Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Hình tượng Hoa sen trong kinh Pháp Hoa

25 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9796)
6. Hình tượng Hoa sen trong kinh Pháp Hoa

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

HÌNH TƯỢNG HOA SEN TRONG KINH PHÁP HOA

Pháp Hoa là nói tắt của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bản gốc của kinh Diệu Pháp Liên Hoa được viết bằng Phạn văn là Saddharmapundarika-sitra. Ngài La Thập (Kumàrajiva) dịch là Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ. Kết hợp pháp và dụ thành Diệu Pháp Liên Hoa, vì thế khi nói kinh Pháp Hoa thì cũng phải hiểu là Diệu Pháp Liên Hoa.

Kinh Pháp Hoa lấy hoa sen làm biểu tượng. Vì sao vậy? Vì Hoa sen không những thường được nhắc đến trong kinh điểnthế gian cũng rất được ưu thích như Ca dao đã nhắc:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"

Hoa sen là một loài hoa rất đặc biệt, bản chất thanh cao của nó hơn hẳn các loài hoa khác. Cuộc đời của đức Phật từ khi Ngài đản sanh cho đến khi nhập diệt, luôn luôn gắn liền với hoa sen. Vì vậy, hoa senbiểu tượng cho sự giải thoát trong Phật giáo (Chín phẩm sen vàng lên giải thoát). Khi đức Phật giáng sanh, Ngài đi trên hoa sen bảy bước. Khi đức Phật truyền pháp cho Tôn giả Ca Diếp, ngài cũng cầm hoa sen. Vì vậy đức Phật luôn luôn được tôn trí ngồi trên hoa sen.

Có lần ngoại đạo Dona hỏi: Vậy Ngài phải được hiểu như thế nào? Ngài điềm tĩnh trả lời: Cũng giống như hoa sen, Ta sinh ra trong đời, lớn lên trong đời mà không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy Ta là Phật, Như Lai.

Hoa sen ấy cao quí vô cùng. Nó từ dưới bùn mọc lên, nhưng không dính mùi bùn. Hoa sen có hoa mọc trước hoa mọc sau, nhưng khi có cơ hội mọc lên gặp ánh sáng mặt trời, tất cả đều nở ra, tỏa mùi thơm ngát như nhau. Các loài hoa khác khi mọc lên, một thời gian hoa rụng mới có quả ; còn hoa sen vừa búp đã có quả, quả bọc trong gương sen. Hoa sen to chừng nào thì quả và gương sen to chừng ấy. Hoa quả đồng thời. Hoa sen có cái đặc biệt là bướm không đậu, sâu không ăn, người ta không lấy để trang sức trên đầu.

Khi đức Phật mới vừa Thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài liền suy nghĩ: "Giáo lý mà Ta chứng ngộ quá siêu việt, siêu lý luận, siêu ngôn ngữ, thậm thâm vi diệu. Còn chúng sanh ở giữa đời này thường ham thích ái dục, khoái ái dục thì làm sao hiểu cho thấu". Cho nên Ngài chần chừ, ngần ngại chưa muốn thuyết pháp. Hàng chư thiên biết rõ tâm ý của Phật không muốn thuyết pháp, cho nên mới đến thỉnh cầu Ngài thuyết pháp. Đức Phật nhìn giữa hồ sen, thấy các hoa sen, có thứ đã ngoi lên khỏi bùn mà chưa khỏi nước, có thứ mọc lên giữa nước mà chưa lên khỏi mặt nước, có thứ mọc lên khỏi mặt nước mà chưa nở, có thứ sắp sửa nở đang đợi ánh sáng mặt trời mới tỏa bông ra.

Đức Phật nghĩ rằng: "Tất cả chúng sanhthế giới này cũng đều như thế. Có hạng căn cơ thấp, có hạng căn cơ vừa, có hạng căn cơ cao, nhưng nếu các hạng căn cơ đó được gặp ánh sáng, được gặp giáo lý của đức Phật cũng sẽ được giải thoát và giác ngộ". Do đó nên Ngài quyết định Chuyển pháp luân, thuyết pháp độ sanh.

Lại nữa, hoa sen còn có một tính cách rất đặc biệt nữa, vì tính cách đặc biệt đó mà Phật đã lấy nó để ví dụ cho Diệu Pháp của Ngài. Vậy Diệu Pháp đó là gì ? Đó là cái Phật tính, tri kiến Phật. Thấy biết như thế nào gọi là thấy biết Phật ? Thấy biết như thế nào là thấy biết chúng sanh ? Phải mà thấy trái, là thấy biết chúng sanh. Thấy đúng sự thật là thấy biết Phật. Giả mà thấy thật là thấy biết của chúng sanh. Thấy đúng sự thật là thấy biết Phật. Vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã, là thấy biết chúng sanh. Trái lại vô thường thấy là vô thường, vô ngã thấy là vô ngã, là thấy biết Phật... Thành thử thấy biết Phật là cái thấy biết đúng chân lý, đúng tánh tướng của sự vật. Đó là cái thấy biết thoát ra ngoài có, không, thường, đoạn, nhị biên theo thiên kiến của chúng sanh. Thấy biết Phật đó nó bao hàm cả tính từ bi, hỶ xả, trí tuệ, giải thoát, nên cái thấy biết đó cao quí vô cùng, ví như hoa sen ở trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Hoa sen mọc ở trong bùn là bùn gì ? Phật giáo ví dụ bùn đó là phiền não của chúng sanh. Phiền não đó nó làm cho cái thấy biết Phật bị khuất lắp, không hiện và không mọc lên được, cũng như bùn khuất lắp hoa sen. Nhưng khi thứ bùn đó được vạch ra, hoa tất sẽ mọc lên. Hoa mọc lên từ trong bùn cũng như cái thấy biết Phật mọc lên từ trong tâm phiền não của chúng sanh. Vì thế Thiền sư Chân Nguyên của Việt Nam chúng ta đã diễn tả:

"Trần trần sát sát Như Lai,

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen.

Hoa là bản tánh trạm viên,

Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng.

Hậu học có biết hay chăng ?

Tâm hoa ứng miệng, nói năng mọi lời"

Trần trần sát sát Như Lai:

Trần trần sát sát... nghĩa là cõi Phật nhiều vô cùng, vô tận như bụi trần không ai mà đếm hết. Thế giới của chúng sanh, thế giới của Phật cũng nhiều như thế, hằng hà sa số thế giới. Nếu chúng ta thay thế chữ trần trần sát sát bằng hằng hà sa số thế giới thì thế giới nào hễ có chúng sanh tức nhiên thế giới đó có Phật. Cho nên trần trần sát thế giới đều có trần trần sát sát Phật, trần trần sát sát chúng sanh.

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen:

Mỗi người chúng ta gọi là chúng sanh dầu có trí, không trí, giàu sang, nghèo khổ, thông minh, ngu đần, chí đến hạng hung dữ cũng đều có hoa sen. Họ hung dữ ngày nay nhưng ngày mai hết hung dữ, chẳng lẽ họ cứ hung dữ đời đời kiếp kiếp mà không lúc nào có một chút từ tâm hay sao ? Dầu họ u tối tới mức nào thì trong họ cũng có một chút sáng suốt. Xét cho cùng, những hạng người như vậy họ cũng có tình thương chứ không phải hung dữ hoàn toàn. Thế thì chính nơi người ấy, cũng có một đốm lửa sáng hay có một chút hoa sen tức là mỗi người có một hoa sen như Ngộ Ấn Thiền sư người Việt Nam đã nói:

"Diệu tánh rỗng không chẳng thể bâu, (vin)

Rỗng không tâm ngộ, khó gì đâu?

Trên non ngọc đốt màu thường đẹp

Sen nỡ trong lo ướt chưa khô"

(Thuyền Uyển Tập Anh Lê Mạnh Thất dịch)

Hoa là bản tánh trạm viên:

Trạm là đứng lặng. Viên là tròn đầy, viên mãn. Hoa sen nơi chúng sanh thì dù có lặn lội (luân hồi khi làm trời khi làm thì người, khi súc sanh, khi ngạ quỉ...), nói chung là luân hồi trong sáu nẽo. Nếu làm người cũng đủ mọi hạng. Khi thì làm người thông minh, người ngu dốt, người lành người ác... dầu làm người gì thì làm nhưng cái hoa sen, tánh tri kiến Phật vẫn không bao giờ thay đổi. Nó luôn luôn vắng lặng, tròn đầy, không méo mó, không biến mất, không thêm bớt. Thành thử tri kiến Phật ở đây nói bằng ẩn dụ hoa sen, thì nơi chúng sanh hay nơi Phật cũng y như nhau, không khác. Nhìn bề ngoài, hình tướng diện mạo mỗi người mỗi khác, nhưng Phật tính trong họ là hoa sen không khác, nó chỉ khác nhau ở chỗ biểu hiện mà thôi.

Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng:

Hoa sen đó viên tịch bình đẳng như nhau, không hơn, không thua, không cao, không thấp, tất cả đều bình đẳng. Chỉ khi nào hoa sen đó bị vùi lấp, bởi lấp bùn phiền não, thì khi đó con người trở nên bé nhỏ. Khi nào cái ta (ngã) phiền não trong mỗi chúng sanh nhỏ đi thì khi ấy hoa sen Phật tánh mới nở ra to lớn được. Đức Phậthoa sen đã nở trọn vẹn, cho nên đức Phật lớn lắm. Đức Phật to lớn nên Ngài diệt độ đã 2500 rồi mà chúng sanh vẫn niệm tưởng đến Ngài, vẫn thấy Ngài hàng ngày, khắp nơi.

Phật là bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng. Nên Ngài tuyên bố "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" Ngài là chu biến pháp giới (biến khắp mười phương).

Hậu học có biết hay chăng ?:

Ngài Chân Nguyên nói hậu học (tức chỉ vào chúng ta đây) có biết hay không? Là một lời nhắc nhở để chúng ta cảnh tĩnh, dứt bỏ mê tình tự tìm thấy lại hoa sen trong chính mình để đến bờ giác.

Tâm hoa ứng miệng, nói năng mọi lời:

ý nghĩ của chúng ta (tâm hoa) ứng ra nơi miệng mình để nói. Nói cho đúng với cái tâm hoa tức cái hoa sen trong tâm mình ứng ra mà nói. Khi ứng thì ứng ra hoa thơm chứ đừng ứng ra hoa thối, nói ra ai cũng ghét, không ưa nghe. Tâm hoa thì lời phải thơm, nhẹ nhàng phảng phất hơi thơm y như hoa sen. Giáo pháp của Phật cũng có cái đặc sắc, vi diệu như tâm hoa - Hoa sen trong tâm. Phật tánhtâm hoa, tâm hoatri kiến Phật, đó chính là diệu pháp. Diệu pháp ở trong bùn mà không dính mùi bùn nên gọi là diệu pháp, tức là pháp mầu. Ai được cái pháp mầu xuất hiện thì an lành, nên gọi là diệu pháp.

Tất cả giáo lý Phật từ đầu đến cuối đều lấy hoa sen làm biểu tượng, cho nên đạo Phật cũng gọi là đạo Hoa sen:

- Khi đức Phật giáng sanh cũng bước đi trên hoa sen.

- Khi đức Phật sắp thuyết pháp cũng nhìn thấy hoa sen.

-Khi đức Phật truyền pháp cho Ngài Ma-ha Ca Diếp ở trên hội Linh Sơn cũng bằng cái hoa sen.

Trong lịch sử Phật có nói tâm truyền tâm. Khi Ngài truyền chánh pháp nhãn tạng cho Tôn giả Ma-ha Ca Diếphội Linh Sơn, hôm đó, đức Thích Ca không thuyết gì hết. Chúng hội tập họp rồi, Ngài nhìn Hội chúng một lượt rồi từ từ cầm một cái hoa sen đưa lên trước mặt mọi người. Cả chúng hội khi đó đều im lặng không ai hiểu gì cả, duy chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp chúm chím cười. (niêm hoa vi tiếu). Phật biết Ca Diếp đã ngộ được cái hoa sen mà Phật đưa lên. Đó chính là tâm ấn (lấy tâm ấn tâm). Tôn giả Ma-Ha Ca Diếp mặc dầu không nghe Phật nói gì hết nhưng mà được cái tâm của Phật cho, nên mỉm cười. Đức Phật cũng thấy cái chỗ Ca Diếp đã ngộ được cho nên mới nói rằng: "Ngô hữu Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn Diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, kim phó nhữ Ma-ha Ca Diếp". (Ta có kho tàng mắt Tạng, con mắt Chánh pháp là Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng. Nay phó chúc cho Ma-ha Ca Diếp).

Từ đó Ma-ha Ca Diếp lãnh cái giáo chỉ của Phật để sau này khi đức phật vừa nhập Niết-bàn thì ngài có kết tập Kinh điển lần đầu tiên để truyền bá cho đến ngày nay.

Kinh Hoa Nghiêm nói về Hoa Tạng thế giới như sau: "Có những biển hương thủy nhiều như bụi trần của mười bất khả thuyết cõi Phật. Từ biển ấy nổi lên hoa sen lớn tên Nhất thiết ma ni vương trang nghiêm,... Đây là thế giới hoa sen".

Những ai đã từng đọc truyện Tây Du Ký thì chắc biết rằng: Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh ở Tây Trúc. Trải qua bao nhiêu sự khó khăn, gian nan nguy hiểm, mà sau này người ta tiểu thuyết hóa thành động ma, động quỉ trên bước đường đi cầu pháp của Ngài.

Khi triều nhà Đường bên Tàu mới thống nhất đất nước, cấm ngặt sự ra vào Trung Hoa. Ngài Huyền Trang cùng với vài vị Hoà thượng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn Độ du học.

Đợi mãi không được phép, các vị Hòa thượng cùng dâng biểu với ngài ngả lòng bỏ đi. Ngài kiên nhẫn đêm ngày cầu nguyện các vị Bồ-tát gia hộ.

Một đêm năm 629, Ngài nằm mộng thấy một ngọn Linh Sơn ở giữa biển, bèn nhảy xuống nước để lội qua, thì vừa lúc đó, một bông sen xuất hiện, đưa tới chân núi. Thích quá, tỉnh dậy.

Từ đó Ngài càng quyết tin rằng thế nào cũng thành công, và chính nhờ đó mà Ngài đã thắng mọi gian nan sau này.

Mười sáu năm đi thỉnh kinh, mười chín năm âm thầm chuyên dịch kinh, khi tuổi sắp mãn Ngài gát bút, dặn dò đệ tử: "Đời thầy sắp hết, thầy nằm xuống thì đừng bầy vẽ gì cả ! Quấn thầy trong một chiếc chiếu rồi chôn trong một thung lũng, chỗ nào vắng vẻ, tịch mịch !" Trước khi tịch, Ngài như bừng tỉnh, nói: Ta thấy một bông sen ở trước mắt, tươi đẹp lạ lùng !

Ba mươi lăm năm trước Ngài thấy một hoa sen, đưa Ngài qua biển cả đến ngọn núi Phật, bông sen lần này lại đưa Ngài đến cõi Phật. Đó cũng là hoa sen".

Ngày nay chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh cũng là hoa sen (chín phẩm sen vàng). Thành thử hoa sen bên trong nó ứng với bên ngoài. Bên ngoài phù hợp với bên trong. Nếu tâm của chúng ta thanh tịnh đến chừng nào thì hoa sen của chúng ta khi cầu nguyện vãng sanh cũng lớn chừng đó (Thượng phẩm thượng sanh.) Ngược lại, nếu hoa sen của chúng ta nhỏ bé chỉ lu lú dưới nước thì dù có ngồi lên hoa sen để vãng sanh Tịnh độ cũng chỉ ngồi được hoa sen hạ phẩm mà thôi, chứ không làm sao lên được hoa sen trung phẩmthượng phẩm. Thế cho biết hoa sen trong tâm như thế nào thì ứng hiện ra hoa sen bên ngoài như thế đó. Đời này nó hiện ra như thế nào, thì ngày mai ở cõi Tịnh Độ cũng hiện như thế ấy.

Vậy tụng trì, sao chép, diễn nói... Pháp Hoa cũng chỉ để làm sao cho cái hoa sen ở trong chính tự tâm chúng ta ngày càng mọc lên tươi tốt, thoát khỏi bùn, xuất hiện phô bày, tỏa hương ngát thơm cho đời. Như nàng Tiểu Thánh từng nguyện trước Phật đài:

"Khể thủ từ bi đạo sĩ tiền,

Mạc sanh Tây thổ mạc sanh thiên,

Nguyện vi nhất trích dương chỉ thủy,

Sái tác nhân gian tịnh đế liên."

Nghĩa là:

"Trước đấng từ bi nguyện mấy lời,

Chẳng sanh đất Phật chẳng lên trời,

Xin làm giọt nước cành dương nhỏ.

Sái rực đài sen sạch bụi đời."
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11247)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9851)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11997)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15179)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11999)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12465)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13043)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14692)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12558)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19473)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13018)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11517)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12660)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12519)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15548)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10586)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant