Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 39: Nhất Vị Pháp

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9768)
Chương 39: Nhất Vị Pháp

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG 
HT Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG 39
NHẤT VỊ PHÁP 

Thưa đại chúng,
Giáo pháp của Đức Thế Tôn chỉ có một vị, đó là vị Giải Thoát.
Từ ngày xưa cho đến bây giờ đã hai mươi sáu thế kỷ, dù trải qua nhiều vùng đất khác nhau, thâm nhập vào nhiều nền văn hóa khác nhau và đệ tử của Đức Thế Tôn cũng chia ra nhiều Tông phái nhưng giáo pháp của Ngài duy nhất chỉ một vị giải thoát.

A. CHÁNH VĂN.

Trong chương Kinh ba mươi chín Đức Phật chỉ dạy một đoạn ngắn nhưng rất hay:

Phật ngôn: “Học Phật đạo giả, Phật sở ngôn thuyết, giai ưng tín thuận. Thí như thực mật, trung biên giai điềm. Ngô Kinh diệc nhĩ.”

Đức Phật dạy: “Người tu học Phật pháp thì những lời giáo huấn của Phật truyền đạt ta phải nên tin tưởngthực tập. Ví như ăn mật, giữa chén mật và chung quanh chén mật đều ngọt. Lời dạy của ta, giáo pháp của ta cũng giống như vậy.” (tức là ngọt từ đầu tới cuối, từ ngoài vào trong). Nên Nhất Vị Pháp là tên của chương Kinh ba mươi chín nầy.

B. ĐẠI Ý.

Đại ý chương nầy muốn nói giáo lý Đức Phật hoàn thiện tuyệt đối xứng đáng cho Chư Thiênloài người phát khởi niềm tin bất hoại để tu học.

Đức Phật được gọi là đấng cha lành của Trời, Người và các cảnh giới thấp hơn cõi người. Sự có mặt của Ngài không phải chỉ đem đến niềm vui cho loài người mà còn đem đến hạnh phúc, an lạc cho cõi Trời.

C. NỘI DUNG.

Đi vào nội dung của bài Kinh chúng ta có năm phần.
1. Giáo pháp của Đức Thế Tôn dù qua thời gian hay không gian vẫn không bị đào thải.
2. Giáo pháp của Đức Thế Tôn đáp ứng được tâm thức của con người mọi thời đại
3. Giáo pháp của Ngài chỉ có một vị giải thoát.
4. Con đường thực tập.
5. Phát khởi niềm tin bất hoại.

1. Tồn tại qua bao cuộc biển dâu.

Hiện tại trong xã hội chúng ta bạo động có mặt khắp mọi nơi trên hành tinh nầy. Thù hận, chiến tranh, hoạn họa cách đây năm mươi năm đều phát sinh từ ý thức hệ. Những xung đột, bạo lực, khủng bố hủy diệt xảy ra hiện tại là do vấn đề va chạm, tranh chấp giữa các nền văn minh, và tất cả những nền văn minh đều có gốc rễ từ tôn giáo. Cố nhiên, ở một mặt nào đó tôn giáo cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng trong sự phát triển, đóng góp cho nền văn minh hòa bình của nhân loại.

Sự phát triển vượt bực về mọi lãnh vực trên thế giới đã nâng cao đời sống văn minh vật chất hiện đại, nhưng lại dễ đưa đến tình trạng khủng hoảng xã hội, khủng hoảng chính trị, kinh tế toàn cầu... và đời sống tâm linh bị tha hóa.

Cho nên ngày nay đã đến lúc tâm thức con người có nhu yếu tìm về sự hòa điệu trong cuộc sống chung, tìm về hạnh phúc, tìm về an lạc. Và đạo Phật với sự góp phần của mình cho nền hòa bình, văn minh trên hành tinh nầy qua giáo lý Từ Bi của đức Phật hơn hai ngàn năm trước vẫn còn mới, vẫn không thay đổi, vẫn còn hợp với tất cả mọi thời đại.

Xu thế của con ngườiyêu thương và muốn được sống trong yêu thương, muốn loại trừ hận thù, loại trừ niềm tin cuồng tín, và điều nầy chỉ là một mặt rất nhỏ trong kho tàng giáo điển của Phật trao cho chúng ta.

Đạo Phật loại trừ tính chất thần linh được đặt trên nền tảng tôn thờ, suy tôn, cuồng tín đức Giáo chủ. Người ta thường cho rằng không có tôn giáo nào “phi thần linh” như đạo Phật và chính Đức Phật từng tuyên bố Ngài chỉ là vị Thầy. Giáo lý của Ngài chỉ có công năng soi đường cho con người nương vào lời dạy của Ngài để tự thanh lọc thân tâm. Ngài cũng tuyên bố một điều rất nhân bảnmọi người đều có khả năng thành Phật. Mỗi con người đều có chất Phật bên trong nếu khéo quay về đào xới vùng tâm thức, gạn lọc những ô nhiễm thì chúng taThánh thần, là Chúa của chính mình. Là Thượng Đế của chính mình.

Điều quan trọng hơn nữa là giáo lý đạo Phậttrải qua hai mươi sáu thế kỷ nhưng chưa bao giờ lạc hậu, lỗi thời, cần phải củng cố, cần phải sửa sai, chỉnh lý. Những lời Đức Phật dạy vẫn đáp ứng được tâm thức con người qua mọi thời đại, qua mọi lãnh vực mặc cho hành tinh nầy có đưa nhân loại đến tầng cao văn minh nào đi nữa.

Thưa đại chúng, sự truyền bá của đạo Phật được lan rộng một cách tự nhiên, từ con đường tơ lụa băng qua sa mạc Gobi vào Trung Hoa. Và cũng từ phương Nam theo các thuyền buôn người Ấn đến Việt Nam, Thái Lan... Chúng ta thấy rõ đoạn đường dài từ Ấn Độ qua Trung Hoa đến Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản và đến vùng Đông Nam Á đạo Phật chưa bao giờ làm đổ một giọt máu nào, hủy diệt một sinh linh nào cũng như chưa bao giờ phá hoại hay làm tổn thương văn hóa, môi sinh của bất cứ vùng đất nào mà Đạo Phật đặt chân đến.

Khi đến Trung Hoa đạo Phật mang đến cho đất nước nầy một kho tàng văn hóa thâm áo, giàu có. Khối lượng Kinh điển bát ngát được dịch ra tiếng Trung Hoa đã làm giàu cho Trung Hoa rất nhiều mặt; văn tự, chữ nghĩa, truyện ký, đạo đức, xã hội... phát triển rất lớn cho đến hiện tại.

Đi vào Tây Tạng cũng vậy, đạo Phật đã đóng góp, dựng nên một sắc thái đặc biệt đậm nét cho Tây Tạng. Không những niềm tin của dân bản địa không bị hủy diệt, mà đạo Phật đã đưa chánh pháp vào trong niềm tin địa phương, tô đậm thêm nét đặc thù Mật Thừa rất riêng của Phật giáo Tây Tạng ngày nay.

Và khi đến với Nhật Bản, đạo Phật là quà tặng rất lớn, rất nhiều mặt cho xứ sở trải dài với ba nghìn hòn đảo lớn, nhỏ trên Thái Bình Bương.

Một điều rất đặc biệt, là từ nền tảng Từ Bi Trí Tuệ của Phật giáo nên dù hiện tại là một quốc gia tiến bộ vượt bực về kỹ thuật hiện đại trên thế giới, nhưng người dân Nhật vừa thông minh vừa có tinh thần rất từ hòa, và biết thưởng lãm cái đẹp của thiên nhiên ban tặng. Đời sống của họ cũng lao xao mua bán, kinh doanh nhưng về lại nhà, ngôi nhà họ là một vùng thiên nhiên thu nhỏ. Họ biết làm cho tâm nhẹ nhàng, dịu lại, đặc biệt là chất Thiền thấm đẫm trong từng sinh hoạt của họ. Tất cả mọi sinh hoạt dù tầm thường, nhỏ nhặt cũng trở thành một nghệ thuật sống đầy thiền vị. Tao nhã, thanh khiết trong đời sống hầu như là bản chất, và qua các bộ môn như: bắn cung, cắm hoa, uống trà, đấu kiếm... đều đậm màu Thiền của Đạo Phật.

Từ những điều tôi chia xẻ trên chứng minh cho chúng ta thấy là khi đạo Phật thâm nhập vào vùng văn hóa nào thì làm cho nền văn hóa nơi đó được nâng cao, thăng hoa, có phẩm chất vượt trội.

Chúng ta thử nhìn lại trong quá khứ từ khi đạo Phật có mặt trong xã hội Ấn Độ thì nơi đây rất nhiều tôn giáo như Kỳ Na giáo đã có từ mấy trăm năm, Bà La Môn giáo cũng có mặt trước đó. Nhưng khi đạo Phật xuất hiện, Đức Phật đã làm một cuộc chuyển hóa vĩ đại trong đời sống tâm linh con người cũng như xã hội chỉ một thời gian rất ngắn. Điều nầy chứng minh đương thời những phương pháp Ngài dạy đã giúp người chứng nghiệm an lạc từ nguồn tuệ giác thâm sâu của Ngài.

Trong cuộc đời của Đức Thế Tôn lúc bấy giờ Ngài đã mang hòa bình đến cho rất nhiều tiểu quốc trên lưu vực sông Hằng. Bằng tự thân giáo lý của Ngài, bằng sự hiện thân của một Tăng đoàn hòa bình và bằng những lời dạy thực tiễn đầy trí tuệ, Ngài đã giúp cho những vương quốc đương thời thiết lập được đời sống yên ổn cho dân tộc mình.

Đặc biệt nhất là giáo lý bình đẳng của Ngài đã san bằng tính chất kỳ thị giai cấp nặng nề trong xã hội Ấn Độ. Con người sinh ra đời đều chịu cùng nỗi khổ như nhau và cùng có nhu cầu hạnh phúc như nhau. Điều nầy từ xưa chỉ có một mình Ngài đáp ứng được tâm thức con người, đến bây giờ và mãi cho đến tương lai.

Thưa đại chúng, Đức Phật dạy con người hãy đứng ngay thân phận mình, tự giải quyết niềm đau, nỗi khổ của mình. Chúng ta không là gạch nối của ai cả, con người là chủ của dòng sinh mệnh mình, nắm trong tay hạnh phúc hoặc đau khổ của mình.

Giá trị của con người ở ngay nơi họ, trong chính đời sống họ. Sinh ra để sống cho họ, hoàn thiện tự thân họ; mà không phải được sinh ra từ ý muốn của Thần linh. Do vậy, họ có trọn vẹn chủ quyền về đời sống của chính họ. Họ không bị bắt buộc phải phục vụ thần linh và cũng không cần lệ thuộc vào tôn giáo hay một tổ chức nào.

Đức Phật đến với chúng ta để thuyết minh về sự khổ và con đường thoát khổ. Nói về nỗi khổ thì tôn giáo nào cũng đều nói đến, nhưng để dạy con đường thoát khổ thì khác biệt.

Có những tôn giáo người ta dạy tín đồ, đệ tử muốn thoát khổ chỉ đến gửi niềm tin của mình cho vị giáo chủ hay Thần linh và ta chỉ cần nhờ một người trung gian thay ta làm hết mọi việc. Nhưng trong đạo Phật con đường giải thoát nằm trong bàn tay chúng ta, chúng ta là chủ nhân của bản thân mình. Niềm vui, nỗi khổ là của chính chúng ta, không ai có thể gột rửa, làm mất đi dùm chúng ta được.

Qua vài nét đặc thù ấy đủ chứng minh sự tồn tại của giáo pháp Đức Thế Tôn giữa dòng đời sinh diệt.

2. Giáo pháp của đức Phật đáp ứng được tâm thức con người mọi thời đại.

Tuệ giác của Đức Phật khám phá được chân lý tối hậu, và tất cả những điều Ngài dạy đều mang đặc tính khế cơ, khế lý và khế thời đáp ứng được tâm thức mọi người, mọi thời và mọi nơi.

Nếu chúng tatrình độ hiểu biết, khi đến với đạo Phật và thấy giá trị đạo Phật đáp ứng được nhu cầu tri thức của chúng ta.

Nếu khi chúng taniềm tin đơn sơ, giản dị của người không tri thức thì khi đến với đạo Phật, chúng ta cũng tiếp nhận được những điều đơn giản, bình thường đạo Phật tặng cho chúng ta.

Nếu ta là một người có khuynh hướng thích suy tư, triết lý thì trong giáo lý đạo Phật có những điều Đức Thế Tôn dạy đáp ứng được nhu cầu tư duy, triết lý của ta.

Nếu tâm hồn chúng ta thuần phác, muốn đi thẳng vào pháp môn thực tập thì trong kho tàng đạo Phật vẫn có những pháp môn cho chúng ta thực tập; nghĩa là đạo Phật đáp ứng được mọi căn cơ của mỗi người, trong mọi thời và từng cấp độ tri thức đều đáp ứng được.

Do vậy chúng ta xác định được một điều là trong tự thân đạo Phật chỉ có một vị giải thoát. Tùy căn cơ, trình độ tri thức, từng loại chúng sanh mà tất cả đều có thể nếm hương vị giải thoát ấy.

Giáo lý đạo Phật không bao giờ trái với chân lý đời thường. Nền tảng nhất của chân lý đời thường là niềm tin nhân quả. Và từ nền tảng nầy làm cho người đến với đạo Phật ban đầu làm quen với giáo lý để thực tập đều phải giữ gìn năm giới, và năm giới nầy không bao giờ lỗi thời với xã hội nào cả. Từ mức độ thấp nhất đến mức độ tri thức cao nhất, nếu chúng ta muốn đi vào để làm hạnh phúc cho chính bản thân thì chúng ta phải đi vào cửa ngõ của năm giới. Khế lý là như vậy. Nó luôn là chân lý của mọi nơi, mọi thời và đặc tính của nó đáp ứng được mọi căn cơ không bao giờ bị đào thải. Dù cho thời gian trải qua bao nhiêu thế kỷ thì những điều Đức Thế Tôn dạy vẫn thích ứng một cách linh động trên hành tinh nầy.

3. Giáo pháp của Đức Thế Tôn chỉ có một vị.

Thưa quí vị, Đức Thế Tôn Ngài đã từng nói: “Giáo pháp của ta hoàn thiện ở phần đầu, hoàn thiện ở phần giữa, và hoàn thiện ở phần cuối.” Câu nầy Đấng Đạo Sư đã nói trong Kinh Chuyển Pháp Luân hay Vô Ngã Tướng, và bài Kinh ba mươi chín trong Tứ Thập Nhị Chương mà chúng ta đang học đây rất giống câu tuyên ngôn đầu tiên nầy.

Cuộc đời của Đức Thế Tôn từ lúc chuyển pháp luân cho tới lúc Ngài nhập Niết Bàn lời nói của Ngài trước sau như một không hề có sự thay đổi mâu thuẫn phía trước, phía sau gì cả mà chỉ có một vị. Đó là vị Giải Thoát.

Suốt chiều dài đạo Phật tồn tại, phát triển khắp nơi, phân chia ra nhiều Tông, Phái nhưng chưa có một trường phái đạo Phật nào sinh ra từ giáo lý Ngài chống trái lại lời dạy đầy hương vị giải thoát của Ngài. Đời sống Tăng đoàn từ hai ngàn sáu trăm năm qua cho đến bây giờ mà lòng từ bi, trí tuệ, hương vị giải thoát vẫn không hề mai một, luôn gắn chặt vào từng hơi thở của các người con Phật.

Chúng ta đọc trong Ngũ Đăng Hội Nguyêncâu chuyện Đức Phật dạy A Nan trong giờ khất thực. Một hôm gần tới giờ khất thực Đức Phật gọi: “A Nan! giờ thọ thực đã đến, ông hãy mang bát theo ta vào thành.” Ngài A Nan: “Dạ.” Khi A Nan bưng bát lên, Đức Thế Tôn dạy thêm: “Nếu ôm bát đi thì phải y nghi thức của bảy Đức Phật quá khứ” A Nan hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn. Nghi thức của bảy Đức Phật quá khứ như thế nào?” Đức Thế Tôn nói: “A Nan.” A Nan: “Dạ.” Đức Phật dạy: “Hãy bưng bát.”

Đây là một đoạn khá lý thú, nó gần như một công án thiền. Chúng ta hãy đọc kỹ và chiêm nghiệm để thấy đạo lý Thiền được dấu kín nơi đây. Tuy nhiên ở mức độ cạn ta có thể hiểu rằng: đó là Đức Thế Tôn dạy A Nan pháp khất thực trong chánh niệm. Chúng ta đọc Kinh Kim Cang trong phần mở đầu có nói đến cách sinh hoạt của Đức Thế Tôn như sau: “Đức Thế Tôn tới giờ khất thực Ngài đắp y, mang bát tuần tự đi vào thôn trang, dừng lại từng nhà, thí chủ cúng dường đầy bát, Ngài ôm bát về, thọ thực xong, rửa bát, xếp y, tọa thiền.”

Khi nhìn Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề đã phủ phục xuống và bạch: “Lành thay Đức Thế Tôn đã hộ niệm các vị Bồ Tát làm cho các vị Bồ Tát an trú trong tâm Bồ Đề.” Thưa quí vị, chuyện nầy rất bình thường trong sinh hoạt một ngày của Đức Phật, có gì đặc biệt trong đó mà Ngài Tu Bồ Đề nói Đức Thế Tôn khéo hộ niệm như vậy?

Thưa, mỗi bước đi, mỗi việc làm của Phật đều an trụ trong tự tánh định tức là an trụ trong năng lực chánh niệm hiện tiền. Chúng ta dụng công tu hành mỗi ngày cũng là chỉ để làm việc nầy mà thôi. Chúng ta phải thực tập thế nào trong từng sinh hoạt, mỗi bước đi, hơi thở, việc làm luôn an trú trong vùng trời chánh niệm. Làm được điều nầy là chúng ta đang thực tập con đường ngắn nhất của Đức Phật đã dạy ngày xưa.

Từ ngày xưa cho đến bây giờ dù cho có nhiều truyền thống thiền như Thiền Vipassana, Thiền Thoại đầu, Thiền Mặc Chiếu... đều cũng chỉ đi một con đường chánh niệm tỉnh giác. Có thể có những sắc độ đậm nhạt khác nhau khi các dòng thiền khai triển niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Nhưng chưa có pháp hành nào vượt ngoài “Tứ niệm xứ” của đức Thế Tôn dạy. Thế nên chúng ta gọi giáo pháp của Đức Phật chỉ có một vị là như vậy.

4. Ngay con đườngNiết Bàn.

Thưa đại chúng, khi chúng ta muốn đi xuống phố thì con đường từ đây đến phố đòi hỏi thời gian và xe của chúng ta phải đi ngang qua không gian mới đến phố được. Nhưng con đường tu không như thế, Đức Phật dạy là trong lúc ta có niềm tin, và ngay khi bắt đầu thực tập là tức khắc chứng nghiệm được an lạc.

Điều nầy không phải khó cảm nghiệm. Ví như khi một niềm vui, hay nỗi bất an, sự ganh tị... có trong tâm thức, chúng ta chỉ cần nhận biết nó đang có mặt, mà ta không phải là nó. Ta là người đứng nhìn cảm thọ đến đi mà không phải là những cảm thọ đến đi đang có mặt trong tâm thức. Rõ ràng ta không phải là những đối tượng đó mà là trạng thái nhận biết, là chủ thể nhận biết. Thế thì ngay trong lúc nhận biết, ngay trong lúc thực tập chúng ta đã chứng nghiệm an tịnh Niết Bàn.

Ngay trong lúc giác ngộ được một điều chúng ta không phải là những cảm thọchúng ta đã vượt thoát được cảm thọ. Niềm tin trong sạch bất hoại của người con Phật tức thì phát khởi mà không cần phải đi qua giai đoạn học hỏi giáo lý để hiểu, để khơi mở từ từ. Đôi lúc có những người có duyên lớn với Đạo, không học bao nhiêu nhưng người ta chứng nghiệm được ngay, nếm được hương vị Pháp và có những người ở trong cảnh đau khổ, khốn khó cùng cực người ta giác ngộ. Chúng ta là những người tu, có duyên xuất gia học đạo, chúng ta phải làm thế nào để chứng nghiệm giây phút Niết Bàn của tự tâm, từ đó chúng ta khởi niềm tin bất hoại vào Đạo Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ dễ chán, khó đi suốt đoạn đường tâm linh hoặc đi lạc vào nẻo khác.

5. Phát khởi niềm tin bất hoại.

Thưa quí vị, khi đã nếm được hương vị của Pháp, chúng ta phải tạo điều kiện nuôi dưỡng chúng ta hàng ngày như một thời lễ Phật, một thời thiền tọa, đọc một trang Kinh, một đoạn Luận, một giờ thiền hành trong ngày... Và đôi lúc chúng ta phải tiếp xúc ngay trong ta những khổ đau, những bất an, xao động... Từ những tâm hành tiêu cực nầy nếu khéo thực tập thì nó chính là đối lực tích cực giúp chúng ta chiêm nghiệm đời sống vô thường để phát triển, củng cố niềm tin bất hoại. Khi đã có niềm tin vững chắc trong ta thì con đường hành trì mới mở ra. Hai điều nầy hỗ tương nhau; từ chứng nghiệm niềm vui và hiệu quả của sự thực tập đi đến sự củng cố công trình tu nầy rất là gần.

Bằng niềm đam mê thực tập rất sâu trong lòng, mình mới nếm được hương vị của pháp. Và chỉ cần không gian tâm thức hé mở một lần thì không có gì đánh đổi được con đường tu; con đường tuyệt vời nhất của chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15914)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18786)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11724)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13570)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13155)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14919)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10990)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16322)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17475)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16252)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13028)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12662)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13801)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13068)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13413)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10127)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13599)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11879)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10983)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant