Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Đại cương kinh Pháp Hoa

25 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10609)
1. Đại cương kinh Pháp Hoa

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

ĐẠI CƯƠNG KINH PHÁP HOA

Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý, Trần cũng thường chú trọng trì tụng, giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo TínhMinh Tâm dưới đời Lý (khoảng 1034) suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nãi. thiền sư Thông Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù Thánh Cẩm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử truyền bá Phật giáo tại Việt Nam. Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người sửa mình, nên người thời bấy giờ gọi Ngài là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư Chân Không (tịch năm 1100) lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó, Ngài được vua Lý Nhân Tông mời vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái úy Nguyễn Thường Kiệt (tức Lý Thường Kiệt) và thứ sử Lang Châu là tướng quốc Thân châu càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là "Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật."

Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh nêu rõ mục đích ra đời của chư Phật, mà dưới đây là đại cương của kinh.

Thiên kinh vạn quyển mà đức Phật nói ra cùng với những pháp môn tu hành, trong đó có những pháp môn như: Quán Sổ tức, quán Bất tịnh, Tham thiền, Trì trai giới, An cư kiết hạ... đều đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh đức Phật nói rộng, mà cũng có kinh Ngài nói đơn giản, nhưng tựu trung chẳng có pháp môn nào dễ dàng tu thành Phật ngay được cả. Pháp môn nào cũng khó vì phải dụng công nhiều. quán Bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỸ càng chứ không phải quán qua loa mà thành được. Quán Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ chi thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, Trì trai giới...các môn tu khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành Phật quá dễ.

"Nhược nhơn tán loạn tâm,

Nhập ư tháp miếu trung,

Nhất xưng Nam mô Phật,

Giai dĩ thành Phật đạo."

Nghĩa là:

"Hoặc người tâm tán loạn,

Đi vào trong tháp Phật,

Niệm một lần Mô Phật,

Đều đã thành Phật đạo."

Hoặc chỉ chấp tay hay cúi đầu trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi lấy cát đắp thành tháp Phật mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh Đại thừa cao nhất là Pháp Hoa, rốt cục dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải Tham thiền, giữ Giới, Kiết hạ, An cư...? Cho nên Ngài Thường Bất Khinh đã chọn một cách đó để làm Phật. Ngài không quán Sổ tức, không nhập Định, không quét nhà, làm đường, mà chỉ đi gặp ai cũng nói câu: "Tôi không dám khinh ngài, vì ngài hành Bồ Tát đạo, ngài sẽ thành Phật." ngài Thường Bất Khinh là một Bồ Tát Tỳ kheo, sống giữa chúng Tỳ kheo tăng thượng mạnthế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi người, chấp tay cung kính xướng câu: "Tôi không dám khinh ngài,...vì ngài sẽ thành Phật." Tuy nhiên trong việc làm đơn giản đó, cần phải có một lòng tin mãnh liệt rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật" thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu khôngtrí tuệ của Bồ tát thì không thể có được, đó là Bát nhã Ba la mật. Và Ngài làm việc ấy không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh tấn Ba la mật. Trong khi Ngài làm như vậy, có người thì hoan hỶ, vì cho đó là một lời chúc tụng giá trị nhất, chúc làm Vua cũng không bằng. Nhưng cũng có người dững dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân, vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi, đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là Nhẫn nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai ngài cũng nói lên câu: "Tôi không dám khinh ngài..." là nói với một lòng kính cẩn tập trung chứ không phải loạn tâm, hời hợt, đó là Thiền định Ba la mật. Như vậy, chúng ta thấy một việc làm ngó đơn giản, song đã gồm đủ ý nghĩa của Bồ tát hạnhsức mạnh của một lòng tin kiên cố; tin mình là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự tin mình là Phật chưa, huống nữa tin người khác là Phật? Thật khó mà tin nỗi một kẻ vừa nói láo vừa mắng chưởi cộc cằn kia là Phật được! Phải như một vị đại lương y, đứng trước cơn bệnh có những triệu chứng ghê gớm như thổ tả, mê sảng, sốt cao mặt đỏ gay...Nhưng khi bắt mạch thấy rõ tim mạch nhảy đều mà biết được tánh mạng chưa hề gì, và bảo con bệnh: "Ông không chết đâu." Sự quả quyết của lương y tạo cho người bệnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với chúng sanh: "Các Ngài là Phật" cũng trong ý nghĩa đó. Chúng sanh vì tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội gì mà không trầm luân, tội gì mà không lăn lóc trụy lạc: "Thân lươn bao quản lấm đầu!" (Đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu bị lấm bùn lầy), đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn việc gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm giá nào để vươn lên toàn giác toàn thiện được. Bây giờ, khi nghe nói rằng mình là Phật, thì trừ phi những người vô tâm, ai cũng phải mừng rỡ, khi đó những thói xấu xa, cống cao, ngã mạn, nhỏ nhen, tầm thường... khó mà nỗi lên được. Có bao giờ một người, khi tự thấy mình là Phật, mà lại nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân si...? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán Kinh dạy: "Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật." (Tâm đó là Phật, tâm đó làm Phật) không có tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu hiểu lý ấy trong kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh "Bất khinh" ấy, tức không khinh người và không tự khinh mình.

Lòng tin "Tất cả chúng sanh là Phật" đó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến nước. Trong tự nhiên nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với nước thì dù ở bất cứ nơi nào, sông ngòi, ao hồ...dù trong, đục, sạch, nhơ, đều tìm về bể cả. Tất cả mọi người có được lòng tin mình là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong bể cả Đại giác. Đó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất cả hàng Thanh Văn đều thành Phật là vậy. Trước đó đối với hàng Thanh Văn, Phật chỉ nói pháp Thanh Văn như Tứ đế, 12 Nhân duyên. Đến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký cho hàng Thanh Văn thành Phật. Đây là điềm đặc biệt của hội Pháp Hoa. Mặc dù có rất nhiều kinh điển khác cũng nói đến Phật tánh, nói đến trí tuệmục đích ra đời của đức Phật, nhưng chỉ nói chung chung, thọ ký chung chung: Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, đức Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh văn thì dạy cho các pháp tu để chứng quả vị Bích Chi, La Hán, chứng nhập Niết bàn. Những người này tu theo các pháp môn đức Phật dạy, được chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa, khi đức Phật sắp sửa nói thì Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến hạng tăng thượng mạn này: "Chỉ chỉ bất tu thuyết, Ngã pháp diệu nan tư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tin." (Thôi thôi chẳng nên nói, pháp Ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn nghe sẽ không kính tin.) Tôn giả Xá Lợi Phất phải năn nỉ cầu xin đến lần thứ ba đức Phật mới dạy rằng: "ông đã ba phen cầu thỉnh chẳng lẽ Như Lai không nói". Khi ngài sắp sửa nói thì 5000 Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ đức Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả pháp đức Phật mình đã tu đã đắc cả rồi, còn gì để nói, còn gì để nghe nữa? Sau khi những người này bỏ đi, đức Phật dạy: "Lui ra cũng tốt" (Thối diệu giai hỶ). Câu nói của đức Phật nghe tuồng như phủ phàng, tuồng như đối với 5000 người này lòng từ bi của Ngài không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm chỉ có hàng Bồ Tát lãnh hội được ý chỉ của đức Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà như đui như điếc; vậy mà đức Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì đức Phật nói: "Lui ra cũng tốt" có phải phủ phàng xua đuổi không? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không kinh, không khiếp, không sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn, này lại tăng thượng mạn, chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì như thế, đức Phật bảo "cứ ngồi đó đi" thì thật không ích gì cho chính bản thân họ, mà còn gây chướng ngại cho những người nghe Pháp. Và sở dĩ những người này tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật", họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật, do đó mà họ đã bỏ đi ra, và đức Phật dạy rằng: "Họ lui ra cũng tốt."

Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa "Hội tam qui nhất, thọ ký thành Phật". Trước kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau, như tu pháp Tứ đế đắc quả A La Hán, tu 12 Nhân duyên đắc quả Bích chi, tu Lục độ làm Bồ tát...Đến hội Pháp Hoa khi sắp nhập Niết bàn, đức Phật mới dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên quả vị Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ, đức Phật mới nói rằng quả Nhị thừa, Tam thừa đều không thật, đều là phương tiện, chỉ có quả Nhất thừa mới là thật, mới là cứu cánh.

Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là "Khai quyền hiển thật, khai cận hiển viển", mở phương tiện ba thừa để hiển bày cái chân thậtNhất thừa Phật đạo. "Khai quyền" là chỉ rõ tất cả các pháp môn, mà đức Phật nói trước kinh Pháp Hoa, đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý Thật của Pháp Hoa rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật". Điều mà mười phương chư Phật đều làm là: "Xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Điều ấy, đức Thích Ca Bổn sư cũng không làm khác với chư Phật mười phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời chỉ vì một mục đích duy nhấtkhai thị ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản tríquyền trí, thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp, nên mới khai quyền hiển thật được. Thật tướng đó là mười Như: "Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh" 2. Mười Như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy 10 Như đó phối hợp với 10 giới (gọi là thập pháp giới), với năm ấm, hữu tình thế giankhí thế gian mà làm thành "Bách Như" "Thiên Như"... Thiên Thai tông có danh từ "Tam thiên nhất niệm, nhất niệm tam thiên" là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây:

1. Thật trí, Quyền trí chư Phật đồng nhất.

2. Phật tánh, chúng sanh cũng đồng nhất.

3. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất.

Tóm lại đức Phật chỉ dạy là mỗi một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa.

Nhưng trước khi khai thị để đưa chúng sanh về Nhất thừa, đức Phật phải nói tuần tự từng Pháp môn phương tiện, để đến Pháp Hoa, Ngài mới nói rõ bản hoài của chư Phật. Do đó kinh Pháp Hoa là cao điểm của giáo lý Phật đà, nên mới gọi là Diệu Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ "diệu" là tương đối diệu và tuyệt đối diệu. Những pháp môn đức Phật dạy trước đấy tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừaĐại thừa, thì Đại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối đối với Thanh Văn, Duyên Giác nên chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. Đến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh Văn, Duyên Giác mà gồm chung Tam thừa vào Nhất thừa, nên mới thật là Diệu Pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là: "Tất cả pháp đều là Phật pháp, tướng tánh bất nhị, thế gian tướng thường trú". Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp (nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo). Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm:

1. Sanh ra trong bùn mà không nhiễm mùi bùn.

2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết, nhẹ nhàng.

Nghĩa là những pháp mà đức Phật nói ở trong Diệu Pháp Liên Hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu.

Đạo Phật quả là đạo Hoa sen. Đức Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen.

Khi Thành Đạo, Ngài quán sát căn cơ chúng sanh cũng bằng hình ảnh những hoa sen trong hồ: Có hoa đã vươn lên khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả đều là hoa sen và đều sẽ lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não nên gọi là chúng sanh, đến khi gặp được mặt trời diệu pháp của đức Phật soi đến thì cũng đều nở. Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường, một đêm mộng thấy một ngọn Linh sơn giữa bể, Ngài nhảy xuống bể liền có hoa sen đỡ, đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng mộng thấy hoa sen. Nhưng đó là sen trong nước, còn thứ sen trong lửa của Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088, Việt Nam) thì:

"Diệu tánh hư vô bất khả phân

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị càn."

Tạm dịch:

"Diệu tánh rỗng không chẳng thể bâu (bám)

Rỗng không tâm ngộ khó gì đâu

Trên non ngọc đốt màu thường đẹp

Sen nở trong lò ước chửa khô"

(TUTA, Lê Mạnh Thát dịch)

Hay của Động Sơn Lương Giới, Sơ Tổ phái Tào Động thì:

"Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị

Hảo thủ do như hỏa lý liên."

Tam dịch:

Hai kiếm giao nhau không cần tránh,

Tay tài giống hệt sen trong lửa.

Ý nghĩa hai câu thơ trên ám chỉ rằng ở trong cái thân Ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh, hoa sen Phật tánh vẫn tươi như thường.

Chân Nguyên thiền sư (Việt Nam) cũng có câu:

"Trần trần sát sát Như Lai,

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen.

Hoa là bản tánh trạm viên,

Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng.

Hậu học có biết hay chăng?

Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời."

Kinh Pháp Hoa lấy dụ Hoa sen làm biểu tượng là vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22250)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15997)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18922)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14398)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13538)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11804)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13918)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11075)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17576)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13687)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14840)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12741)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12876)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12754)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14149)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14091)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16445)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11289)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11012)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13177)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13482)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13684)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16247)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11625)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12649)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10777)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10970)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10923)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12732)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12601)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11296)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant