Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt

29 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10141)
31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991

31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt
 (Sigàlovàda sutta)

Như vậy tôi nghe.

 1. Một thời Thế Tôn sống ở Ràjagaha (Vương Xá thành), tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivàpa (chỗ tìm ăn của loài sóc). Lúc bấy giờ, Singàlaka (Thi-ca-la-việt), gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.

 2. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực. Thế Tôn thấy Singàlaka, gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng. Thấy vậy Ngài nói với Singàlaka, gia chủ tử:

 - Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông... hướng Thượng?

 - Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con: "Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng". Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông... hướng Thượng.

 - Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.

 - Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!

 - Này Gia chủ tử, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

 - Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 Singàlaka, gia chủ tử vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

 3. - Này Gia chủ tử, đối với vị Thánh đệ tử, bốn nghiệp phiền não được diệt trừ, không làm ác nghiệp theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân để phung phí tài sản. Vị này, nhờ từ bỏ mười bốn ác pháp, trở thành vị che chở sáu phương; vị này đã thực hành để chiến thắng hai đời, vị này đã chiến thắng đời này và đời sau. Sau khi thân hoại mạng chung, vị này sanh ở thiện thú, Thiên giới.

 Thế nào là bốn nghiệp phiền não đã được diệt trừ? Này Gia chủ tử, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo. Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 4. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Sát sanhtrộm cắp,
 Nói láo, lấy vợ người,
 Kẻ trí không tán thán,
 Những hạnh nghiệp như vậy.

 5. Thế nào là không làm ác nghiệp theo bốn lý do? Ác nghiệp làm do tham dục, ác nghiệp làm do sân hận, ác nghiệp làm do ngu si, ác nghiệp làm do sợ hãi. Này Gia chủ tử, vì thị Thánh đệ tử không tham dục, không sân hận, không ngu si, không sợ hãi, nên không làm ác nghiệp theo bốn lý do.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 6. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Ai phản lại Chánh pháp,
 Vì tham, sân, bố, si,
 Thanh danh bị sứt mẻ
 Như mặt trăng đêm khuyết.
 Ai không phản Chánh pháp,
 Vì tham, sân, bố, si,
 Thanh danh được tròn đủ,
 Như mặt trăng đêm đầy.

 7. Thế nào là không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản? Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố phi thờinguyên nhân phung phí tài sản. La cà đình đám hí viện là nguyên nhân phung phí tài sản. Ðam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du ác hữunguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.

 8. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: Tài sản hiện tại bị tổn thất, đấu tranh tăng trưởng, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sau nguy hiểm như vậy.

 9. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm: Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài sản không được che chở hộ trì, bị tình nghitác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm như vậy.

 10. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm: Luôn luôn tìm xem chỗ nào có múa, chỗ nào có ca, chỗ nào có nhạc, chỗ nào có tán tụng, chỗ nào có nhạc tay, chỗ nào có trống. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm như vậy.

 11. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm: Nếu thắng thì sanh oán thù, nếu thua thì tâm sanh sầu muộn, tài sản hiện tại bị tổn thất, tại hội trường (pháp đình) lời nói không hiệu lực, bằng hữu đồng liêu khinh miệt, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm vì người đam mê cờ bạc không xứng để có vợ. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm như vậy.

 12. Này Gia chủ tử, thân cận các ác hữu có sáu nguy hiểm: Những kẻ cờ bạc, loạn hành, nghiện rượu, những kẻ trá ngụy, lường gạt, bạo động là những người bạn, là những thân hữu của người ấy. Này Gia chủ tử, thân cận ác hữu có sáu nguy hiểm như vậy.

 13. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm: "quá lạnh", không làm việc; "quá nóng", không làm việc; "quá trễ" không làm việc; "quá sớm", không làm việc; "tôi đói quá", không làm việc; "tôi quá no", không làm việc. Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng lên, tài sản có rồi bị tiêu thất. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm như vậy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 14. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Có bạn gọi bạn rượu,
 Có bạn, bạn bằng mồm,
 Bạn lúc thật hữu sự,
 Mới xứng danh bạn bè.
 Ngủ ngày, thông vợ người,
 Ưa đấu tranh, làm hại,
 Thân ác hữu, xan tham,
 Sáu sự não hại người.
 Ác hữu, ác bạn lữ,
 Ác hạnh, hành ác xứ,
 Ðời này cả đời sau,
 Hai đời, người bị hại.
 Cờ bạc và đàn bà,
 Rượu chè, múa và hát
 Ngủ ngày, đi phi thời
 Thân ác hữu, xan tham,
 Sáu sự não hại người.
 Chơi xúc xắc, uống rượu
 Theo đuổi đàn bà người,
 Lẽ sống của người khác,
 Thân cận kẻ hạ tiện,
 Không thân cận bậc trí,
 Người ấy tự héo mòn,
 Như trăng trong mùa khuyết.
 Rượu chè không tiền của,
 Khao khát, tìm tửu điếm,
 Bị chìm trong nợ nần,
 Như chìm trong bồn nước,
 Mau chóng tự hại mình,
 Như kẻ mất gia đình.
 Ai quen thói ngủ ngày,
 Thức trọn suốt đêm trường,
 Luôn luôn say sướt mướt,
 Không thể sống gia đình.
 Ở đây ai hay than:
 Ôi quá lạnh, quá nóng,
 Quá chiều, quá trễ giờ,
 Sẽ bỏ bê công việc.
 Lợi ích, điều tốt lành,
 Bị trôi dạt một bên.
 Ai xem lạnh và nóng,
 Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
 Làm mọi công chuyện mình,
 Hạnh phúc không từ bỏ.

 15. Này Gia chủ từ, có bốn hạng người phải xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người khéo nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

 16. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm, làm vì mưu lợi cho mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

 17. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Tỏ lộ thân tình việc đã qua; tỏ lộ thân tình việc chưa đến; mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

 18. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Ðồng ý các việc ác; không đồng ý các việc thiện; trước mặt tán thán; sau lưng chỉ trích. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

 19. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Là bạn khi mình đam mê các loại rượu; là bạn khi mình du hành đường phố phi thời; là bạn khi mình la cà đình đám hý viện; là bạn khi mình đam mê cờ bạc. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 20. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Người bạn gì cũng lấy,
 Người bạn chỉ nói giỏi,
 Người nói lời nịnh hót,
 Người tiêu pha xa xỉ.
 Cả bốn, không phải bạn,
 Biết vậy, người trí tránh,
 Như đường đầy sợ hãi.

 21. Này Gia chủ tử, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật: Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.

 22. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật: Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.

 23. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật: Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.

 24. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật: Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.

 25. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật: Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 26. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
 Bạn chung thủy khổ vui,
 Bạn khuyến khích lợi ích,
 Bạn có lòng thương tưởng.
 Biết rõ bốn bạn này,
 Người trí phục vụ họ,
 Như mẹ đối con ruột.
 Người trí giữ giới luật,
 Sáng như lửa đồi cao.
 Người tích trữ tài sản,
 Như cử chỉ con ong.
 Tài sản được chồng chất,
 Như ụ mối đùn cao,
 Người cư xử như vậy,
 Chất chứa các tài sản,
 Vừa đủ để lợi ích
 Cho chính gia đình mình.
 Tài sản cần chia bốn
 Ðể kết hợp bạn bè:
 Một phần mình an hưởng,
 Hai phần dành công việc,
 Phần tư, phần để dành,
 Phòng khó khăn hoạn nạn.

 27. Này Gia chủ tử, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào? Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Ðông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.

 28. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Ðông: "Ðược nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đìnhtruyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời". Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Ðông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

 Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Ðông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Ðông được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 29. Này Gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: Ðứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

 Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 30. Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ; Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

 Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 31. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

 Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 32. Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

 Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương tưởng đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 33. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Bà-la-môn, Sa-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.

 Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổnthoát khỏi các sự sợ hãi.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

 34. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:

 Cha mẹ là phương Ðông,
 Sư trưởng là phương Nam,
 Vợ chồng là phương Tây,
 Bạn bè là phương Bắc,
 Nô bộc là phương Dưới,
 Sa-môn, Bà-la-môn,
 Có nghĩa là phương Trên.
 Cư sĩgia đình,
 Ðảnh lễ phương hướng ấy.
 Kẻ trí giữ Giới, Luật,
 Từ tốn và biện tài,
 Khiêm nhường và nhu thuận,
 Nhờ vậy được danh xưng.
 Dậy sớm không biếng nhác,
 Bất động giữa hiểm nguy,
 Người hiền, không phạm giới,
 Nhờ vậy được danh xưng.
 Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
 Từ ái, tâm bao dung,
 Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
 Nhờ vậy được danh xưng.
 Bố thíái ngữ,
 Lợi hành bất cứ ai,
 Ðồng sự trong mọi việc,
 Theo trường hợp xử sự.
 Chính những nhiếp sự này,
 Khiến thế giới xoay quanh,
 Như bánh xe quay lăn,
 Vòng theo trục xe chính.
 Nhiếp sự này vắng mặt,
 Không có mẹ hưởng thọ,
 Hay không cha hưởng thọ,
 Sự hiếu kính của con.
 Do vậy bậc có trí,
 Ðối với nhiếp pháp này,
 Như quán sát chấp trì,
 Nhờ vậy thành vĩ đại,
 Ðược tán thánh, danh xưng.

 35. Khi được nghe vậy, Singàlaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

 Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

 [Xem bản dịch Anh ngữ]

 31. Sigalovada Sutta
 The Discourse to Sigala

 (The Layperson's Code of Discipline)
 Translated from the Pali by Narada Thera
For free distribution only,
 by arrangement with the Buddhist Publication Society
 From Everyman's Ethics: Four Discourses by the Buddha (WH 14),
 translated by Narada Thera (Kandy: Buddhist Publication Society, 1985)
.

 Thus have I heard:

 On one occasion the Exalted One was dwelling in the Bamboo Grove, the Squirrels' Sanctuary, near Rajagaha.

 Now at that time, young Sigala, a householder's son, rising early in the morning, departing from Rajagaha, with wet clothes and wet hair, worshipped with joined hands the various quarters -- the East, the South, the West, the North, the Nadir, and the Zenith.

 Then the Exalted One, having robed himself in the forenoon took bowl and robe, and entered Rajagaha for alms. Now he saw young Sigala worshipping thus and spoke to him as follows:

 "Wherefore do you, young householder, rising early in the morning, departing from Rajagaha, with wet clothes and wet hair, worship, with joined hands these various quarters -- the East, the South, the West, the North, the Nadir, and the Zenith?"

 "My father, Lord, while dying, said to me: The six quarters, dear son, you shall worship. And I, Lord, respecting, revering, reverencing and honouring my father's word, rise early in the morning, and leaving Rajagaha, with wet clothes and wet hair, worship with joined hands, these six quarters."

 "It is not thus, young householder, the six quarters should be worshipped in the discipline of the noble."

 "How then, Lord, should the six quarters be worshipped in the discipline of the noble? It is well, Lord, if the Exalted One would teach the doctrine to me showing how the six quarters should be worshipped in the discipline of the noble."

 "Well, young householder, listen and bear it well in mind; I shall speak." -- "Very good, Lord," responded young Sigala.

 And the Exalted One spoke as follows:

 "Inasmuch, young householder, as the noble disciple (1) has eradicated the four vices in conduct,[1] (2) inasmuch as he commits no evil action in four ways, (3) inasmuch as he pursues not the six channels for dissipating wealth, he thus, avoiding these fourteen evil things, covers the six quarters, and enters the path leading to victory in both worlds: he is favoured in this world and in the world beyond. Upon the dissolution of the body, after death, he is born in a happy heavenly realm.

 (1) "What are the four vices in conduct that he has eradicated? The destruction of life, householder, is a vice and so are stealing, sexual misconduct, and lying. These are the four vices that he has eradicated."

 Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 Killing, stealing, lying and adultery,
 These four evils the wise never praise.

 (2) "In which four ways does one commit no evil action? Led by desire does one commit evil. Led by anger does one commit evil. Led by ignorance does one commit evil. Led by fear does one commit evil.[2]

 "But inasmuch as the noble disciple is not led by desire, anger, ignorance, and fear, he commits no evil."

 Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 Whoever through desire, hate or fear,
 Or ignorance should transgress the Dhamma,
 All his glory fades away
 Like the moon during the waning half.
 Whoever through desire, hate or fear,
 Or ignorance never transgresses the Dhamma,
 All his glory ever increases
 Like the moon during the waxing half.

 (3) "What are the six channels for dissipating wealth which he does not pursue?

 (a) "indulgence in intoxicants which cause infatuation and heedlessness;
 (b) sauntering in streets at unseemly hours;
 (c) frequenting theatrical shows;
 (d) indulgence in gambling which causes heedlessness;
 (e) association with evil companions;
 (f) the habit of idleness.

 (a) "There are, young householder, these six evil consequences in indulging in intoxicants which cause infatuation and heedlessness:

 (i) loss of wealth,
 (ii) increase of quarrels,
 (iii) susceptibility to disease,
 (iv) earning an evil reputation,
 (v) shameless exposure of body,
 (vi) weakening of intellect.

 (b) "There are, young householder, these six evil consequences in sauntering in streets at unseemly hours:

 (i) he himself is unprotected and unguarded,
 (ii) his wife and children are unprotected and unguarded,
 (iii) his property is unprotected and unguarded,
 (iv) he is suspected of evil deeds,[3]
 (v) he is subject to false rumours,
 (vi) he meets with many troubles.

 (c) "There are, young householder, these six evil consequences in frequenting theatrical shows:

 "He is ever thinking:

 (i) where is there dancing?
 (ii) where is there singing?
 (iii) where is there music?
 (iv) where is there recitation?
 (v) where is there playing with cymbals?
 (vi) where is there pot-blowing?[4]

 (d) "There are, young householder, these six evil consequences in indulging in gambling:

 (i) the winner begets hate,
 (ii) the loser grieves for lost wealth,
 (iii) loss of wealth,
 (iv) his word is not relied upon in a court of law,
 (v) he is despised by his friends and associates,
 (vi) he is not sought after for matrimony; for people would say he is a gambler and is not fit to look after a wife.

 (e) "There are, young householder, these six evil consequences in associating with evil companions, namely: any gambler, any libertine, any drunkard, any swindler, any cheat, any rowdy is his friend and companion.

 (f) "There are, young householder, these six evil consequences in being addicted to idleness:

 "He does no work, saying:

 (i) that it is extremely cold,
 (ii) that it is extremely hot,
 (iii) that it is too late in the evening,
 (iv) that it is too early in the morning,
 (v) that he is extremely hungry,
 (vi) that he is too full.

 "Living in this way, he leaves many duties undone, new wealth he does not get, and wealth he has acquired dwindles away."

 Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 "One is a bottle friend; one says, 'friend, friend' only to one's face; one is a friend and an associate only when it is advantageous.

 "Sleeping till sunrise, adultery, irascibility, malevolence, evil companions, avarice -- these six causes ruin a man.

 "The man who has evil comrades and friends is given to evil ways, to ruin does he fall in both worlds -- here and the next.

 "Dice, women, liquor, dancing, singing, sleeping by day, sauntering at unseemly hours, evil companions, avarice -- these nine[5] causes ruin a man.

 "Who plays with dice and drinks intoxicants, goes to women who are dear unto others as their own lives, associates with the mean and not with elders -- he declines just as the moon during the waning half.

 "Who is drunk, poor, destitute, still thirsty whilst drinking, frequents the bars, sinks in debt as a stone in water, swiftly brings disrepute to his family.

 "Who by habit sleeps by day, and keeps late hours, is ever intoxicated, and is licentious, is not fit to lead a household life.

 "Who says it is too hot, too cold, too late, and leaves things undone, the opportunities for good go past such men.

 "But he who does not regard cold or heat any more than a blade of grass and who does his duties manfully, does not fall away from happiness."

 * * *

 "These four, young householder, should be understood as foes in the guise of friends:

 (1) he who appropriates a friend's possessions,
 (2) he who renders lip-service,
 (3) he who flatters,
 (4) he who brings ruin.

 (1) "In four ways, young householder, should one who appropriates be understood as a foe in the guise of a friend:

 (i) he appropriates his friend's wealth,
 (ii) he gives little and asks much,
 (iii) he does his duty out of fear,
 (iv) he associates for his own advantage.

 (2) "In four ways, young householder, should one who renders lip-service be understood as a foe in the guise of a friend:

 (i) he makes friendly profession as regards the past,
 (ii) he makes friendly profession as regards the future,
 (iii) he tries to gain one's favour by empty words,
 (iv) when opportunity for service has arisen, he expresses his inability.

 (3) "In four ways, young householder, should one who flatters be understood as a foe in the guise of a friend:

 (i) he approves of his friend's evil deeds,
 (ii) he disapproves his friend's good deeds,
 (iii) he praises him in his presence,
 (iv) he speaks ill of him in his absence.

 (4) "In four ways, young householder, should one who brings ruin be understood as a foe in the guise of a friend:

 (i) he is a companion in indulging in intoxicants that cause infatuation and heedlessness,
 (ii) he is a companion in sauntering in streets at unseemly hours,
 (iii) he is a companion in frequenting theatrical shows,
 (iv) he is a companion in indulging in gambling which causes heedlessness."

 Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 The friend who appropriates,
 the friend who renders lip-service,
 the friend that flatters,
 the friend who brings ruin,
 these four as enemies the wise behold,
 avoid them from afar as paths of peril.

 "These four, young householder, should be understood as warm-hearted friends:

 (1) he who is a helpmate,
 (2) he who is the same in happiness and sorrow,
 (3) he who gives good counsel,
 (4) he who sympathises.

 (1) "In four ways, young householder, should a helpmate be understood as a warm-hearted friend:

 (i) he guards the heedless,
 (ii) he protects the wealth of the heedless,
 (iii) he becomes a refuge when you are in danger,
 (iv) when there are commitments he provides you with double the supply needed.

 (2) "In four ways, young householder, should one who is the same in happiness and sorrow be understood as a warm-hearted friend:

 (i) he reveals his secrets,
 (ii) he conceals one's own secrets,
 (iii) in misfortune he does not forsake one,
 (iv) his life even he sacrifices for one's sake.

 (3) "In four ways, young householder, should one who gives good counsel be understood as a warm-hearted friend:

 (i) he restrains one from doing evil,
 (ii) he encourages one to do good,
 (iii) he informs one of what is unknown to oneself,
 (iv) he points out the path to heaven.

 (4) "In four ways, young householder, should one who sympathises be understood as a warm-hearted friend:

 (i) he does not rejoice in one's misfortune,
 (ii) he rejoices in one's prosperity,
 (iii) he restrains others speaking ill of oneself,
 (iv) he praises those who speak well of oneself."

 Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 The friend who is a helpmate,
 the friend in happiness and woe,
 the friend who gives good counsel,
 the friend who sympathises too --
 these four as friends the wise behold
 and cherish them devotedly
 as does a mother her own child.

 The wise and virtuous shine like a blazing fire.
 He who acquires his wealth in harmless ways
 like to a bee that honey gathers,[6]
 riches mount up for him
 like ant hill's rapid growth.

 With wealth acquired this way,
 a layman fit for household life,
 in portions four divides his wealth:
 thus will he friendship win.

 One portion for his wants he uses,[7]
 two portions on his business spends,
 the fourth for times of need he keeps.

 * * *

 "And how, young householder, does a noble disciple cover the six quarters?

 "The following should be looked upon as the six quarters. The parents should be looked upon as the East, teachers as the South, wife and children as the West, friends and associates as the North, servants and employees as the Nadir, ascetics and brahmins as the Zenith.[8]

 "In five ways, young householder, a child should minister to his parents as the East:

 (i) Having supported me I shall support them,
 (ii) I shall do their duties,
 (iii) I shall keep the family tradition,
 (iv) I shall make myself worthy of my inheritance,
 (v) furthermore I shall offer alms in honour of my departed relatives.[9]

 "In five ways, young householder, the parents thus ministered to as the East by their children, show their compassion:

 (i) they restrain them from evil,
 (ii) they encourage them to do good,
 (iii) they train them for a profession,
 (iv) they arrange a suitable marriage,
 (v) at the proper time they hand over their inheritance to them.

 "In these five ways do children minister to their parents as the East and the parents show their compassion to their children. Thus is the East covered by them and made safe and secure.

 "In five ways, young householder, a pupil should minister to a teacher as the South:

 (i) by rising from the seat in salutation,
 (ii) by attending on him,
 (iii) by eagerness to learn,
 (iv) by personal service,
 (v) by respectful attention while receiving instructions.

 "In five ways, young householder, do teachers thus ministered to as the South by their pupils, show their compassion:

 (i) they train them in the best discipline,
 (ii) they see that they grasp their lessons well,
 (iii) they instruct them in the arts and sciences,
 (iv) they introduce them to their friends and associates,
 (v) they provide for their safety in every quarter.

 "The teachers thus ministered to as the South by their pupils, show their compassion towards them in these five ways. Thus is the South covered by them and made safe and secure.

 "In five ways, young householder, should a wife as the West be ministered to by a husband:

 (i) by being courteous to her,
 (ii) by not despising her,
 (iii) by being faithful to her,
 (iv) by handing over authority to her,
 (v) by providing her with adornments.

 "The wife thus ministered to as the West by her husband shows her compassion to her husband in five ways:

 (i) she performs her duties well,
 (ii) she is hospitable to relations and attendants[10]
 (iii) she is faithful,
 (iv) she protects what he brings,
 (v) she is skilled and industrious in discharging her duties.

 "In these five ways does the wife show her compassion to her husband who ministers to her as the West. Thus is the West covered by him and made safe and secure.

 "In five ways, young householder, should a clansman minister to his friends and associates as the North:

 (i) by liberality,
 (ii) by courteous speech,
 (iii) by being helpful,
 (iv) by being impartial,
 (v) by sincerity.

 "The friends and associates thus ministered to as the North by a clansman show compassion to him in five ways:

 (i) they protect him when he is heedless,
 (ii) they protect his property when he is heedless,
 (iii) they become a refuge when he is in danger,
 (iv) they do not forsake him in his troubles,
 (v) they show consideration for his family.

 "The friends and associates thus ministered to as the North by a clansman show their compassion towards him in these five ways. Thus is the North covered by him and made safe and secure.

 "In five ways should a master minister to his servants and employees as the Nadir:

 (i) by assigning them work according to their ability,
 (ii) by supplying them with food and with wages,
 (iii) by tending them in sickness,
 (iv) by sharing with them any delicacies,
 (v) by granting them leave at times.

 "The servants and employees thus ministered to as the Nadir by their master show their compassion to him in five ways:

 (i) they rise before him,
 (ii) they go to sleep after him,
 (iii) they take only what is given,
 (iv) they perform their duties well,
 (v) they uphold his good name and fame.

 "The servants and employees thus ministered to as the Nadir show their compassion towards him in these five ways. Thus is the Nadir covered by him and made safe and secure.

 "In five ways, young householder, should a householder minister to ascetics and brahmins as the Zenith:

 (i) by lovable deeds,
 (ii) by lovable words,
 (iii) by lovable thoughts,
 (iv) by keeping open house to them,
 (v) by supplying their material needs.

 "The ascetics and brahmins thus ministered to as the Zenith by a householder show their compassion towards him in six ways:

 (i) they restrain him from evil,
 (ii) they persuade him to do good,
 (iii) they love him with a kind heart,
 (iv) they make him hear what he has not heard,
 (v) they clarify what he has already heard,
 (vi) they point out the path to a heavenly state.

 "In these six ways do ascetics and brahmins show their compassion towards a householder who ministers to them as the Zenith. Thus is the Zenith covered by him and made safe and secure." Thus spoke the Exalted One. And when the Master had thus spoken, he spoke yet again:

 The mother and father are the East,
 The Teachers are the South,
 Wife and Children are the West,
 The friends and associates are the North.

 Servants and employees are the Nadir,
 The ascetics and brahmins are the Zenith;
 Who is fit to lead the household life,
 These six quarters he should salute.

 Who is wise and virtuous,
 Gentle and keen-witted,
 Humble and amenable,
 Such a one to honour may attain.

 Who is energetic and not indolent,
 In misfortune unshaken,
 Flawless in manner and intelligent,
 Such a one to honour may attain.

 Who is hospitable, and friendly,
 Liberal and unselfish,
 A guide, an instructor, a leader,
 Such a one to honour may attain.

 Generosity, sweet speech,
 Helpfulness to others,
 Impartiality to all,
 As the case demands.

 These four winning ways make the world go round,
 As the linchpin in a moving car.
 If these in the world exist not,
 Neither mother nor father will receive,
 Respect and honour from their children.

 Since these four winning ways
 The wise appraise in every way,
 To eminence they attain,
 And praise they rightly gain.

 When the Exalted One had spoken thus, Sigala, the young householder, said as follows:

 "Excellent, Lord, excellent! It is as if, Lord, a man were to set upright that which was overturned, or were to reveal that which was hidden, or were to point out the way to one who had gone astray, or were to hold a lamp amidst the darkness, so that those who have eyes may see. Even so, has the doctrine been explained in various ways by the Exalted One.

 "I take refuge, Lord, in the Buddha, the Dhamma, and the Sangha. May the Exalted One receive me as a lay follower; as one who has taken refuge from this very day to life's end."
 Notes
 1. kamma-kilesa, lit., 'actions of defilement.' [Go back]

 2. These are the four agati, 'evil courses of action': chanda, dosa, moha, bhaya. [Go back]

 3. Crimes committed by others. [Go back]

 4. A kind of amusement. [Go back]

 5. The Pali original has here "six causes" as two compound words and one double-term phrase are counted as units. [Go back]

 6. Dhammapada v. 49: "As a bee, without harming the flower, its colour or scent, flies away, collecting only the honey..." [Go back]

 7. This portion includes what is spent on good works: gifts to monks, charity, etc. [Go back]

 8. "The symbolism is deliberately chosen: as the day in the East, so life begins with parents' care; teacher's fees and the South are the same word: dakkhina; domestic cares follow when the youth becomes man, as the West holds the later daylight; North is 'beyond' (uttara), so by help of friends, etc., he gets beyond troubles." -- (Rhys Davids) [Go back]

 9. This is a sacred custom of the Aryans who never forgot the dead. This tradition is still faithfully observed by the Buddhists of Sri Lanka who make ceremonial offerings of alms to the monks on the eighth day, in the third month, and on each anniversary of the demise of the parents. Merit of these good actions is offered to the departed after such ceremony. Moreover after every punna-kamma (good action), a Buddhist never fails to think of his parents and offer merit. Such is the loyalty and the gratitude shown to parents as advised by the Buddha. [Go back]

 10. lit., 'the folk around' (parijana). [Go back]

 Source: http://www.accesstoinsight.org/canon/digha/dn31.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12109)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12006)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11959)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11848)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14524)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12902)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13055)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15319)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12221)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14275)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14157)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24613)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant