Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

32. Kinh A-sá-nang-chi

29 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10111)
32. Kinh A-sá-nang-chi

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991

 32. Kinh A-sá-nang-chi
 (Atànàtiya sutta)
Như vậy tôi nghe.

 1. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Bốn Thiên vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân Yakkha (Dạ-xoa), đại quân Gandhabba (Càn-thát-bà), đại quân Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) và đại quân Nàga (Na-già), án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Các vị Dạ-xoa, có vị đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng, rồi ngồi xuống một bên.

 2. Sau khi ngồi xuống một bên, đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:

 - Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn, Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu. Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Ðối với họ, Pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng. Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Atànàtiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để học được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tại họa.

 Thế Tôn im lặng chấp thuận.

 3. Rồi đại vương Vessavana, biết được Thế Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Atànàtiya Hộ Kinh:

 Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi),
 Sáng suốt và huy hoàng!
 Ðảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí)
 Có lòng thương muôn loài!
 Ðảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà),
 Thanh tịnh, tu khổ hạnh!
 Ðảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn),
 Vị nhiếp phục ma quân!
 Ðảnh lễ Konàgamana, (Câu-na-hàm)
 Bà-la-môn viên mãn!
 Ðảnh lễ kassapa (Ca-diếp),
 Vị giải thoát muôn mặt!
 Ðảnh lễ Angirasa,
 Vị Thích tử huy hoàng,
 Ðã thuyết chơn diệu pháp,
 Diệt trừ mọi khổ đau!
 Ai yểm ly thế giới,
 Nhìn đời đúng như chơn,
 Vị ấy không hai lưỡi,
 Bậc vĩ đại thanh thoát.
 Cùng đảnh lễ Gotama,
 Lo an lạc Nhơn Thiên
 Trì giới đức viên mãn!
 Bậc vĩ đại thanh thoát!

 4.

 Mặt trời sáng mọc lên,
 Vầng thái dương tròn lớn,
 Khi mặt trời mọc lên,
 Ðêm tối liền biến mất.
 Khi mặt trời mọc lên
 Liền được gọi là ngày.
 Biển cả hải triều động,
 Như hồ nước thâm sâu.
 Ở đấy mọi người biết,
 Chính biển cả hải triều,
 Dân chúng gọi phương ấy
 Là phương Purimà, (phương đông).
 Vị trí vì phương ấy,
 Bậc đại vương danh xưng,
 Chư loài Càn-thát-bà,
 Danh gọi Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương).
 Càn-thát-bà hầu quanh,
 Hưởng múa hát của họ.
 Vua này có nhiều con,
 Ta nghe chỉ một tên,
 Tám mươi và mười một,
 Ðại lực, danh Inda.
 Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
 Thuộc giòng họ mặt trời.
 Từ xa, họ lễ Phật,
 Bậc vĩ đại thanh thoát.
 "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
 Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
 Thiện tâm nhìn chúng con,
 Phi nhơn cũng lễ Ngài".
 Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
 Nên đảnh lễ như vậy,
 "Quý vị xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Chúng con xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Ðảnh lễ Gotama,
 Bậc trí đức viên mãn".

 5.

 Họ được gọi Peta,
 Nói hai lưỡi, sau lưng,
 Sát sanh và tham đắm,
 Ðạo tặc và man trá,
 Dân chúng gọi phương ấy,
 Là phương Dakkhinà (phương Nam).
 Vị trị vì phương ấy,
 Bậc đại vương, danh xưng,
 Chủ loài Kumbhanda (Cưu-bàn-trà)
 Danh gọi Virùlhaka (Tỳ-lâu-lặc).
 Kumbhanda hầu quanh,
 Hưởng múa hát của họ.
 Vua này có nhiều con,
 Ta nghe chỉ một tên,
 Tám mươi và mười một,
 Ðại lực, danh Inda.
 Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
 Thuộc giòng họ mặt trời.
 Từ xa, họ lễ Phật,
 Bậc vĩ đại thanh thoát.
 "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
 Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
 Thiện tâm nhìn chúng con,
 Phi nhơn cũng lễ Ngài".
 Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
 Nên đảnh lễ như vậy,
 "Quý vị xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Chúng con xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Ðảnh lễ Gotama,
 Bậc trí đức viên mãn".

 6.

 Mặt trời sáng lặng xuống,
 Vầng thái dương trong lớn.
 Khi mặt trời lặn xuống.
 Ban ngày liền biến mất.
 Khi mặt trời lặn xuống,
 Liền được gọi là đêm.
 Biển cả hải triều động,
 Như hồ nước thâm sâu,
 Ở đây mọi người hết,
 Chính biển cả hải triều,
 Dân chúng gọi phương ấy,
 Là phương Pacchimà (phương Tây).
 Vị trị vì phương ấy,
 Bậc đại vương, danh xưng.
 Chủ các loài Nàgà,
 Danh Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).
 Loài Nàgà hầu quanh,
 Hưởng múa hát của họ.
 Vua này có nhiều con,
 Ta nghe chỉ một tên,
 Tám mươi và mười một,
 Ðại lực, danh Inda.
 Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
 Thuộc giòng họ mặt trời.
 Từ xa, họ lễ Phật,
 Bậc vĩ đại thanh thoát.
 "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
 Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
 Thiện tâm nhìn chúng con,
 Phi nhơn cũng lễ Ngài".
 Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
 Nên đảnh lễ như vậy,
 "Quý vị xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Chúng con xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Ðảnh lễ Gotama,
 Bậc trí đức viên mãn".

 7.

 Bắc Lô Châu (Uttarakurù) an lạc
 Ðại Neru (Tu-di) đẹp đẽ.
 Tại đấy, mọi người sống
 Không sở hữu, chấp trước.
 Họ không gieo hột giống,
 Không cần phải kéo cày.
 Loài người được thọ hưởng
 Lúa chín khỏi nhọc công.
 Loại gạo không cám trấu,
 Thanh tịnh có hương thơm,
 Ðược nấu chín trên đá,
 Và họ ăn gạo ấy.
 Chỉ cỡi loài bò cái,
 Ði phương này phương khác.
 Chỉ dùng các loài thú
 Ði phương này phương khác.
 Dùng xe đàn bà kéo,
 Ði phương này phương khác.
 Dùng xe đàn ông kéo,
 Ði phương này phương khác.
 Dùng xe con gái kéo,
 Ði phương này phương khác.
 Dùng xe con trai kéo,
 Ði phương này phương khác.
 Họ lên trên các xe,
 Ði khắp mọi phương hướng,
 Ðể phục vụ vua mình.
 Họ cỡi xe voi kéo,
 Xe ngựa, xe chư Thiên,
 Ðối với vua danh xưng,
 Có lâu đài, có kiệu,
 Nhiều thành phố của vua,
 Ðược xây giữa hư không.
 Các thành Atànàtà,
 Kusinàtà, Parakusinàtà, Nàttapuriyà, Parakusitannàtà
 Kapìvanta thuộc phía Bắc,
 Và các thành phố khác,
 Như Janogha, Navanavatiya,
 Ambara, Ambaravatiya,
 Alakamandà,
 Là kinh đô của vua,
 Chỗ Kuvera ở.
 Vị vua đáng kính này,
 Kinh đô tên Visànà.
 Do vậy Kuvera,
 Ðược danh Vessavana.
 Các sứ quán được tên:
 Tatolà, Tattalà, Tatotalà,
 Ojasi, Tejasi, Tatojasi,
 Vua Sùra, Arittha, Nemi.
 Ðây có vùng nước lớn,
 Từ đây mưa đổ xuống,
 Ðược tên Dharanì.
 Tại đây mưa đổ xuống,
 Ðược tên Dharanì.
 Tại đây có giảng đường,
 Tên Bhagalavati,
 Chỗ Dạ-xoa tập hội.
 Tại đây nhiều cây trái,
 Trên cây chim tụ họp,
 Các loại công, loại cò,
 Diệu âm chim Kokilà,
 Ở đây, chim Jiva,
 Kêu tiếng "Hãy sống đi",
 Và tiếng chim kêu lên,
 "Hãy khởi tâm thích thú".
 Nhiều loại chim sai khác,
 Ở rừng và ở hồ,
 Với con vẹt ồn ào,
 Và con chim Mynah,
 Các loại chim thần thoại,
 Gọi là Dandamànavakà.
 Hồ sen Kuvera,
 Chiếu sáng tất cả trời,
 Dân chúng gọi phương ấy,
 Là phương Uttarà (phương Bắc).
 Vị trị vì phương ấy,
 Bậc đại vương danh xưng,
 Chủ các loài Dạ-xoa,
 Ðược gọi Kuvera.
 Các Dạ-xoa hầu quanh,
 Hưởng múa hát của chúng.
 Vua này có nhiều con,
 Ta nghe chỉ một tên,
 Tám mươi và mười một,
 Ðại lực, danh Inda.
 Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn,
 Thuộc giòng họ mặt trời.
 Từ xa, họ lễ Phật,
 Bậc vĩ đại thanh thoát.
 "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân!
 Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
 Thiện tâm nhìn chúng con,
 Phi nhơn cũng lễ Ngài".
 Ðã nhiều lần, nghe hỏi,
 Nên đảnh lễ như vậy,
 "Quý vị xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Chúng con xin đảnh lễ,
 Gotama chiến thắng!
 Ðảnh lễ Gotama,
 Bậc trí đức viên mãn".

 8. Tôn giả, Hộ Kinh Atànàtiya này che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.

 Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Atanatiya này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà... hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)... hoặc Nàga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hốn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.

 9. Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp vua xứ Magadha bị chinh phục. Cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị đại vương, không nghe lời đình của thần các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha - cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, Dạ-xoa hay Dạ-xoa-ni nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ hay Nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, vị này hãy nói lên, kêu lên, van lên với các những vị Dạ-xoa ấy, đại Dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".

 10. Những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sự, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:

 Inda, Soma, và Varuna,
 Bhàradvaja, Pajàpati,
 Candana, Kàmasettha,
 Kinnughandu, Nighandu,
 Panàda và Opamanna,
 Devanita và Màtali,
 Cittasena và Gandhabba.
 Vua Nala, Janesabha,
 Sàtàgira Hemavata,
 Punnuaka, Karatiya, Gula,
 Sivakat và Mucalinda
 Vessàmitta, Yugandhara,
 Gopàla và Suppagedha,
 Hirì, Settì và Mandiya,
 Pancàla Canda, Alavaka,
 Pajjunna, Sumana, Sumukha,
 Dadhimukha Mani Mànicara, Dìgha,
 Atha và Serissaka.

 Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quâncần phải được nói lên, kêu lên, van lên: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".

 11. Này Tôn giả, đây là Hộ Kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.

 Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.

 - Ðại vương, Ðại vương hãy làm điều gì Ðại vương nghĩ là phải thời.

 Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy.

 Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.

 12. Rồi Thế Tôn sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo:

 - Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa:

 "Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi)
 sáng suốt và huy hoàng;
 Ðảnh lễ đấng Sikhi, (Thi-khí)
 có lòng thương muôn loài...

 Này Tôn giả, đó là hộ kinh Atànàtiyà che chở, hộ trì, ... (như trên) ... rồi biến mất tại chỗ".

 13. Này các Tỷ-kheo, hãy học Hộ Kinh Atànàtiyà này, hãy thuộc lòng Kinh Atànàtiyà này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải mái hạnh phúc.

 Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ thọ trì lời dạy Thế Tôn.

 Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11076)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11879)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13529)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33524)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11254)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11321)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11751)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11406)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12462)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15627)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11733)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12549)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12835)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12654)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12610)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12234)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12254)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16734)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14948)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12767)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11806)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16421)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13147)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11733)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10885)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9952)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11659)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant