CHƯƠNG
III
: VAI TRÒ CÁC NHÂN VẬT TRONG KINH
- NHỮNG CÁCH THUYẾT PHÁP
Bây
giờ chúng ta sẽ nghiên cứu so sánh 98 kinh, đề cập vai trò
của các nhân vật khác nhau trong những kinh này cũng như những
cách thuyết pháp. Ở đây chúng ta chỉ giới hạn việc nghiên
cứu vào thái độ, oai nghi cử chỉ của những nhân vật trong
kinh, còn giáo lý trong đó sẽ được đề cập rộng rãi trong
những chương kế tiếp.
Các
kinh có thể phân loại thành tám cách thuyết:
1-
Phật thuyết pháp không có lý do nào rõ rệt;
2-
Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến của đệ
tử hay người khác;
3-
Phật thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử
của Ngài khai diễn;
4-
Phật thuyết pháp để đối đáp với những tông phái phi
Phật giáo;
5-
Phật thuyết pháp cho những Tỳ-kheo đệ tử;
6-
Phật thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ của Ngài hoặc cho
những người khác;
7-
Những đệ tử của Phật tụ họp để bàn luận Phật pháp;
8-
Một trong những đệ tử của Phật giảng toàn thể kinh.
1. Đức
Phật thuyết pháp không có lý do rõ rệt:
Đôi
khi đức Phật gọi các Tỳ-kheo đến rồi giảng pháp không
có lý do rõ rệt cũng không do một cơ hội đặc biệt nào.
Ở đây những người nghe phần lớn là Tỳ-kheo, tên của
họ không được kể ra. Trong số 98 kinh NC, có 22 kinh được
xếp vào loại này: NC 1, 2, 8, 9, 13, 14, 16, 17, 21, 28, 29, 32,
33, 34, 70, 71, 73, 75, 84, 85, 91, 93.
2. Đức
Phật thuyết pháp để điều chỉnh một tà kiến nơi những
đệ tử hoặc người khác:
Đôi
khi một vài đệ tử Phật có tà kiến. Những Tỳ-kheo bạn
cố sửa đổi nhưng không thành công, bởi vậy vấn đề được
đưa đến trước đức Phật và Ngài triệu tập những người
có lỗi để quở trách và nêu lên những lỗi lầm của họ.
NC số 19, 27, 35, 47 thuộc về loại này.
Trong
NC 27, C201, kinh Trà đế, nói đức Phật hỏi các Tỳ-kheo
trước, rồi quở trách Tỳ-kheo Trà Đế (Ch'a-ti), và
vị này hối hận. Trong P38, Ái tận đại kinh, Tỳ-kheo
Sàti hối hận trước, rồi các Tỳ-kheo khác đáp câu hỏi
của Phật. Bản C thêm: "Đức Phật thuyết kinh này xong, ba
vạn thế giới chấn động ba lần."
Trong
NC 35, một vị Phạm thiên trên cõi trời có tà kiến rằng
cõi Phạm thiên là trường cửu. P49 thêm tên của vị Phạm
thiên ấy là Baka. Trong C78, Phạm thiên thỉnh Phật,
Phật biến mất khỏi Xá Vệ, Shêng-lin, Kei-ku-tu để
đi đến cõi Phạm thiên. Trong P49, đức Thế tôn biến mất
từ rừng Subhaga tại Ukkatthïà và hiện ra trong
cõi Phạm thiên. Bản C nói khi đức Phật nhận ra Ác ma (Màra),
thì Ác ma bị thua và biến mất tại chỗ, nhưng bản P ghi
rằng Phật nêu lên cho Ác ma thấy rằng có thể Phạm thiên
(Brahmà) và quyến thuộc của ông ta ở trong tầm tay
của Ác ma, nhưng Phật thì không. Sự đấu phép thần thông
của Phật và Ác ma cũng không giống nhau. Trong bản C, Phạm
thiên dùng tất cả năng lực thần thông để cố ẩn nấp
chỗ này chỗ kia nhưng đức Thế tôn đều thấy được ông
ta, bởi thế ông không thể trốn mà phải trở lại trong Phạm
thiên giới. Trong bản P, Phạm thiên Baka không thể biến
mất trước mặt đức Phật. Trong bản C, Phật phóng hào quang
chiếu khắp các Phạm thiên giới, và ẩn trong đó, làm cho
Phạm thiên và quyến thuộc chỉ có thể nghe Ngài nói mà không
thể trông thấy Ngài. Trong bản P, khi đức Phật biến mất,
Ngài làm cho Phạm thiên, tùy tùng (Brahmaparisà) và quyến
thuộc (Brahmapàrisajja) không trông thấy Ngài mà chỉ
nghe Ngài nói bài kệ:
"Bị
vướng vào hữu, ta đi tìm phi hữu.
Vì
đã
thấy nguy hiểm của hữu,
Ta
không
thích thú đối với hữu,
Và
không
dục hỷ trong đó."
Phạm
thiên, tùy tùng và quyến thuộc của Phạm thiên sửng sốt
kinh ngạc.
3. Phật
thuyết pháp vắn tắt rồi một trong những đệ tử của Ngài
khai diễn:
Tôn
giả Xá-lợi-tử khai diễn lời Phật trong NC số 3, 95; Tôn
giả Ca-chiên-diên (C:Chia-chan-yen; P: Mahàkaccàna)
trong NC 15, 87, 92.
a)
Tôn giả Xá-lợi-tử khai diễn:
Trong
NC 3, C88, Cầu Pháp kinh, nói có nhiều đại đệ tử
cư trú gần am tranh của Phật, như Tôn giả Xá-lợi-tử, Mục-kiền-liên,
Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà (A-na-lu-t'o),
Lệ Việt (Li-yueh), A Nan, nhưng P3, Thừa tự Pháp,
bỏ mục này. Trong bản C, đức Thế tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-tử
hãy giảng rộng lời Ngài dạy vì đức Phật đau lưng cần
nghỉ ngơi chút đỉnh. Đoạn Ngài gấp tư y Uất đa la tăng
(C: Yu-to-lo-sêng; P: Uttarà-sanga) mà trải lên giường,
cuộn tròn y Tăng già lê (C: Sêng-chia-li; P: Sanghàti)
làm thành một cái gối và nằm xuống hông bên phải, hai ống
chân xếp chồng lên nhau, thiền định về quang tướng với
chánh niệm tỉnh giác và luôn luôn nghỉ đến lúc thức dậy (69)
. Nhưng bản P chỉ nói rằng bậc Thiện thệ (Sugata)
từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Trong bản C, Thượng
tọa Xá-lợi-tử yêu cầu các Tỳ-kheo giải thích lời dạy
vắn tắt của Phật, và hai Tỳ-kheo cố trả lời nhưng không
thỏa đáng. Trong bản P, không có lời vắn tắt của Phật
và sự trả lời của các Tỳ-kheo, mặc dù Tôn giả Xá Lợi
Phất cũng đặt câu hỏi ấy. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-tử
giải thích xong, đức Thế tôn đã bớt đau lưng, cảm thấy
dễ chịu, bèn ngồi dậy khoanh chân kiết già và ca ngợi Tôn
giả Xá-lợi-tử. Những chi tiết này không có trong bản P.
Trong
NC số 95, bản C nói Tôn giả Xá-lợi-tử đọc một bài kệ
tóm tắt bài giảng của Ngài, còn bản P bỏ bài kệ nhưng
lập lại lời công bố của sự chuyển Pháp luân tại Ba La
Nại, Chư thiên đọa xứ, vườn Nai, lúc mở đầu kinh.
b)
Tôn giả Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) khai diễn:
Trong
NC 15, đức Phật gặp một người gậy cầm tay tên Sakya
muốn
hỏi mục đích của giáo lý Ngài. Sự trả lời của đức
Phật không làm ông ta thỏa mãn, ông ta không chấp thuận cũng
không bác bỏ, đã cất cao đầu và bỏ đi. Trong bản P, bỏ
câu "không chấp thuận không bác bỏ", nhưng thêm rằng "ông
ta thụt lưỡi, nhíu mày tạo nên ba đường nhăn và tựa mình
trên cây gậy". Trong bản C, chính đức Phật đưa ra ví dụ
viên mật trong khi bản C lại nói là Tôn giả A Nan. Bản P
bỏ chỗ nói Tôn giả A Nan đứng sau lưng đức Phật tay cầm
phất trần. Bản P cũng bỏ lời đức Phật khích lệ các
Tỳ-kheo ở cuối kinh.
Trong
NC 87, Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi) đi đến suối
nóng để tắm, khi tắm xong, ông ta gặp một vị tiên có dung
sắc hoan hỷ đến đảnh lễ ngài và hỏi ngài có biết bài
kệ Nhất dạ hiền giả (C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta).
Vị Tỳ-kheo nói không biết, vị tiên bảo rằng đức Thế
tôn có biết bài kệ rồi khuyên Tỳ-kheo nên đi đến xin Thế
Tôn giải thích. Rồi vị tiên đảnh lễ vị Tỳ-kheo, đi quanh
ông ba vòng rồi biến mất. Bản Pali thêm rằng vị tiên chiếu
sáng cả Tapodà với hào quang rực rở của mình nhưng
bỏ qua chyện hỏi vị tỷ kheo về câu kệ và lời khuyên
của vị tiên đi đến Thế Tôn. Bàn Pali chỉ đề cập rằng
vị tiên khuyên vị tỷ-kheo nên học, tinh thông và ghi nhớ
câu kệ đó ở trong lòng. Rồi vị tiên biến mất mà không
có đảnh lễ và đi quanh vị tỷ-kheo ba vòng. Bản C nói tên
của vị trời này là Chêng-tien, một vị binh tướng
trong cõi trời 33, nhưng bản P bỏ chi tiết ấy.
4.
Đức Phật thuyết pháp để đối phó các tông phái ngoại
đạo :
Trong
NC 39 và NC 65, đức Phật bác bỏ quan điểm của Ni Kiền Tử
(Jainas); trong NC 6 và NC 61, 62, 64, Ngài bác bỏ lý thuyết
và thực hành của những người bà la môn; và trong NC 10, 48,
50, 51, 52, Ngài đối phó với những du sĩ (paribbàjakas).
a)
Đối phó với Ni Kiền Tử :
Trong
NC 39, Ch'ang-k'u-hsing (Dìghatapassi), Ni Kiền Tử bện
tóc có một cuộc đàm luận với Phật, trong đó ông ta trình
bày lý thuyết của Ni Kiền Tử (Ch'in-tzu) về hình phạt
và vai trò chính yếu của thân phạt trong bất cứ hành vi
tội lỗi nào. Nhưng đức Phật trình bày lý thuyết của Ngài
về nghiệp và vai trò chính yếu của ý nghiệp trong bất cứ
tà hạnh nào. Ni Kiền Tử bện tóc thuật lại cuộc đàm thoại
ấy cho thầy của mình (Ch'in-tzu) trước mặt Ưu Ba Ly
(Yu-p'o-li). Trong khi ở bản P, Ưu Ba Ly (Upàli) lặp
lại lời ca tụng của Ni Kiền Tử (Nàtaputta) tán dương
Bện tóc (Dìgha-tapassi) và tỏ ý sẵn sàng đến đối
chất với đức Phật, bản C thêm rằng Ưu ba ly cùng đi với
500 cư sĩ trong hội chúng. Ông ta chắp tay hướng về Ni Kiền
Tử và hỏi Bện tóc có phải ông ta đã thực sự hạ Sa-môn
Cồ Đàm (Ch'u-t'an) ba lần trong vấn đề này. Khi Bện
tóc trả lời phải, Ưu Ba Ly nói : vậy thì ông ta cũng có
thể đánh bại Sa-môn Cồ Đàm trong vấn đề này và kéo ông
ta xuống. Khi ấy Ưu Ba Ly đến thách thức đức Phật, trước
sự chấp thuận của vị thầy Ni Kiền Tử và trước sự
sợ hãi, bất đồng của Bện tóc. Đức Phật với bốn ví
dụ đã làm cho Ưu Ba Ly đổi ý và theo quan điểm của Ngài.
Trong ví dụ thứ tư, khi đức Phật hỏi ai đã khiến cho những
nơi thanh tịnh này trở thành thanh tịnh, theo bản C, Ưu Ba
Ly im lặng một lát, và khi đức Phật hỏi lại một lần
nữa, ông ta đã trả lời rằng, không phải ông muốn giữ
im lặng, mà chính ông đang nghĩ đến một điều. Ông nghĩ
rằng Ni Kiền Tử (Ni-chien) thật điên rồ, ngu si và
đã lừa bịp ông ta trong một thời gian dài. Trong bản P, Ưu
Ba Ly (Upàli) trả lời ngay rằng những khu rừng này Kandaka,
Kàlinga,
Mejjha và Màtanga trở thành rừng là do những ý
tưởng sân hận của những vị trông coi những khu rừng đó.
Ở cuối bài kinh, bản C thêm rằng Ưu Ba Ly đạt đến Pháp
nhãn ly trần vô cấu, còn Ni Kiền Tử hộc máu tươi, phải
đi đến Po-ho (Pàvà) và bệnh chết ở đấy. Bản
P bỏ chi tiết về cái chết của Ni Kiền Tử và chỉ nói
ông ta hộc ra máu tươi.
b)
Đối phó với cách tu và quan điểm của các bà la môn :
Trong
NC 6, đức Phật bác bỏ tập tục tắm nước thiêng của những
người bà la môn, được xem là để rửa sạch tội lỗi.
Kinh C93, Thủy tịnh Phạm chí, nhắc đến bà la môn Thủy
Tịnh (Shui-ching) ngay ở đầu kinh, trong khi P7, Ví dụ
tấm vải, chỉ nói đến sự hiện diện của bà la môn
Sundarika-bhàradvàja
vào cuối bản kinh. Trong bản C, vị bà la môn ấy xin quy
y Tam bảo và xin Phật nhận ông làm đệ tử. Nhưng trong bản
P, Sundarika Bhàradvàja xin đức Phật cho ông được xuất
gia và thọ đại giới. Khi lời yêu cầu của ông được chấp
thuận, ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đã đắc
quả A-la-hán.
Trong
NC 61, kinh C151, Phạm chí A nhiếp hòa, nói rằng một
số đông bà la môn tại Chu-sa-lo (Kosala) tụ tập
trong giảng đường và đang bàn bạc lời công bố của Sa-môn
Cồ Đàm (Ch'u-t'an) về sự thanh tịnh của bốn giai cấp,
trong khi họ tuyên bố rằng chỉ có giai cấp bà la môn là
cao nhất và thanh tịnh nhất. Họ chọn thanh niên bà la môn
tên A Nhiếp Hòa (A-shê-ho-lo-yen-to) đến chất vấn đức
Phật. Nhưng kinh P93, Assalàyana, nói rằng 500 bà la môn
thuộc nhiều vùng khác nhau đến Xá Vệ vì một vài công việc,
và họ chỉ nhắc đến lời công bố của Sa-môn Cồ Đàm
về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Có thêm rằng thanh niên
Assalàyana
mới 16 tuổi, đầu tóc cạo. Trong bản C, thanh niên A Nhiếp
Hòa nhận lời bằng cách im lặng, trong khi ở bản P, Assalàyana
nói rằng quả thật Sa-môn Gotama
nói phù hợp với
pháp (dhamma), và thật khó mà tranh luận với người
nào nói đúng pháp, và anh ta cũng không thể tranh luận với
Sa-môn Gotama. Tuy thế anh ta cũng sẽ ra đi như được
yêu cầu. Sau khi nghe những luận cứ của đức Phật, theo
bản C, thanh niên A Nhiếp Hòa muốn đảnh lễ Phật nhưng hội
chúng la lớn tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục. Đức Phật biết
tâm họ nên bảo thanh niên hãy trở về chỗ ngồi, dạy rằng
chỉ cần tâm anh ta vui mừng là đủ. Rồi đức Phật giảng
pháp làm cho anh ta hoan hỷ, thích thú, phấn chấn. Bản P chỉ
nói rằng Assalàyana thốt lên rằng thật là kỳ diệu,
thật là hy hữu, rồi xin đức Phật nhận mình làm đệ tử
từ nay cho đến trọn đời.
Trong
NC 64, kinh P 99, Subha, có thêm một cuộc gặp gỡ giữa
Subha
và bà la môn Jànussonì, bà la môn hỏi Subha
từ
đâu đến và hỏi về trí tuệ của Sa-môn Gotama. Sự trả
lời và những lời ca tụng của Subha đã khiến bà la
môn xuống khỏi chiếc xe bạch mã, trật vai áo, chắp tay hướng
về đức Thế tôn và bảo rằng thật là lợi ích lớn, thật
là tốt cho vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) xứ Kosala
vì
có Như lai (Tathàgata) sống trong vương quốc của nhà
vua. Bản C bỏ cuộc gặp gỡ này.
c)
Đối phó với các ngoại đạo khác :
Trong
NC 10, theo kinh C 99, Khổ ấm, các Tỳ-kheo sau khi ngọ
trai xong đã tụ họp tại giảng đường vì một vài công
việc. Tại đây có một số lớn tín đồ ngoại đạo đến
chất vấn họ. Trong kinh P13, Đại khổ uẩn, thì các
Tỳ-kheo khi vào thành Xá Vệ (Sàvatthi) khất thực, thấy
hãy còn sớm nên đến trú xứ của các du sĩ (paribbàjakas),
và cuộc đàm luận đã xảy ra.
Trong
NC48, Hsu-hsien-t'i (du sĩ Màgandiya) trông thấy đệm
cỏ của Phật ngồi trong nhà bà la môn P'o-lo-p'o (Bhàradvàjagotta)
thì rất khó chịu và lên án đức Phật là một người phá
hoại (Huai-pai-ti: )(70) .
Bà la môn Bà La Bà (P'o-lo-p'o) cảnh cáo du sĩ Hsu-hsien-t'o
đừng có nói xấu đức Phật, nhưng du sĩ nói rằng ông cũng
sẽ nói như vậy ngay trước mặt Sa-môn Cồ Đàm. Trong kinh
C 153, Man nhàn đề, đức Phật lúc ấy đang ngồi thiền
trong một ngôi rừng xa; với thiên nhĩ, Ngài nghe được lời
ấy nên đi đến nhà Bà la môn Bà-la-bà kia trải tọa cụ
ngồi kiết già. Khi bà la môn ra chào, đức Phật hỏi có phải
thật ông ta có đàm thoại với du sĩ về đệm cỏ của Ngài
không. Bà la môn nói ông muốn báo cho Phật biết nhưng Phật
đã biết trước rồi. Ngay lúc ấy du sĩ đến, và cuộc đàm
luận xảy ra. Bản P bỏ tất cả chi tiết Phật mang theo tọa
cụ và trải ngồi, đẹp đẽ và rực rỡ như trăng sao; nhưng
thêm rằng du sĩ Bhàradvàjagotta bị dao động lông tóc
dựng ngược khi nghe nói đức Phật đã biết được tư tưởng
của mình. Trong bản C, sau khi đức Phật giảng pháp, du sĩ
đạt được Pháp nhãn ly trần vô cấu. Rồi ông ta xin Phật
cho phép xuất gia học đạo và thọ giới Tỳ-kheo. Rồi đức
Phật truyền giới cho ông ta, nói rằng: "Lành thay, Tỷ kheo,
hãy sống đời sống phạm hạnh." Sau khi xuất gia làm tỷ-kheo,
Hsu-hsien-t'i
đắc quả A-la-hán. Bản P bỏ chi tiết du sĩ Màgandiya
được Pháp nhãn; nhưng thêm sự tán thán của Màgandiya
như thường lệ và xin quy y Tam bảo của ông ta. Ở đây
cũng vậy, Màgandiya xin đức Phật cho ông ta thọ giới
Tỳ-kheo. Phật bảo những người thuộc giáo phái khác cần
trải qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết rõ sự khác
nhau giữa những con người, và Ngài đã cho phép
Màgandiya
xuất gia làm Tỳ-kheo. Bản P cũng nói Màgandiya
đắc
quả A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn, và kết luận
rằng Trưởng lão Màgandiya trở thành một vị A-la-hán
nữa.
Trong
NC số 52, Bệ Ma Na Tu (C: Pei-mo-na-hsiu; P: Vekhanassa)
nói với đức Phật về dung sắc "vanna" tối thượng.
(Danh từ Pàli vanna, dịch là dung sắc, được sử dụng
ở đây với hai nghĩa, màu sắc và giai cấp xã hội, nhưng
danh từ dung sắc trong Hoa ngữ thì rõ ràng không có hai nghĩa
như thế). Nhưng đức Phật nêu lên sự trống rỗng của một
quan điểm như vậy. Bản C thêm một đoạn trong đó Bệ Ma
Na Tu tỏ thái độ hối hận im lặng hổ thẹn cúi đầu. Khi
Bệ Ma Na Tu ca tụng sự giải thích của Phật, Phật ngăn ông
lại, bảo rằng vì thuộc vào một quan điểm khác, ông ta
không thể hiểu được lời giảng dạy của Ngài, Bệ Ma Na
Tu phẫn nộ mạ lỵ đức Phật. Kinh Pali Vekhanassa cũng
tương tự nhưng bỏ chi tiết Phật ngăn lại. Rồi Phật dùng
ba ví dụ (bản P chỉ có một) làm sáng tỏ giáo lý của Ngài
và cuối cùng cảm hóa được Bệ Ma Na Tu. Ở đây bản C nói
Bệ Ma Na Tu đắc Pháp nhãn vô cấu và xin Phật xuất gia. Sau
khi xuất gia, ông nỗ lực tinh tiến và đắc quả A-la-hán.
Trong bản P, Vekhanassa tán thán sự giảng dạy của Phật
như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật nhận ông
làm đệ tử tại gia.
5.
Phật thuyết pháp cho đệ tử:
Có
28 NC rơi vào loại này:
-
Giảng cho một Tỳ-kheo, NC 5;
-
Cho một số Tỳ-kheo, NC 22,74;
-
Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula), NC 40;
-
Cho Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta),
NC 41,42;
-
Cho A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anurudha), Nan Đề
(C: Nan-t'i; P: Nandiya), Kim Tỳ La (C: Chin-p'i-lo;
P: Kimbila), NC 25,45,83;
-
Cho Ma-ha-nam
(Mahànàma), NC 11;
-
Cho Mou-li-p'o-ch'un-na (Moliyaphagguna), NC 18;
-
Cho Bạt-đà-hòa-lợi (C: Po-t'o-ho-li; P: Bhaddàli),
NC 43;
-
Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì), NC 44;
-
Cho A Nan, NC 53, 55, 67, 72, 76, 78, 98;
-
Cho A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chouna; P: Cunda), NC
66;
-
Cho A Nan và nhiều Tỳ-kheo, NC 77;
-
Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla),
NC 54;
-
Cho Fou-mi (Bhùmija), NC 81;
-
Cho Lu-i-ch'iang-ch'i
(Lomasakangiya), NC 88;
-
Cho San-mi-t'i
(Samiddhi), NC 90;
-
Cho Fu-chia-lo-so-li
(Pukkusàti), NC 94;
-
Cho Đại Chu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda), NC 7;
-
Cho chú tiểu
A-i-na-ho-t'i (Aciravata), NC 80.
a)
Cho một vị Tỳ-kheo:
Trong
NC 5, (P6, kinh Ước nguyện = C 105, kinh Nguyện) có
một Tỳ-kheo trong lúc ngồi nơi vắng vẻ, đã tư duy về lợi
ích lớn của Phật đối với mình, đã rời chỗ ngồi đứng
lên đi đến nơi Phật. Đức Thế tôn sau khi trông thấy Tỳ-kheo
này, đã nhân vì ông mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo. Bản
P bỏ hoàn cảnh đặc biệt này. Phật thuyết pháp không có
một dẫn nhập nào cả.
b)
Cho một số Tỳ-kheo:
Trong
NC 22 (P26, Thánh cầu = C204, La ma) , Phật đang ở Lộc
Mẫu giảng đường (Lu-tzu-mu). Vào buổi chiều, Ngài
rời khỏi tòa ngồi đứng lên, từ trên lầu đi xuống và
bảo Trưởng lão A Nan cùng đi tắm ở sông A-i-lo-p'o-t'i
(Aciravati).
Rồi Trưởng lão A-nan cầm chìa khóa đi đến các Tỳ-kheo
đang ở trong những chòi của họ và bảo họ đi đến nhà
bà la môn La Ma (C: Lo-mo; P: Rammaka). Khi ấy đức
Phật và Trưởng lão A Nan xuống sông tắm. Sau khi tắm xong,
Phật lên khỏi nước, lau khô thân thể và mặc y. Bản P khởi
đầu với đức Phật ở tại Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp
Cô Độc. Rồi đức Phật đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
Nhiều Tỳ-kheo đi đến Tôn giả A Nan, thưa rằng họ muốn
được trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, vì đã lâu họ không
có được cơ hội ấy. Tôn giả A Nan bảo họ đi đến nhà
bà la môn Rammaka. Khi Phật khất thực về và dùng bữa
xong, Ngài cùng Trưởng lão A Nan đi đến
Pubbàràma ở
vườn của Lộc Mẫu (Migaàramàtu) để nghỉ ban ngày.
Vào buổi chiều Phật ra khỏi độc cư thiền tịnh rồi cùng
với Trưởng lão A Nan đi đến Pubbakotthaka
để ngâm
chân tay. Sau khi tắm rửa, Phật ra khỏi nước, đứng trên
bờ với một tấm y (cìvara) độc nhất để phơi tay
chân. Rồi theo lời yêu cầu của Tôn giả A Nan, Phật đi đến
nhà Lo-mo (Rammaka) để thuyết pháp.
c)
Cho Tôn giả La Vân (C: Lo-yun; P: Ràhula) :
Trong
NC 40, C14, La vân kinh, khi đêm đã tàn, vào sáng sớm
Phật đi vào thành Vương Xá (Wang-shê) khất thực. Sau
khi ăn xong, Ngài đi đến rừng Suối nóng, nơi có Tôn giả
La Vân. Tôn giả La Vân trông thấy Phật từ xa đến, đi ra
đón Ngài, cầm lấy y bát, trải tọa cụ và lấy nước rửa
chân. Đức Phật rửa chân xong, ngồi trên chỗ ngồi của
La Vân đã soạn sẵn. Trong P61, Ambalatthikàràhulovàda,đức
Phật vào buổi chiều ra khỏi độc cư thiền tịnh, đi đến
Ambalatthikà,
nơi Tôn giả Ràhula ở. Tôn giả Ràhula, khi thấy
đức Phật từ xa đến, đã sửa soạn chỗ ngồi và nước
rửa chân nhưng không đi ra đón Ngài và đỡ lấy y bát. Đức
Phật ngồi trên chỗ đã soạn và rửa chân. Để quở trách
Tôn giả La Vân, đức Phật đã chỉ một ít nước còn trong
chậu, rồi đổ nó đi, lật úp cái chậu và lật ngửa trở
lại, và cứ mỗi lần như thế Ngài răn dạy Tôn giả. Bản
P thêm một thái độ thứ năm của đức Phật là chỉ ra sự
trống rỗng trong cái chậu lật ngửa và tuyên bố rằng cũng
trống rỗng như thế là hạnh Sa-môn của người cố ý nói
dối mà không biết hổ thẹn.
d)
Cho Tôn giả Man Đồng Tử (C: Man-tun-tzu; P: Màlunkyaputta) : NC
41, NC 42:
Trong
NC 42 (P64, Mahàmàlunkya, Đại kinh Màlunkya = C205,
Ngũ
hạ phần kết), đức Phật quở trách Man-đồng-tử về
sự hiểu sai của ông đối với năm kiết sử trói buộc con
người vào đọa xứ và Man-đồng-tử tỏ thái độ hối hận.
Khi ấy Tôn giả A Nan đang đứng sau đức Phật và quạt cho
Ngài, đã yêu cầu đức Phật giải thích năm kiết sử, và
đức Phật đã chấp thuận lời yêu cầu của Tôn giả A Nan.
Trong bản P, đức Phật không công khai quở trách Màlunkyaputta.
Cũng không có thái độ hối hận của Màlukyaputta, không
có chi tiết về Tôn giả A Nan đứng sau lưng Phật và quạt
cho Ngài.
e)
Cho Tôn giả A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha), Nan Đề
(C: Nan-t'i; P: Nandiya) và Kim Tỳ La (C:Chin-p'i-lo; P: Kimbila): NC
25, 45, 83:
Không
có nhiều khác biệt giữa hai bản trong NC 25 (P31, Tiểu kinh
rừng Sừng bò = C 185, Ngưu giác sa la lâm kinh) và NC 45
(P68, Nalakapàna = C77, Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh).
Trong
NC 83, theo bản C 72,Trường thọ vương bản khởi kinh,
muốn giảng hòa các Tỳ-kheo ở Câu Xá Di (C: Chu-shê-mi;
P: Kosambì), Phật đã kể câu chuyện dài về sự tha
thứ của vua Phạm chí (C:Fan-mo-ta-to; P: Brahmadatta)
cho vua Trường thọ (C: Ch'ang-shou; P: Dìghìti), nhưng
câu chuyện này không có ảnh hưởng gì các Tỳ-kheo ở Câu
Xá Di. Khi ấy đức Thế tôn đọc lên một bài kệ cho thấy
rõ sự vô vọng, ngu ngốc của gây gỗ và xúc phạm nhau. Kinh
P128 không giống. Kinh này cũng nói các Tỳ-kheo ở Kosambì
(Câu
Xá Di) tranh chấp nhau, đã thương nhau với binh khí miệng lưỡi,
nhưng thêm rằng một Tỳ-kheo đến tường thuật sự việc
với đức Thế tôn và Ngài đã đến khuyên bảo họ đừng
gây nhau. Ba lần đức Phật khuyên bảo, và cả ba lần đều
có một Tỳ-kheo yên cầu Ngài đừng can thiệp vì họ sẽ
chịu trách nhiệm về cuộc gây gổ này. Ở đây bản P bỏ
câu chuyện về vua Phạm chí. Theo bản C, đức Thế tôn, sau
khi đọc bài kệ đã vận thần thông bay lên không để đi
đến làng Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo). Tại đấy có một
Tỳ-kheo tên Bà Cửu (C: P'o-chiu; P: Bhagu) đêm ngày
chuyên tâm thiền định và Phật đã giảng pháp cho ông. Sau
đó Ngài vào rừng Hộ Tự (Hu-szu) ngồi kiết già dưới
một gốc cây, tại đó Ngài gặp một con voi chúa cũng đi
tìm sự cô tịch để thoát ly những huyên náo của đàn voi.
Bản P chỉ nói đức Phật gặp Tỳ-kheo Bhagu, không nói
gặp con voi; cũng không có chi tiết đức Phật bay trên không.
Phần còn lại hai bản gần giống nhau.
f)
Cho Tôn giả Ma-ha-nam (C: Mo-ho-nan; P Mahànàma) :
NC
11: (P14, Tiểu kinh khổ uẩn = C100, Khổ ấm kinh):
Hai
bản gần giống nhau.
g)
Cho Moliya (C: Mou-li-p'o-ch'un-na; P: Moliyaphagguna):
NC
18: (P21, Ví dụ cái cưa = C193, Mâu lê phá quần na):
Hai
bản gần giống nhau.
h)
Cho Tôn giả Bạt-đà-hòa-lợi (C: P'o-t'o-ho-li; P: Bhaddàli) :
NC
43: (P 65, Bhaddàli = C 194, Bạt-đà-hòa-lợi) :
Hai
bản gần giống nhau.
i)
Cho Ưu-đà-di (C: Wu-t'o-i; P: Udàyì) :
NC
44: (P 66 Ví dụ con chim cáy = C192, Ca lâu ô đà di):
Không
có gì khác nhau lắm giữa hai bản kinh. Trong khi bản C nói
về một Tỳ-kheo nào đó đi khất thực về đêm, bản P nói
rõ chính là Ưu-đà-di.
j)
Cho Tôn giả A Nan:
NC
53, 55, 67, 72, 76, 78, 98:
Trong
NC 53, (P81, Ghatikara = C63,Bệ bà lăng kỳ), NC 67 ( P106,
Bất động lợi ích = C75, Tịnh bất động đạo kinh), hai
bản gần giống nhau. Trong NC 55, kinh C67,Đại thiên nại lâm,
dịch
từ Ta-t'ien có nghĩa là "Mahàdeva: Đại-thiên" trong
khi P83, kinh Makhàdeva là Makhàdeva.
Trong
NC 72, (P115, Bahudhàtuka = C181,Đa giới kinh), Tôn
giả A Nan trong lúc ngồi thiền đã có được tri kiến rằng
tất cả sợ hãi, rối ren, tai nạn, sầu ưu đều do vô minh,
không do trí tuệ. Tôn giả trình bày ý tưởng ấy với đức
Phật và Ngài đồng ý, đưa ra một định nghĩa về một Tỳ-kheo
ngu si và một Tỳ-kheo có trí tuệ. Bản P bỏ chi tiết Tôn
giả A Nan ngồi thiền, thuật ý tưởng của mình cho đức
Phật và sự chấp thuận của đức Phật. Ở đây đức Phật
gọi các Tỳ-kheo và dạy rằng mọi sợ hãi, rắc rối, tai
nạn đến với người ngu, không phải với người trí. Rồi
Ngài khuyên các Tỳ-kheo hãy tu tập để trở thành có trí
tuệ nhờ trạch pháp. Ở đây bản P thêm Trưởng lão A Nan
hỏi đức Phật đến mức nào thì đủ để gọi là một
Tỳ-kheo có trí nhờ trạch pháp.
Trong
NC 78, (P123, Acchariyabbhutadhamma = C32, Vị tằng hữu pháp),
Tôn giả A Nan sau khi ra khỏi thiền định vào buổi chiều
đi đến đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên
và kể ra những đức tính kỳ diệu của đức Phật. Trong
bản P, một số đông Tỳ-kheo sau khi khất thực về ăn xong,
tụ họp trong giảng đường và ca tụng đức Như lai (Tathàgata)
thật kỳ diệu, có thần thông, biết được chư Phật về
trước. Tôn giả A Nan xác nhận lời các Tỳ-kheo nói chư Như
lai có nhiều đức tính kỳ diệu. Câu chuyện này được Phật
cắt ngang lúc Ngài vừa ra khỏi độc cư thiền tịnh. Ngài
hỏi các Tỳ-kheo đang đàm luận về điều gì, họ trình lại
với Phật, khi ấy Phật bảo Tôn giả A Nan kể lại những
đức tính kỳ diệu của đức Thế tôn.
Trong
NC 98, ( P148, Chachakka = C86, kinh Thuyết xứ ), Tôn giả
A Nan vào buổi chiều ra khỏi thiền định, đưa các Tỳ-kheo
trẻ cùng đi đến đảnh lễ Phật và hỏi đức Thế tôn
làm thế nào để dạy dỗ, khích lệ các Tỳ-kheo trẻ. Rồi
Đức Phật giảng nhiều pháp môn cho những tỷ kheo trẻ. Bản
P hoàn toàn không có chi tiết Tôn giả A Nan và các Tỳ-kheo
trẻ, chỉ nói đức Phật cho gọi các Tỳ-kheo rồi giảng
pháp.
k)
Cho Tôn giả A Nan và chú tiểu Chu Na (C: Chou-na; P: Cunda) :
NC
66: ( P104, kinh Làng Soma = C196,Châu na kinh).
l)
Cho Tôn giả A Nan và nhiều Tỳ-kheo:
NC
77: (P122, Mahàsunnatà = C191, Đại không kinh):
Cả
hai bản dịch gần giống nhau trong NC 66, 77.
m)
Cho Lại-tra-hòa-la (C: Lai-cha-ho-lo; P: Ratthapàla) :
NC
54: (P82, Ratthapàla = C132, Lại-tra-hòa-la kinh):
Câu
chuyện Lại-tra-hòa-la không giống nhau trong hai bản. Lại-tra-hòa-la
nghe đức Phật thuyết pháp, xin xuất gia, đức Phật từ chối
vì chưa có phép cha mẹ, cha mẹ không bằng lòng cho xuất gia,
Lại-tra-hòa-la tuyệt thực để gây áp lực đối với cha
mẹ, cha mẹ nhượng bộ, Lại-tra-hòa-la xuất gia thọ giới
và đắc quả A-la-hán, tất cả những chi tiết này đều giống
nhau trong hai bản. Khi ấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la vào sáng
sớm cầm y bát đi vào làng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha) để
khất thực, nghĩ đến đức Thế tôn khen ngơi hạnh tuần
tự khất thực nên ông đi từng nhà và đến nhà cha, lúc
ấy người cha đang tỉa râu tóc, khi trông thấy Tôn giả ông
nói: "Bọn Sa-môn trọc đầu này chuyên làm việc hắc ám,
không có con, không người kế tự, những kẻ phá hoại gia
đình ta. Ta có một đứa con trai yêu quý, nhưng chúng đã đem
đi mất và cạo trọc đầu nó, đừng cho Sa-môn này cái gì
để ăn cả." Thế là Lại-tra-hòa-la không nhận được một
sự bố thí nào từ nhà cha mình, ngoại trừ lời chưởi rủa.
Khi ấy một người tớ gái đem ra một rỗ đầy thức ăn
thối để đổ vào đống rác. Lại-tra-hòa-la trông thấy cô
ta bèn yêu cầu đổ thức ăn ấy vào bát của mình. Khi người
tớ gái đem đồ ăn đổ vào bát khất thực, cô nhận ra ngài
nhờ giọng nói và chân tay. Cô đi vào báo cho người cha, được
tin ông hết sức vui mừng. Tay phải cầm áo, tay trái vuốt
râu tóc, ông vội vàng đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la đang ngồi
tựa vào một bức tường để ăn thức ăn đã thối. Người
cha hỏi con trai sao có thể ăn được thức ăn thối ấy khi
con ông vốn có thân thể mềm mại và đã quen với mỹ vị
cao lương. Ông cũng hỏi con trai sao không đi vào nhà cha mẹ
mình. Lại-tra-hòa-la trả lời ông có vào nhà cha mẹ, nhưng
không nhận được gì ở đấy, ngoại trừ lời nguyền rủa.
Người cha xin lỗi con trai, kính cẩn đưa ông vào nhà, trải
chỗ và mời ngồi. Sau đó ông báo tin cho mẹ Lại-tra-hòa-la
và bảo bà dọn cơm cho con. Bà vui vẻ đi làm thức ăn. Rồi
bà chất một đống lớn những đồng tiền ra giữa sân, lớn
đến nỗi một người đứng bên này không trông thấy người
đứng bên kia. Rồi bà đi đến Lại-tra-hòa-la mà bảo đống
tiền này là của mẹ dành cho ông, còn tiền của cha dành
cho ông thì vô số, không thể đếm hàng trăm, hàng ngàn. Tất
cả tiền này dành cho ông nếu ông hoàn tục. Lại-tra-hòa-la
khuyên mẹ hãy đem tiền ấy đổ xuống sông vì chính do tiền
này mà người ta trải qua đau khổ, tuyệt vọng. Khi ấy bà
mẹ biết không thể đem tiền mà dụ ông hoàn tục. Rồi bà
bảo những người vợ trước kia của ông mặc đồ đẹp
và trang sức các chuỗi đeo cổ, đi đến nơi ông, ôm chân
ông mà nói: "Hỡi người chồng tệ bạc, có những tiên nữ
nào đẹp hơn chúng tôi để cho ông vì họ mà đi tu?" Những
bà vợ cũ của Lại-tra-hòa-la theo lời chỉ dẫn của mẹ
chồng. Nhưng Lại-tra-hòa-la gọi họ bằng chị và bảo ông
xuất gia không phải vì tiên nữ nào hết, chỉ vì để được
Phật pháp, và bây giờ mục đích của ông đã thành tựu.
Những bà vợ đứng lên khóc lóc bảo rằng họ không phải
chị nhưng Lại-tra-hòa-la lại gọi họ bằng chị. Khi ấy
Lại-tra-hòa-la yêu cầu cha mẹ dọn đồ ăn ra vì đã đến
giờ, chớ có phiền nhiễu ông nữa. Khi ấy cha mẹ ông đứng
lên, đưa nước cho ông rửa tay và tự tay mình bồi tiếp
những thức ăn mỹ vị. Sau khi ăn xong, Tôn giả Lại-tra-hòa-la
giảng pháp cho cha mẹ, làm họ vui mừng hoan hỷ phấn chấn.
Rồi ngài đứng lên đọc một bài kệ. Bản P hơi khác. Khi
Ratthapàla
đi đến Thullakotthita, bản P thêm rằng ông ở lại
trong vườn nai của vua Kuru. Trong khi đi khất thực,
Ratthapàla
đi từng nhà, nhưng bản P bỏ chi tiết ông nghĩ đến đức
Phật thường khen ngợi sự tuần tự khất thực. Khi Ratthapàla
vào nhà cha mẹ, người cha đang chải tóc ở giữa gian
phòng có cửa. Trong bản C, người cha mắng các Tỳ-kheo là
bọn chuyên làm việc đen tối, không con cái, không kế tự,
phá hoại gia đình mình. Bản P chỉ nói ông ta bảo đứa con
trai yêu quý độc nhất đã bỏ nhà đi tu vì những Sa-môn
trọc đầu này, và thế là Trưởng lão Ratthapàla
tại
nhà cha mẹ đã không nhận được của bố thí cũng không
nhận được lời từ chối mà nhận được lời nguyền rủa.
Ở đây thức ăn người nữ tỳ đem đổ là đồ ăn thừa
của ngày hôm trước. Trong khi bản C nói người tớ gái đi
vào báo thẳng với người cha, bản P nói nàng báo tin trước
cho người mẹ và bà này kể lại với chồng. Bản P thêm
rằng bà mẹ của Ratthapàla khi được tin ông trở về
đã nói với người tớ gái rằng nếu tin này là đúng thì
cô ta sẽ thoát vòng nô lệ. Bản P không nói đến thái độ
của người cha vui mừng trước tin tức ấy. Khi người cha
của Ratthapàla trông thấy con trai mình tựa lưng vào
bức tường để ăn đồ ăn còn thừa ngày trước, ông đã
hỏi : "Có thật là con đang ăn đồ thừa đấy không? Con hãy
nên đi vào nhà của con." Và Ratthapàla đã trả lời
rằng ông không có nhà vì đã xuất gia từ bỏ gia đình sống
không gia đình. Ông đã đi đến nhà gia chủ nhưng không nhận
được bố thí hay sự từ chối mà nhận được sự nguyền
rủa. Khi ấy người cha mời ông vào nhà nhưng Ratthapàla
từ
chối, nói rằng đã ăn xong. Khi ấy người cha mời ông đến
để ăn bữa trưa ngày hôm sau, và ông đã im lặng nhận lời.
Trong bản C, chính bà mẹ đã chất tiền thành từng đống
và bảo các bà vợ cũ của ông trang sức. Trong bản P, người
cha làm những việc ấy. Trong bản C, người mẹ đem tiền
ra dụ rồi đến các bà vợ; nhưng trong bản P, người cha
sử dụng cả hai phương pháp cùng một lúc. Trước hết ông
chất một đống lớn tiền vàng và che khuất nó sau một bình
phong. Rồi ông bảo các bà vợ trước của Ratthapàla
trang sức đẹp đẽ. Khi thức ăn đã sẵn sàng, ông cho mời
Tôn giả và khi Ratthapàla ngồi xuống, ông mở cho thấy
đống tiền vàng và bảo Ratthapàla rằng một đống
của mẹ, một đống của cha, một đống của ông nội. Chàng
có thể thừa hưởng của cải và thực hành những việc phước.
Bởi thế ông yêu cầu con trai hãy từ bỏ đời sống phạm
hạnh, trở về đời sống thế tục, hưởng thụ của cải
và hành thiện. Sự trả lời của Ratthapàla, vai trò
các bà vợ cũ cũng gần như trong bản C, ngoại trừ trong bản
P, các bà vợ té xỉu xuống đất khi nghe Ratthapàla gọi
họ bằng chị. Bản P bỏ chi tiết Ratthapàla giảng pháp
cho cha mẹ. Theo bản C, Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô
Tra (Yu-lu-cha) ngang qua hư không, đi vào rừng ngồi trên
tọa cụ. Lúc ấy vua Câu Lao Bà (Chu-lao-p'o) ngồi với
đình thần trong cung, đang ca tụng Lại-tra-hòa-la và tỏ ý
muốn gặp Tôn giả. Rồi vua ra lệnh cho quan săn bắn sửa
soạn rừng Thâu Lô Tra để đi săn. Khi viên quan đi vào rừng,
trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la bèn trở về tâu vua, vua
đi gặp Tôn giả. Khi Tôn giả thấy vua đến, ngài mời vua
ngồi. Vua trả lời, mặc dù nơi này là sở hữu của vua,
vua vẫn muốn được Tôn giả mời ngồi, và Tôn giả Lại-tra-hòa-la
mời vua ngồi xuống. Vua hỏi phải chăng Tôn giả đi tu vì
thiếu tiền, nếu vậy vua sẵn sàng cung cấp tất cả tiền
bạc cần thiết để Lại-tra-hòa-la hoàn tục hưởng dục
lạc, bố thí và làm các việc phước. Khi ấy Tôn giả bảo
vua đã hiến cho mình những vật bất tịnh, không phải là
tịnh pháp. Khi vua hỏi thế nào là hiến tịnh pháp, Tôn giả
bảo vua nên nói xứ sở và thần dân của vua được hạnh
phúc, không sợ hãi, không xáo trộn, không lo lắng, không bị
làm nô lệ. Khi ấy vua nói muốn hiến cho Tôn giả tịnh pháp,
không phải vật bất tịnh. Bản P không nói Ratthapàla bay
trở về ngang qua hư không. Tôn giả chỉ trở về vườn Nai
của vua Kuru, ngồi dưới một cây để nghỉ ban ngày.
Bản P không nói vua Chu-lao-p'o ngồi với đình thần trong
cung, khen ngợi Tôn giả Ratthapàla và ngỏ ý muốn gặp
ngài, mà chỉ nói vua sai người săn nai đi sửa soạn khu đất
trong vườn Nai để vua đi ngắm cảnh. Người săn nai đến
trông thấy Tôn giả đang ngồi dưới cây, về tâu vua, và
vua sai thắng xe để đi gặp Tôn giả. Khi vua gặp Tôn giả,
vua chào và mời Tôn giả ngồi trên tấm thảm lót lưng voi,
nhưng Tôn giả từ chối và mời vua hãy ngồi lên đấy vì
ngài đã có tọa cụ riêng. Ở đây bản P bỏ đoạn vua dụ
Tôn giả từ bỏ đời sống phạm hạnh, như được tìm thấy
trong bản C. Rồi vua hỏi những lý do đã khiến Ratthapàla
sống
đời phạm hạnh, và Tôn giả giải thích cho vua những lý
do đã khiến ngài trở thành tu sĩ.
n)
Giảng cho Tôn giả Phù Di (C: Fou-mi; P: Bhumija):
NC81:
( P126, Bhùmija = C173, kinh Phù Di ):
Tôn
giả Phù Di ở trong thiền thất vô sự. Một buổi sáng, ông
sửa soạn đi vào thành Vương Xá khất thực. Rồi ông hoãn
việc khất thực mà đi đến nhà vương tử Kỳ Bà Tiên Na
(Ch'i-p'o-hsien-na). Ở đấy, Tôn giả được vương tử
chào đón một cách kính cẩn, mời ngồi và xin phép được
hỏi Tôn giả. Sau khi được cho phép, vương tử đặt những
câu hỏi và Tôn giả trả lời. Rồi vương tử mời Tôn giả
ăn trưa, tự tay mang nước đến và phục vụ ngài với những
thực phẩm hảo hạng. Sau khi ăn xong, vương tử ngồi xuống
trên một chỗ ngồi thấp để lắng nghe thuyết pháp. Tôn
giả thuyết pháp làm cho vương tử hoan hỷ, thỏa mãn, phấn
chấn tinh thần bằng nhiều cách thuyết pháp. Khi bài pháp
đã xong, Tôn giả đi đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ Ngài và
kể lại cuộc đàm thoại với vương tử. Bản P bỏ chi tiết
Tôn giả sửa soạn đi khất thực, hoãn việc khất thực,
sự chào đón tôn kính của vương tử và xin phép đặt câu
hỏi. Bản P chỉ nói Bhùmija vào buổi sáng đắp y cầm
bát đi đến trú xứ vương tử Jayasena và ngồi trên
chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi vương tử đến chào ngài và
hỏi những câu hỏi. Trong khi kinh C nói dông dài về chuyện
vương tử mời dùng cơm, phục vụ Tôn giả với những đồ
ăn thượng hạng, Tôn giả thuyết pháp cho vương tử; kinh
P chỉ nói vương tử cúng dường Tôn giả cơm nấu với sữa.
Sau khi kể lại cho đức Phật nghe cuộc đàm thoại này, bản
P nói Tôn giả hỏi đức Phật, có phải khi được hỏi và
trả lời như thế là ông đã nói đúng những gì Thế tôn
đã dạy, không xuyên tạc lời Thế tôn. Và đức Phật hỏi
Tôn giả vì sao không nói cho vương tử nghe về bốn ví dụ.
o)
Giảng cho Tôn giả Lu-i-ch'iang-ch'i (Lomasakangiya):
NC88:
(P134, Lomasakangiiya, Nhất dạ hiền giả = C166, Thích trung
thiền thất tôn) :
Có
một việc khác nhau quan trọng cần chú ý giữa hai bản dịch.
Bản C nói đức Phật giảng bài kệ về Bạt địa la đế
(C: Pa-ti-lo-ti; P: Bhadde-karatta) tại thành Vương
Xá, trong rừng Trúc, ở vườn Ca Lan Đà (Chia-lan-to),
nhưng bản P nói đức Phật giảng bài kệ này tại cõi trời
33, giữa thiên chúng, ở gốc cây Pàricchattaka, trên Pandukambalasilà.
p)
Giảng cho Tôn giả San-mi-t'i (Samiddhi):
NC
90: (P136, Đại nghiệp phân biệt = C171, Phân biệt đại nghiệp
kinh):
Trong
bản C, chính Tôn giả A Nan có tà kiến của Samiddhi và
bị Phật quở. Nhưng trong bản P Tôn giả Ưu-đà-di (Udàyì)
có tà kiến như Samiddhi và bị đức Phật quở trách.
q)
Giảng cho Tôn giả Fu-chia-lo-so-li (Pukkusàti):
NC94:
(P140, Giới phân biệt = C162,Phân biệt lục giới kinh):
Theo
bản C, sau khi đức Phật giảng xong, Tôn giả Pukkusàti
đắc Pháp nhãn. Rồi ông thú nhận lỗi lầm đã gọi Phật
bằng bạn và Phật nhận sự sám hối của ông. Ở đây bản
P hoàn toàn khác. Tôn giả Pukkusàti cũng sám hối, và
sau khi sám hối, còn xin đức Phật xuất gia làm Tỳ-kheo, nhưng
đức Phật từ chối vì Tôn giả không có y bát sẵn sàng.
Trong lúc đi tìm y bát, Tôn giả bị bò húc chết. Những Tỳ-kheo
đưa tin ấy đến Phật và bạch hỏi về cảnh giới tương
lai của Pukkusàti. Đức Phật trả lời Pukkusàti đã
đoạn trừ năm kiết sử, đã hóa sinh và đạt Niết-bàn (Nibbàna)
ngay ở đấy, không còn trở lui đời này. Tất cả những
chi tiết này không có trong bản C.
r)
Giảng cho Đại Châu Na (C: Ta-chou-na; P: Mahàcunda) :
NC7:
(P8, Đoạn giảm = C91, Châu na vấn kiến kinh) :
Hai
bản kinh gần giống nhau.
s)
Giảng cho sa di A-i-na-ho-t'i (Aciravata):
NC80:
(P125, Dantabhùmi = C198,Điều ngự địa):
Hai
bản dịch không có gì khác nhau đáng chú ý.
6. Đức
Phật thuyết pháp cho tu sĩ và những người khác :
Có
10 NC rơi vào loại này:
-
Giảng cho Kiều-đàm-di (Ch'u-t'an-mi) : NC96: (P142, Dakkhinà-vibhanga
=
C180,Cù đàm di kinh);
\
-
Giảng cho bà la môn Sinh Văn (Shêng-wên): NC23: (P27, Ví
dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ kinh) ;
-
Giảng cho Po-li-to (Potaliya) : NC38: (P54, Potaliya =
C203, Bổ lợi đa kinh);
-
Giảng cho Tiễn Mao (Chien-mao): NC49: (P77, Mahàsakuludàyi
=
C207, kinh
Tiễn
mao);
- Giảng
cho vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) : NC56: (P87, Piyajàtika
= C216,Ái sinh); NC58: (P89, Dhammacetiya = C213, Pháp trang nghiêm);
NC59: (P90, Kannakatthala = C 212, Nhất thiết trí kinh);
- Giảng
cho bà la môn Phạm Ma (Fan-mo): NC60: (P91, Brahmàyu =
C161, kinh Phạm ma)
- Giảng
cho bà la môn Toán số Mục-kiền-liên (Suan-shu-mu-chien-lien)
: NC68 : (P107,Ganakamoggallàna = C144, Toán số Mục-kiền-liên
kinh);
- Giảng
cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu):
NC89: (P135, Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).
a)
Giảng cho Kiều-đàm-di (C: Ch'u-t'an-mi; P: Gotamì), NC96:
Hai bản gần giống nhau.
b)
Giảng cho bà la môn Sinh Văn ((C: Shêng-wên; P: Jànussonì),
NC23:
Tỳ
Lô (Pei-lu), một tín đồ ngoại đạo sau khi nghe đức
Thế Tôn giảng trở về gặp bà la môn Sinh Văn đang đi trong
một cỗ xe toàn trắng với 500 đệ tử ra khỏi thành Xá Vệ
để đến một nơi vắng vẻ và đọc kinh điển. Bản P bỏ
đoạn Tỳ Lô đi đến đức Phật và được Ngài thuyết pháp,
đề cập trực tiếp bà la môn Jànussonì sáng sớm ngồi
trong xe do ngựa trắng kéo, gặp du sĩ Pilotika từ xa đến và
nói chuyện. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.
c)
Giảng cho Bổ Lợi Đà (C: Pu-li-to; P:Potaliya),
NC38:
Theo
bản C, gia chủ Bổ Lợi Đà vận y phục trắng sạch, đầu
quấn khăn trắng, chống gậy, cầm dù, mang giày thế tục
đi ngao du. Khi gặp Phật, đầu tiên ông bỏ cây gậy, tháo
giày, rồi mở dãi khăn trắng ra. Trong bản P, Potaliya được
mô tả là ăn mặc bảnh bao, đi giày cầm dù, nhưng không có
những chi tiết khác. Ông không bộc lộ những vẻ cung kính
bên ngoài như được thấy trong bản C. Sau khi nghe Phật thuyết
pháp, Potaliya được con mắt pháp thanh tịnh, lặp lại
ba lần xin quy y Tam bảo và được nhận làm đệ tử tại
gia. Bản P không nói Potaliya đắc Pháp nhãn. Ông chỉ bày tỏ
sự tán thán như thường lệ và xin quy y Tam bảo, xin được
nhận làm đệ tử Phật.
d)
Giảng cho Tiễn Mao (C: Chien-mao; P: Sakuludàyì),
NC49:
Trong
khi bản C nói Phật sau khi ăn xong đi đến vườn chim công,
bản P nói Phật vào thành Vương Xá (Ràjagaha) khất thực,
nhưng thấy còn quá sớm nên Ngài đi đến vườn chim công.
Bản P bỏ chi tiết Sakuludàyi đứng dậy khỏi chỗ ngồi,
đắp vai chừa ra một bên, chắp tay hướng về Phật, nhưng
thêm rằng Sakuludàyi lấy một ghế thấp ngồi bên cạnh.
Sau khi Phật thuyết pháp, Tiễn Mao ca tụng bài pháp của đức
Phật vi diệu, hy hữu, làm ông khoan khoái, như mật ngọt,
như nước mưa trên trời rơi xuống thấm khắp những vùng
đất cao và thấp. Rồi ông xin quy y Tam bảo và xin đức Phật
nhận ông làm đệ tử. Đoạn này không có trong bản P.
e)
Giảng cho vua Ba-tư-nặc (C: Po-ssu-ni; P: Pasenadi), NC 56,
58, 59:
Cả
hai bản gần giống nhau, chỉ có thêm bớt vài chi tiết nhỏ.
Trong NC56, theo kinh C216, Ái sinh, vua Ba-tư-nặc sai bà la môn
Na Lị Ương Già (C: Na-li-yang-chia; P: Nàlijangha)
đi đến đức Phật, trước hết hỏi thăm sức khỏe của
Ngài, rồi hỏi quan điểm của Ngài. Trong kinh P90, Piyajàtika,
hoàng hậu Mallikà phái bà la môn Nàlijangha đi đến
đức Phật, trước hết đảnh lễ và hỏi thăm sức khỏe,
sau xin Ngài giải thích quan điểm của Ngài.
f)
Giảng cho Bà la môn Phạm Ma (C: Fan-mo; P: Brahmàyu),
NC 60:
Hai
kinh gần giống nhau. Những dị biệt sau đây cần chú ý: Về
lưỡi dài rộng, theo kinh C161, trùm khắp mặt đức Phật,
trong kinh P91, đức Phật đưa lưỡi ra sờ đến hai mang tai,
hai lỗ mũi và bao trùm khắp mặt và trán. Trong kinh C, Ưu Đa
La (Yu-to-lo) xin phép bà là môn Phạm Ma xuất gia với
Sa-môn Cù Đàm (Ch'u-t'an) và bà la môn đồng ý. Và Ưu
Đa La thọ đại giới với đức Phật. Những chi tiết này
không có trong bản P. Trong bản C, bà la môn Phạm Ma muốn đảnh
lễ đức Phật, nhưng chúng đông gia chủ và bà la môn hô
lớn lời hoan nghênh và thán phục. Đức Phật biết tâm của
hội chúng, bảo Phạm Ma hãy trở về chỗ ngồi. Rồi Ngài
thuyết pháp cho ông, làm cho ông hoan hỷ, phấn khởi, hài lòng.
Sau khi đức Phật thuyết pháp, Phạm Ma được Pháp nhãn. Rồi
ông đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu dưới chân đức
Phật, xin quy y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ
tử. Trong bản P, bà la môn thực sự đảnh lễ Phật, sửa
thượng y chừa lại một vai, hôn quanh chân Phật, dùng hai
tay vuốt khắp chân Phật và cho biết tên của ông, nhưng không
bị chúng hội ngăn chận.
g)
Giảng cho Toán số Mục-kiền-liên (C: Suan-shu-mu-chien-lien; P:
Ganakamoggallàna),
NC 68: Hai bản gần giống nhau.
h)
Giảng cho Anh-vũ-ma-nạp Đô-đề-tử (C: Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu;
P: Subha mànava Todeyyaputta),
NC 89: Kinh C170 khởi sự với câu chuyện về con chó, đời
trước là cha của Đô Đề (Todeyya), trong khi P135 hoàn
toàn loại bỏ chi tiết này.
7. Sự
thảo luận giữa các Tỳ-kheo
Có
3 NC thuộc về loại này :
NC20
: (P24, Trạm xe = C9,Thất xa), kể cuộc đàm luận giữa Tôn
giả Xá-lợi-tử và Mãn-từ-tử (Man-tz'u-tzu).
NC26:
(P32, Đại kinh rừng Sừng boø = C185,Ngưu giác lâm kinh),
nói đến một cuộc luận bàn giữa các Tôn giả Xá-lợi-tử,
Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà
(A-na-lu-t'o), Ly-bà-đa (Li-yueh-to) và A Nan.
NC30:
(P43, Mahàvedalla = C211, Đại-câu-thi-la kinh), kể cuộc
pháp đàm giữa Tôn giả Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo).
a)
Giữa Xá-lợi-tử và Mạn Từ Tử,
NC20:
Hai
bản gần giống nhau.
b)
Giữa Xá-lợi-tử, Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca Diếp, Đại
Ca-chiên-diên, A-na-luật-đà, Ly-bà-đa và A Nan,
NC26:
Bản
C nói đến bảy Tôn giả, nhưng bản P chỉ nói sáu, bỏ Đại
Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna). Trong bản C, Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên nói đến vị Tỳ-kheo nào thiện xảo về đàm
luận pháp A tỳ đàm (Abhidharma), vị Tỳ-kheo ấy sẽ
chói sáng khu rừng Sừng bò. Nhưng trong bản P, câu trả lời
này được đặt vào miệng của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna).
Trong bản C, câu trả lời của Đại Mục-kiền-liên nói đến
vị Tỳ-kheo nào giỏi về năng lực thần thông.
c)
Pháp đàm giữa Xá-lợi-tử và Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo),
NC 30:
Trong
bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử đặt câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la
và Đại-câu-thi-la trả lời câu hỏi. Trong bản P, Đại-câu-thi-la
(Mahàkotthita) hỏi và Xá Lợi Phất trả lời.
8. Những
bài pháp do đệ tử Phật nói:
Có
14 NC thuộc về loại này. Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết pháp
trong NC4, 24, 46, 63, 97. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết
pháp trong NC12, 36. Tôn giả A Nan thuyết bốn bài pháp trong
NC37, 57, 69, 86. Tôn giả A-na-luật-đà giảng một bài pháp
trong NC82. Tỳ-kheo ni Pháp Lạc nói một bài pháp trong NC31 và
Tôn giả Bạc-câu-la (Po-chu-lo) nói một bài pháp trong
NC 79.
a) Do
Tôn giả Xá-lợi-tử thuyết:
NC4:
(P5, Vô uế = C87,Uế phẩm kinh);
NC24:
(P25, Dụ dấu chân voi = C178, Tượng tích dụ kinh);
NC46:
(P69, Gulissàni = C26, Cù ni sư kinh);
NC63:
(P97, Dhànanjàni = C27, Phạm chí Đà nhiên kinh);
NC97:
(P143, Anàthapindikovàda = C28, Giáo hóa bệnh kinh);
Không
có gì khác nhau nhiều giữa hai bản trong NC4, NC24, NC46. Nhưng
có nhiều khác nhau trong NC63, nói đến sự gặp gỡ giữa Tôn
giả Xá-lợi-tử và bà la môn Đà Nhiên (T'o-jan). Sáng
sớm, Tôn giả Xá-lợi-tử mang y cầm bát vào thành Xá Vệ
khất thực. Sau khi khất thực, ngài đến nhà bà la môn Đà
Nhiên, lúc ấy Đà Nhiên vừa ra khỏi nhà đi đến bờ sông
để hành hạ dân chúng. Khi thấy Tôn giả Xá-lợi-tử từ
xa, ông ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi (?), mặc y phục để
lộ một vai, chắp tay chào đón Tôn giả, đưa Tôn giả vào
nhà, sửa soạn chỗ và mời Tôn giả ngồi xuống, rồi cúng
dường thực phẩm cho Tôn giả trong đồ đựng bằng vàng.
Nhưng Tôn giả từ chối. Ba lần bà la môn năn nỉ, và Tôn
giả từ chối cả ba lần. Bản P không hẳn vậy, nói bà la
môn Dhànanjàni đang ở ngoài thành vắt sữa bò trong
một chuồng bò. Bản này bỏ các chi tiết: bà la môn đứng
dậy khỏi chỗ ngồi, mặc y chừa một vai, đưa Tôn giả vào
nhà, sai sửa soạn chỗ ngồi, dâng thực phẩm trong bát bằng
vàng. Bản P chỉ nói rằng khi trông thấy Tôn giả Xá Lợi
Phất từ xa, bà la môn Dhànanjàni đi đến mời Tôn giả
uống sữa chờ đến khi có thức ăn, nhưng Tôn giả từ chối
bảo rằng ngài đã ăn xong, và mời bà la môn cùng đi đến
dưới một gốc cây. Phần còn lại hai bản gần giống nhau.
Trong NC97, cả hai bản kinh nói đến Cấp Cô Độc (Kei-ku-tu)
bị ốm, yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-tử đến giảng pháp cho
ông. Tôn giả đến giảng pháp cho Cấp Cô Độc. Nhưng trong
bản C, Tôn giả Xá-lợi-tử bảo Cấp Cô Độc đừng sợ
hãi vì ông ta có đức tin lớn, có giới, đa văn, bố thí,
trí tuệ, chánh kiến, mục tiêu chân chính, và do vậy khổ
và ưu sẽ chấm dứt, vô thượng an lạc sẽ khởi lên, do
điều này người ta có thể đạt đến cõi Nhất lai hay Bất
hoàn; và Cấp Cô Độc đã đắc quả Dự lưu. Trong bản P,
Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên Cấp Cô Độc (Anàthapindika)
đừng bám víu cái gì. Và sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất giảng
xong, Cấp Cô Độc đã khóc. Sau khi Tôn giả ra đi, Cấp Cô
Độc chết và được tái sinh lên cõi trời Đâu Suất. Ở
đây hai bản khác nhau khá xa. Rồi theo bản C, Cấp Cô Độc
được khỏi bệnh, kể lại cho Tôn giả nghe lần đầu tiên
ông gặp đức Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp, thấy đựơc
bốn chân lý, mua vườn Kỳ Viên (C: Shêng-lin; P: Jetavana)
và dâng cúng cho đức Phật. Nhưng bản P nói rằng sau khi Cấp
Cô Độc chết và tái sinh lên cõi trời Đâu suất (Tusita),
vị thiên Cấp Cô Độc còn trẻ, chói sáng vườn Kỳ Viên
với hào quang của mình, đi đến đức Phật, chào Ngài và
đọc một bài kệ tán thán Phật, Pháp và Tôn giả Xá Lợi
Phất. Rồi vị trời trẻ Cấp Cô Độc biến mất tại chỗ.
b) Những
bài kinh do Đại Mục-kiền-liên thuyết (Ta-mu-chien-lien):
NC12:
(P15, Tư lượng = C89,Tỳ-kheo thỉnh);
NC36:
(P50, Màratajjaniya = C131, Hàng ma kinh):
Hai
bản gần giống nhau.
c) Do
A Nan thuyết:
NC
37: (P52, Bát thành = C217, Bát thành kinh);
NC
57: (P88, Bahitika = C214,Bệ ha đề);
NC
69: (P108, Gopakamoggàllana = C145, Cù mặc Mục-kiền-liên
kinh);
NC
86: (P132, A nan nhất dạ hiền giả = C167, A nan thuyết):
Không
có nhiều dị biệt giữa hai bản trong NC 37, 57, 86. Nhưng trong
NC69, bản C nói vào lúc ấy quan đại thần Vũ Thế (C: Yu-chih;
P: Vassakàra) xứ Ma-kiệt-đà (C: Mo-chieh-t'o; P: Magadha)
đang chỉnh đốn thành Vương Xá để chống lại dân Bạt
Kỳ (P'o-ch'i). Nhưng trong bản P, vua A Xà Thế (Ajàtasttu)
xứ Ma-kiệt-đà chỉnh đốn thành Vương Xá chống lại vua
Pajjota.
Phần còn lại gần giống nhau.
d) Do
A-na-luật-đà (C: A-na-lu-t'o; P: Anuruddha) giảng:
NC82:
(P127, A na luật = C79 ,Hữu thắng thiên):
Hai
bản gần giống nhau.
e) Do
Tỳ-kheo ni Pháp Lạc (C: Fa-lo; P: Dhammadinnà) giảng :
NC31:
(P44, Tiểu kinh Phương quảng= C210, Pháp lạc Tỳ-kheo ni kinh):
Ở
đây bản C nói Tỳ Xá Khư (C: P'i-shê-ch'u; P: Visakhà)
là nữ đệ tử danh tiếng của thành Xá Vệ đi đến Tỳ-kheo
ni Pháp Lạc tham vấn về Pháp. Theo bản P, Visàkha là
chồng cũ của Pháp Lạc. Theo bản C, Tỳ-kheo ni Pháp Lạc đến
Phật thuật lại sự thuyết pháp của bà, trong khi bản P nói
chính cư sĩ Visàkha đến Phật thuật lại cuộc đàm
thoại.
f) Do
Bạc-câu-la (C: Po-chu-lo; P: Bakkula) thuyết :
NC79:
(P124, Bakkula = C34, Bạc-câu-la kinh):
Ở
đây bản P thêm tên của người hỏi Tôn giả Bakkula là
Acela
Kassapa nhưng bỏ chi tiết ông ta là một người ngoại đạo.
Sau khi Tôn giả Bakkula thuyết pháp, bản P thêm một đoạn
dài, trong đó Acela Kassapa xin Tôn giả
Bakkula cho
ông xuất gia thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu Acela
Kassapa đắc quả A-la-hán, rồi sau một thời gian Tôn giả
Bakkula cầm chìa khóa và thông báo cho các Tỳ-kheo khác
biết mình sắp nhập Niết-bàn ngày hôm ấy, và Tôn giả Bakkula
nhập Niết-bàn trong khi đang ngồi giữa chúng hội. Những
chi tiết này không có trong bản C.
NHẬN
XÉT CHUNG
Điểm
qua vai trò của các nhân vật trong 98 kinh được so sánh, ta
thấy rõ ràng có một nguồn gốc chung cho cả hai bản C và
P, từ đó những nhà kết tập chọn những tài liệu và dữ
kiện cho bản kinh của họ, nhưng không thiếu những dị biệt
về chi tiết, và điều này hoặc do sự chọn lựa của các
nhà kết tập hoặc do đặc điểm của các bộ phái mà họ
tiêu biểu.
Như
về phương diện nhân vật, trong NC15, kinh C 115, Mật hoàn
du,ï nói chính Phật dẫn ví dụ về viên mật; trong kinh
P18, nói Tôn giả A Nan dẫn. Trong NC 10, kinh C 99, Khổ ấm,
kể một số đông tín đồ ngoại đạo đến gặp các Tỳ-kheo
trong giảng đường khi họ đang tụ hội sau bữa ăn trưa.
Nhưng trong P13, Đại kinh khổ uẩn, các Tỳ-kheo sau khi
vào thành Xá Vệ khất thực, thấy còn sớm nên đi đến trú
xứ của các du sĩ và cuộc đàm thoại bắt đầu. Trong NC
26, C184 nói Đại Ca-chiên-diên (Ta-chia-chan-yen) trả lời
Tỳ-kheo thiện xảo về luận thuyết (Abhidharma) (sẽ
làm sáng chói khu rừng), nhưng theo kinh P32, đó là câu trả
lời của Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna) ; trong
khi ở kinh C, Đại Mục-kiền-liên trả lời là Tỳ-kheo thiện
xảo về thần thông. Như vậy bản C ở đây trung thực và
đáng tin cậy hơn, vì Đại Ca-chiên-diên (Mahàkaccàna)
nổi tiếng là chuyên môn về luận nghị, Mục-kiền-liên nổi
tiếng là chuyên môn về thần thông. Chúng ta trích dẫn ở
đây một nhận xét của tiến sĩ Anesaki(71):
"Trong kinh P, Gosinga(72),
chúng ta thấy nói đến sáu đệ tử của đức Phật; trong
bản C tương đương có thêm một người nữa là Ca-chiên-diên
(Katyàyana) . Trong cuộc đàm luận giữa những Tỳ-kheo
ấy, Mục-kiền-liên ở bản P đóng vai trò một đệ tử tinh
thông về các nguyên lý của pháp và phân tích pháp. Trong bản
C, vai trò này do Ca-chiên-diên đóng, và Mục-kiền-liên (Maudgalyàyana)
là một người nổi tiếng về thần thông. Khi so sánh điều
này với những tài năng của các đệ tử như được nói
trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara) I,14, chúng ta có thể
thấy rằng bản C phù hợp với truyền thống chung. Vì như
trong kinh Tăng chi I nói, Mục-kiền-liên là người thần thông
(iddhimantànam) đệ nhất, Ca-chiên-diên (Kaccàna)
là 'người thiện xảo về nói pháp và phân tích ý nghĩa'
(sankhittena bhàsitassa vitthàrena attham vibhajantànam). Kinh
Tăng-nhất-A-hàm (Ekottara) C cũng nói như vậy. Có thể
sự khác nhau này chứng tỏ rằng không phải bản P luôn luôn
thuần túy và nguyên chất hơn bản C."
Trong
NC31, ta thấy một bất đồng khác nữa. Ở đây bản kinh C
210 nói đến tín nữ Tỳ Xá Khư ở thành Xá Vệ đi đến
hỏi pháp Tỳ-kheo ni Pháp Lạc. Nhưng kinh P44 nói Visàkha
là
một nam cư sĩ, chồng cũ của Dhammadinnà. Trong
Từ
điển Tên riêng (D.P.P.N)(73)
cũng nói Visàkha là chồng của Dhammadinnà. Ông
là một thương gia giàu của thành Vương Xá, sau khi chứng
quả Bất hoàn (Anàgàmì) , lối hành xử của ông đối
với vợ hoàn toàn đổi khác. Khi ông tặng bà tất cả tài
sản, trả lại tự do cho bà, bà xin được gia nhập tăng đoàn.
Khi bà đắc quả A-la-hán, bà trở về Vương Xá. Visàkha
đến
thăm bà và hỏi bà nhiều câu hỏi liên hệ đến giáo lý
Phật, và bà trả lời tất cả các câu hỏi ấy.(74)
Cuộc đàm thoại của họ được ghi lại trong kinh Tiểu phương
quảng (Cullavedallasutta). Sau đó Visàkha đến viếng
đức Phật, thuật lại cuộc đàm thoại của họ và được
nghe đức Phật tán thán Dhammadinnà. Như vậy có thể
rằng những nhà kết tập kinh C đã nhầm lẫn tên Visàkha.
Trong
NC30, kinh C 211 nói Tôn giả Xá-lợi-tử (Shê-li-tzu) đặt
câu hỏi cho Tôn giả Đại-câu-thi-la (Ta-chu-ch'ih-lo) và
ông này trả lời; nhưng theo P 43 thì Đại-câu-thi-la (Mahàkotthita)
hỏi, Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta) trả lời. Lại
trong NC56, kinh C 16 nói vua Ba-tư-nặc (Po-ssu-ni) phái một
người bà la môn đến hỏi Phật về ý nghĩa giáo lý Ngài,
trong khi kinh P 87 nói hoàng hậu Mallikà gởi sứ giả
đến. Chúng ta cũng chú ý rằng trong NC53, theo kinh C63, Bệ
bà lăng kỳ, vua Hiệp Bệ (Chia-pei) sai mang 500 xe bò
đầy gạo trắng và đủ thứ thực phẩm của vua dùng để
đến cúng dường Nan Đề Bà La (Nan-t'i-po-lo) . Nhưng
Nan Đề Bà La từ chối, nói rằng vua có nhiều trách nhiệm
lớn đối với quốc gia, và sự tốn kém của vua đã khá
nặng nề nên ông không thể nhận. Nhưng bản P 81 nói vua Kikì
sai chở 500 xe lúa, gạo vàng và cà ry đến cho người thợ
gốm Ghatìkàra; ở đây người thợ gốm nhận quà và
nói vua có nhiều phận sự, chừng ấy quà đã đủ cho anh
ta. Như vậy những sự tường thuật mâu thẫn này cho chúng
ta thấy hoặc do những nhà kết tập không nhớ kỹ, hoặc
vì câu chuyện đã quá xa mờ trong dĩ vãng, nên những nhà
kết tập chỉ còn nhớ mang máng, mơ hồ.
Về
việc cải đạo của những người thuộc giáo phái khác sau
khi nghe Phật thuyết pháp, ta thấy các chi tiết giống nhau
giữa hai bản kinh trong các NC sau:
NC64:
(P99, kinh Subha = C152, Anh vũ kinh);
NC23:
(P27,Tiểu
kinh dụ dấu chân voi = C146, Tượng tích dụ);
NC60:
(P91,
Brahmàyu
= P161,Phạm ma);
NC68:
(P107, Ganakamoggallàna = C144, Toán số Mục-kiền-liên);
NC89:
(P135,
Tiểu nghiệp phân biệt = C170, Anh vũ kinh).
Nhưng
những chi tiết không giống trong các NC :
NC6:
(P7,Ví dụ tấm vải = C93, Thủy tịnh Phạm chí);
NC61:
(P93,
Assalàyana = C151, Phạm chí A nhiếp hòa);
NC62:
(P96,
Esukari = C150, Uất sậu ca la);
NC48:
(P75, Màgandiya = C153,Man nhàn đề);
NC52:
(P80,
Vekhanassa
= C209, Bệ ma na tu);
NC38:
(P54,
Potaliya
= C203, Bổø lợi đà kinh);
NC49:
(P77, Mahàsakulùdayi
= C207, Tiễn mao kinh);
NC56:
(P87,
Ái sinh= C216, Ái sinh kinh);
NC63:
(P97, Dhananjàni = C27,Phạm chí Đà nhiên).
Trong
NC6, bà la môn Thủy Tịnh (Shui-Ching) trong kinh C93 xin quy
y Tam bảo và xin đức Phật nhận ông làm đệ tử tại gia.
Nhưng kinh P 37 thêm rằng bà la môn Sundarika Bhàradvàja
xin đức Phật xuất gia thọ đại giới. Sau khi được phép,
ông nỗ lực tinh cần tu tập và cuối cùng đắc quả A-la-hán.
Trong NC 48, theo bản C 153, sau khi nghe đức Phật thuyết pháp,
Man Nhàn Đề (Hsu-hsien-t'i) đạt đến Pháp nhãn ly trần
vô cấu. Ông được đức Phật cho xuất gia và đắc quả
A-la-hán. Nhưng bản kinh P75 không nói Màgandiya đắc pháp
nhãn ngay tại chỗ. Kinh này thêm lời tán thán của Màgandiya
như thường lệ, xin quy y Tam bảo, xin đức Phật xuất gia.
Ở đây Phật nói Màgandiya vì thuộc ngoại đạo đáng
lẽ cần qua bốn tháng thử thách, nhưng Phật biết căn tánh
khác nhau của các hạng người nên ngài cho phép Màgandiya
xuất gia. Ở đây bản P cũng nói Màgandiya đắc quả
A-la-hán nhưng với nhiều chi tiết hơn.
Chúng
ta nhận thấy rằng bản C thích trình bày những thần thông
của Phật, trong khi bản P không nhắc tới, như trong NC 27,
sau khi Phật thuyết pháp, kinh C 201, Trà đế, còn thêm,
lúc ấy ba vạn thế giới rung động. Trong NC83, kinh C72, Trường
thọ vương bản khởi, đức Thế tôn sau khi đọc lên
bài kệ, đã vận thần thông bay ngang hư không và đến làng
Bà-la-lâu-la (P'o-lo-lou-lo) trong khi kinh P128,Tùy phiền
não, không nói. Cũng vậy trong NC54, kinh C132, Lại-tra-hòa-la,
nói Tôn giả Lại-tra-hòa-la bay về rừng Thâu Lô Tra (Yu-lu-cha).
trong khi kinh P82 quên chi tiết ấy. Bản C cũng ưa nói đến
Tôn giả A Nan đứng sau đức Phật quạt cho Ngài hoặc hầu
đức Phật tay cầm phất trần, trong khi bản P hoàn toàn không
nhắc đến những chi tiết ấy như ở NC15, NC42, NC67, NC96,
NC22. Đôi khi một trong hai bản thêm một chi tiết. Như trong
NC35, bản P49, Brahmanimantanika, thêm tên bà la môn là Baka.
Trong NC44, kinh P66, Latukìkopana, tên của Tỳ-kheo là Udàyì;
trong NC39, kinh P56, Upàli, tên người thợ nhuộm là Rattapàni.
Những tên này không có trong bản C. Đôi khi bản P thêm một
chi tiết. Như trong NC64, P99, kinh Subha, thêm cuộc gặp
gỡ giữa Subha và bà la môn Jànussonì. Trong NC94,
kinh P140, Giới phân biệt, thêm rằng Pukkusàti xin
đức Phật xuất gia thọ giới, nhưng đức Phật từ chối
vì ông không có y bát. Trong khi đi tìm y bát, ông bị bò húc
chết. Đôi khi, ta để ý điều ngược lại là bản C cho nhiều
chi tiết hơn. Như trong NC3, C88, Cầu pháp kinh, đức Thế tôn
đau lưng muốn nằm nghỉ, gấp tư y Uất đa la tăng (yu-to-lo-sêng)
trải lên giường, cuộn tròn y Tăng già lê (sêng-chia-li)
làm thành cái gối và nằm xuống bên hông phải hai chân duỗi
ra chồng lên nhau. Nhưng bản P chỉ nói rằng đấng Thiện
thệ đứng lên khỏi chỗ ngồi và đi vào tinh xá. Trong NC89,
kinh C170, Anh vũ kinh, thêm câu chuyện về con chó của Anh-vũ-ma-nạp
Đô-đề-tử (Ying-wu-mo-na-tu-t'i-tzu), trong NC83, kinh C72,
Trường thọ vương bản khởi kinh, thêm câu chuyện về Phạm-ma-đạt-đa
(C: Fan-mo-ta-to; P: brahmadatta), về đức Phật làm
bạn với voi.
Như
vậy những điểm tương đồng mà ta thấy được ở đây
chứng tỏ có một nguồn chung các dữ liệu mà hai bản C và
P đều theo, những điểm dị biệt biểu lộ đặc tính của
mỗi bộ phái hoặc lỗi lầm của những người kết tập.
Chúng cũng chứng tỏ rằng vào thời gian kết tập, nhiều
dữ kiện quá mờ nhạt lẫn lộn nên đã đưa đến những
tường thuật mâu thuẫn trong hai bản kinh C và P.