Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Nhất thừa đạo

25 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9965)
7. Nhất thừa đạo

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

NHẤT THỪA ĐẠO

Có một câu trong phẩm Phương tiện của kinh Pháp Hoa mà người học Phật thường để ý, đó là câu:

"Chư Phật lưỡng túc tôn,

Tri pháp thường vô tánh,

Phật chúng tùng duyên khởi,

Thị cô thuyết nhất thừa.

Thị pháp trụ pháp vị,

Thế gian tướng thường trụ,

Ư đạo tràng tri dĩ,

Đạo sư phương tiện thuyết." 2

Bây giờ lần lượt chúng ta tìm hiểu câu này có ý nghĩa gì?

Chư Phật: Chỉ tất cả Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Các đức Phật đều có danh hiệu Lưỡng túc tôn. Bằng đôi chân, chúng ta đi chỗ này chỗ kia, thì đức Phật cũng có hai chân phước đứctrí tuệ dạo khắp tam giới để cứu độ chúng sanh. Phước đứctrí tuệ hay đại biđại trí, hai đức tính tôn quí đó Phật đã thành tựu, nên Ngài được tôn xưng là đấng Lưỡng túc tôn. Vì có đại bi đại trí nên Phật biết rõ tánh các pháp. Tánh đó là tánh bình đẳng, bất sinh bất diệt hay còn gọi là vô tánh mà chỉ có trí Bát-nhã mới có thể ngộ nhập. Chư Phật rõ được tánh ấy, nên nói: "Tri pháp thường vô tánh". Câu này được giải thích khác nhau tùy theo tinh thần của mỗi tông phái. Tánh Tông giải thích: Các pháp là chơn không, vô tự tánh, vì các pháp nhờ nhiều nhân duyên, nhờ đối đãi mà thành. Lìa các duyên, lìa sự đối đãi thì không có các pháp. Như vậy, các pháp có mà như không, vì cái có đó không có tự tánh, tức không có tánh độc lập với cái khác. Với tâm lý phàm phu, chúng ta thấy có pháp này pháp kia sai khác, cái thấy đó không đúng với thực tướng các pháp. Đức Phật thì thấy các pháp trùng trùng duyên khởi, tương quan lẫn nhau vô cùng tận mà hình thành. Như vậy, một pháp hiện hữu giữa tất cả các pháp, tất cả các pháp hiện hữu từ một pháp. Ngoài một pháp không có tất cả pháp, ngoài tất cả pháp không có một pháp. Nếu thấy các pháp riêng biệt là không hiểu rõduyên khởi ấy. Đức Phật biết rõ các pháp đều vô tự tánh. Pháp sinh cũng vô tự tánh, pháp diệt cũng vô tự tánh, pháp có, pháp không, đều vô tự tánh. Chẳng hạn, khi ta thấy pháp hiện hữu trước mắt, thì pháp đó cũng vô tự tánh, mà khi nó không hiện hữu, cũng là vô tự tánh. Các pháp có khi thành, khi hoại, khi có, khi không, gọi là sanh tử thành hoại, nhưng cái vô tự tánh của các pháp thì không có sanh tử thành hoại, nên Bát-nhã tâm kinh có câu: "Thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm". Câu này có thể giải thích ý nghĩa câu "Tri pháp thường vô tánh" của kinh Pháp Hoa.

Nhưng theo tinh thần Tướng tông, ngài Khuy Cơ giải thích như sau: Các pháp chia ra pháp thường tánh và pháp vô tánh. Pháp thường tánh là viên thành thật, pháp vô tánhbiến kế chấpy tha khởi. Các pháp do duyên mà hiện hữu, nên gọi là y tha khởi. Chúng sanh chấp các pháp y tha này là có thực, đó là biến kế chấp, nghĩa là một sự hiểu biết theo vọng tình. Các nhà Duy thức thường lấy ví dụ đêm thấy sợi dây thành con rắn. Con rắn đó trên vọng tình thì có mà trên sự thực khách quan thì không. Trong luận có một bài kệ để diễn tả ba tự tánh nói trên của các pháp:

"Bạch nhất kiến thằng, thằng thị ma,

Dạ lý kiến thằng, thằng thị xà.

Ma thượng sanh thằng, do trí loạn,

Khởi kham thằng thượng cánh sanh xà?"

Tạm dịch:

"Ban ngày thấy dây, dây là gai,

Trong đêm thấy dây, dây là rắn.

Gai thấy thành dây, trí đã loạn,

Dây còn hóa rắn nữa sao đang?"

Tất cả các pháp đều do duyên sinh gọi là y tha khởi, vì y tha khởi nên như huyễn, không có thực. Thấy dây là gai (thằng thị ma) tức thấy rõ thực tướng của dây, thì gọi là viên thành thật. Thấy gai là dây (ma thượng sanh thằng) là y tha khởi tánh. Thấy dây thành rắn (thằng thượng cánh sanh xà) là biến kế chấp. Các pháp y tha và biến kế chấp đều là pháp hư vọng, vô tánh, chỉ có viên thành thật là pháp thường tánh.

Pháp nhất thừa cũng là chân như, thật tế pháp trụ, pháp vị. Chữ "pháp trụ, pháp vị" ở trong câu kệ trên đồng nghĩa với chân như, pháp tánh, thật tế, thật tướng, nghĩa là đều chỉ tánh bình đẳng nhất như, tánh thường hằng trong tất cả pháp. Chân như cũng là thật tướng thường trú của thế gian. Ngộ được lý chân như này thì thấy rõ tất cả các pháp thế gian đều ở trong chân như, đều thường trú bất biến kiến "thế gian tướng thường trú". Tướng đây là thực tướng, không phải tướng hư vọng bên ngoài, (giả tướng thì có sinh trú diệt, mà thực tướng thì luôn luôn là chân như thường trú).

Đức Phật ở Bồ-đề đạo tràng chứng ngộ được pháp tánh ấy và ngộ được Bồ-đề chủng tử của chúng sinh phải cần có duyên mới phát khởi được, cho nên Ngài dùng các phương tiện để làm phát khởi Bồ-đề chủng tử, nên mới nói pháp nhất thừa. Bồ-đề chủng tử là hột giống lớn, hột giống làm Phật, thì phải có pháp lớn là pháp nhất thừa mới đủ sức làm duyên cho nó phát khởi (Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa... ư đạo tràng tri dĩ, Đạo sư phương tiện thuyết).

Pháp Phật chứng bất khả tư nghị, chỉ có Phật với Phật hiểu nhau, còn chúng sanh không thể ngộ nhập trực tiếp, (Trường Bộ Kinh nói: Pháp này do Ta chứng được thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp. Thật là khó thấy được tịnh lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được từ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt Niết-bàn), nên Phật phải dùng phương tiện, tuỳ căn cơ trình độ chúng sanh để nói. Nghĩa là khi nói pháp không phải Ngài luôn luôn đem lý nhất thừa ra dạy. Chẳng hạn đối với phàm phu, ngoại đạo, căn cơ thấp thì Ngài chỉ dạy bố thí, trì giới. Với hàng Thanh Văn trình độ khá hơn, Ngài dạy Tứ diệu đế để thấy khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổcon đường diệt khổ. Cao hơn nữa, đối với hàng Duyên giác quán được lý nhơn duyên sinh, Ngài mới dạy 12 Nhơn duyên để đưa họ đến giác ngộ. Tất cả những pháp đó đều là phương tiện Phật dùng để dìu dắt chúng sinh cho đến khi phát khởi được Bồ-đề chủng tử (Bồ-đề tâm) mới nói nhất thừa. Vì chỗ chứng của Phật thâm diệu, căn cơ của chúng sinh không thể một lần mà ngộ được, Phật phải dùng phương tiện giáo hóa dần dần. Phẩm Phương tiện trong kinh Pháp Hoa do đó giữ vai trò rất quan trọng. Thí dụ về phương tiện được Phật dùng để giáo hóa: Một bà mẹ sầu khổ vì con chết, bà không nỡ đem chôn, cứ ôm con khóc lóc mà đi đến Phật, Ngài bảo bà hãy đi xin lửa ở nhà nào không hề có người chết, đem về để Ngài cứu đứa con. Bà vâng lời ra đi, đến nhà nào cũng sẵn sàng cho lửa, nhưng khi hỏi đến người chết thì không nhà nào khỏi có người chết. Nhà thì chết cha, chết mẹ, anh em, chị em, con cháu. Cứ mỗi câu trả lời như là một tia lửa chiếu sáng tâm tư. Cuối cùngdần dần tỉnh ngộ trước sự thật, nên nỗi đau khổ cũng nguôi dần. Bà trở về đức Phật trong tâm trạng bình tĩnh hơn. Bà bạch lại với đức Phật rằng: "Việc Ngài dạy con đã làm xong". Đức Phật nhân đấy thuyết pháp cho bà, bà hoan hỶ kính thọ, đem xác con đi chôn, cầu nguyện cho nó mà không còn quá đau khổ như trước. Đó là phương tiện mà nếu đức Phật không dùng thì không thể dẫn bà mẹ đau khổ ấy ra khỏi phiền não, đạt đến trí tuệ. Đối với căn cơ của một người đang ngập chìm trong đau khổ như bà này thì cần phải nhờ bài học thực tế trực tiếp như Đức Phật dạy mới thức tỉnh nổi, chứ nếu chỉ giảng lý thì thật khó làm cho bà lay chuyển. Không có quyền trí (hay phương tiện trí) thì căn bản trí không thể hiển bày được.

Người ta thường xem đức Phật như một đấng thiêng liêng, một vị thần. Ngài đã đánh tan hiểu lầm đó một cách dứt khoát trong câu trả lời Bà-la-môn Dona. Bà-la-môn này, một hôm, trông thấy dấu chân Ngài và chú ý đến những đặc điểm khác thường nơi dấu chân ấy, ông ta lần tìm đến chỗ đức Phật và hỏi:

- Ngài có phải là một vị trời chăng? Phật đáp: Không, Bà-la-môn lại hỏi: Vậy Ngài là Càn-thát-bà chăng ? (Là một loài nhạc thần). Ngài đáp: Không. - Ngài là quỉ Dạ xoa chăng ? Ngài đáp: Không phải. Vậy có phải Ngài là người chăng ? Ngài đáp: Ta không phải là người. Quá ngạc nhiên, Bà-la-môn hỏi tiếp: Vậy Ngài là ai? Khi ấy đức Phật trả lời như sau: Nầy Bà-la-môn, Ta không phải là trời, nhưng đối với loài trời chưa giác ngộ, còn mê hoặc thì Ta là một vị trời đã giác ngộ, hết mê hoặc. Ta không phải là Càn-thát-bà, là Dạ-xoa, là người.., nhưng đối với loài Càn-thát-bà, loài Dạ-xoa, loài người... chưa giác ngộ, còn mê hoặc, thì Ta là loài Càn-thát-bà... đã giác ngộ, hết mê hoặc. Ví như hoa sen sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, nhưng không bị nước thấm ướt. Ta sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta chinh phục đời, không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy Ta là Phật.

Bà-la-môn Dona sụp lạy và xin quy y Phật.

Qua chuyện ấy, chúng ta thấy đức Phật ở trong tất cả Trời, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, người... nhưng vượt lên tất cả Trời, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, người... Ngài không có xa vời đối với chúng ta, nhưng rất khác chúng ta, vì Phật là một người đã hết mê hoặc, đã giải thoátviên mãn lòng từ bi cứu độ chúng sanh, chỉ có thế. Nhưng chính đó là điều cao quí nhất, siêu việt nhất mà tất cả chúng ta hết lòng tôn thờ để tu theo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14642)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11695)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12642)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10184)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15158)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10951)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10395)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12350)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16282)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14139)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11648)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14648)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11909)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16689)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11479)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12627)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11233)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11933)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51770)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15329)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13863)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12666)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13108)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54046)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14283)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57633)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14357)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13622)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17365)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13220)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11827)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13380)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14558)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12368)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12049)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11963)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13538)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13232)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25381)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12101)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14420)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11746)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41948)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28177)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38582)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14618)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12593)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16117)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant