kẻ giữ được trọn vẹn lại càng ít hơn!

Vừa nói đến trì giới, người mới vào đạo rất là e sợ. Họ cho rằng giới luật là sự ràng buộc: Điều này nên làm, điều kia không nên làm. Thật ra, giới là phòng ngừa điều phi pháp, cấm ngăn việc xấu ác (phòng phi chỉ ác). Giới chẳng những không phải là ràng buộc, mà còn mang nội dung tự do một cách tuyệt đối. Nói tự do là nói đến nguyên tắc không làm trở ngại, xâm phạm người khác. Giới luậtgìn giữ thân tâm chúng ta, không để xâm phạm vào người khác.

Như sát sinhxâm phạm đến tự do sinh mạng của người. Trộm cướp là xâm phạm đến sự an toàn tài vật của người. Tà dâmxâm phạm, làm hại đến sự hòa hợp, hạnh phúc của người. Nói vọng là xâm phạm, làm hại đến niềm tin của người khác. Uống rượu là xâm phạm, làm hại đến mình và người. Giả như chúng ta đến nhà giam để điều tra tội của các phạm nhân, thì hầu hết đều vì vi phạm năm giới! Tội giết người là tội phạm giới sát sinh. Tội trộm cướp, lừa gạt, chiếm dụng, tham ô là tội phạm giới trộm cướp. Tội phá hoại gia cang, vi phạm thuần phong mỹ tục, vợ bé, cưỡng hiếp v.v… là phạm giới tà dâm. Tội lừa đảo, dụ dỗ, bói toán gạt người, vu khống làm hại danh dự, tung tin đồn thất thiệt v.v… là phạm giới nói vọng. Tội buôn bán thuốc phiện, hút chích ma túy, say rượu quậy phá, đánh nhau v.v… là phạm giới rượu.

Phàm làm người ai cũng phải giữ giới. Năm dục như nước lũ, rất dễ gây nên tai họa. Nếu có đê trì giới ngăn chặn, biển tham dục sẽ không gây ra tai họa.

Trong Kinh nói: Thường nghĩ đến ba y, bình bátpháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch. đây là nói người cư sĩ tại gia, thân tuy không xuất gia mà tâm thường hâm mộ nếp sống thanh tịnh với ba y, bình bát, và giới luật của người tu sĩ xuất gia. Nếu ai làm được như vậy, sẽ xa lìa mọi trói buộc, giữ gìn nhân cách mình được trong sạch, thanh cao.

Ba y, bình bát, pháp khí đều là những vật của người xuất gia. Ba y là chỉ ca sa, chia làm ba loại.

1. Tăng Già Lê (đại y)

2. Uất Đa La Tăng (y thất)

3. An Đà Hội (y ngũ)

Bình bát là đồ đựng thức ăn khất thực. Tiếng Phạn là Bát Đa La (pAtra), Trung Hoa dịch là ứng lượng khí, vì nó có hình thể, màu sắc và thể lượng tương ứng. Pháp khí là những vật dụng giúp cho việc tu hành như pháp cổ, pháp loa, pháp đăng, pháp tràng cho đến chuông, mõ, khánh v.v….

Không luận là ba y, bình bát hay pháp khí đều là đại biểu cho Tăng đoàn thanh tịnh, tượng trưng cho nhân cách của người tu hành. Hoàng đế Thuận Trị có bài thơ rằng:

Cơm chùa thiên hạ có thiếu chi
Bình bát tùy duyên khắp chốn đi
Vàng ngọc thế gian đâu phải quí
Đắp được ca sa mới diệu kỳ!

Hoàng đế Thuận Trị khen ngợi bình bát, ca sa, cũng chính là khen ngợi Tăng đoàn xuất gia. Người ta phần nhiều có tâm lý quên ân phụ nghĩa, thích ghi nhớ cừu hận mà không chịu nghĩ đến ân tình. Trong xã hội, ta dù cả ngàn lần giúp người mà chỉ một lần không làm vừa ý họ là bị hiềm giận! Nên Kinh này dạy người đệ tử tại gia học Phật phải thường nghĩ nhớ đến ba y, bình bát, pháp khí, không nên nhớ đến lầm lỗi của người. Phật tử tại gia như Trưởng giả Duy Ma Cật, phu nhân Thắng Man đều là Bồ tát tại gia. Văn Thù, Phổ Hiền đều hiện tướng Bồ tát tại gia để giáo hóa chúng sinh. Chỉ có Địa Tạng Bồ táthiện tướng xuất gia. Bồ tát không có phân biệt trên hình tướngxuất gia hay tại gia, mà chỉ dựa vào sự phát tâm tu hành để đánh giá phẩm vị cao hay thấp. Hơn nữa, nói về xuất gia cũng có bốn hạng khác nhau:

1. Thân tâm đều xuất gia: Đây là chỉ các vị Tỳ kheo không tham luyến các cảnh dục.

2. Thân tại gia mà tâm xuất gia: Đây là chỉ hàng cư sĩ tuy thọ dụng ngũ dụctâm không đắm nhiễm.

3. Thân xuất gia tâm không xuất gia: Đây là hạng tu sĩ đầu tròn áo vuông mà tâm vẫn luyến ái thế tục.

4. Thân tâm đều không xuất gia: Đây là chỉ người thế tục thọ dụng năm dục, chìm đắm trong ái nhiễm.

Đứng trên phương diện nào xét cũng vậy, người học đạo không luận xuất gia hay tại gia đều như nhau không khác. Phật tử tại gia tuy thân không mặc ca sa, nhưng chỉ cần chí mong được xuất gia, tức tâm xuất gia là tốt rồi. Vua Đường Thái Tông là Lý Thế Dân nói: Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, không phải là kẻ làm tướng văn, tướng võ có thể đảm đương nỗi. Nếu không thể làm một vị Tỳ kheo xuất gia có khả năng hoằng Pháp lợi sinh, thì tốt hơn nên làm vị cưtại gia hộ trì Chánh Pháp!

Trong hàng ngũ Phật giáo ngày nay, phần nhiều người xuất gia không ra xuất gia, người tại gia không ra tại gia, thật khiến cho chúng ta vô cùng xót xa! Người xuất gia thì ham phú quý vinh hoa trong xã hội, sống chỉ mong cầu vật chất, bị thế tục hóa; người tại gia lại thích can thiệp vào việc của Tăng đoàn, quản lý chùa chiền, đây đều là hiện tượng không tốt đẹp. Hy vọng rằng sau này, hàng Bồ tát tại gia ủng hộ Phật Pháp, hộ trì Tam Bảo, chú trọng về việc từ thiện trong xã hội, không nên vì quyền lợi quản lý tài sản trong các tự việntranh giành với hàng Tỳ kheo; cũng hy vọng sau này, người xuất gia trụ trì Phật Pháp, trụ trì Tam Bảo, phải có một nền tảng đức hạnh, học vấn vững chắc, để lãnh đạo Phật tử tại gia trong sự nghiệp giáo dục, văn hóa, từ thiện. Được như vậy, Phật giáo may mắn lắm thay! Chúng sinh may mắn lắm thay! Kinh này chỉ ra người tại gia cần phải chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch; người xuất gia phải hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất ca.

Hạnh thanh tịnh tức là phạm hạnh. Phạm có nghĩa là thanh tịnh, hạnh là hành vi cách sống. Cách sống xa lìa lỗi lầm, dục lạc, đó là phạm hạnh. Từ là đem đến cho chúng sinh niềm vui, bi là làm vơi hết khổ đau của chúng sinh. Thương yêu giáo hóa đó là từ bi. Đệ tử xuất gia phải thực hành hạnh thanh tịnh đến chỗ cao xa, dùng lòng từ bi vô ngã để đối đãi với tất cả chúng sinh, đem ân huệ ra chan rải khắp cuộc đời!

Dịch thơ:

Điều thứ bảy nhớ ghi giác biết
Ngũ dục là muôn kiếp họa tai
Thân tuy ở tục qua ngày
Tâm không đắm nhiễm trần ai thói đời.
Thường nhớ nghĩ ba y, bình bát
Tiêu biểu cho Bồ tát xuất gia
Chí mong sớm được xa nhà
Sống đời giải thoát an hòa thanh cao.
Lập nguyện lớn cầu Vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sanh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14643)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11696)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12643)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15159)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10952)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10397)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12351)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16283)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14140)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11650)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14649)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11910)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16692)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11481)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12629)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11243)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11935)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51772)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15337)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13865)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12667)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13110)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12521)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54049)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14285)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57634)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13623)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15291)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17366)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11828)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14559)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12369)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12051)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11963)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12415)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13234)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25384)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14422)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41949)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38585)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14619)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16117)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant