Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Phần Chánh tông

30 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9572)
3. Phần Chánh tông

KINH THẮNG MAN
Dịch giải: HT. Thích Đức Niệm
Nhà Xuất bản Tôn giáo, Hà Nội 2003

KINH THẮNG MAN 
NHẤT THỪA ĐẠI PHƯƠNG TIỆN

II. PHẦN CHÁNH TÔNG

Phần chánh tông nay y theo nghĩa có thể phân làm hai khoa:

1/ Nhân hạnh quảng đại của Bồ Tát
2/ Quả đức cứu cánh của Như Lai.

Theo như kinh đây nói thứ đệ có thể phân làm hai chương. Nhân hạnh của Bồ Tát thì quảng đại, quả đức của Như Lai thì cứu cánh. Đại thừa thông cả nhân quả. Nhân hạnh của Bồ TátĐại thừa, nên quả đức của Như Lai cũng là Đại thừa. Thế nên quả đức của Phật cũng gọi là Nhất thừa. Nếu lìa Đại thừa chỉ nói Nhất thừa, thế là lìa nhân mà chỉ nói quả. Nhân hạnh của Bồ Tátquả đức của Như Lai nhất quán tương quan bất khả phân ly. Thế nên tu nhân hạnh của Bồ Tát thì đạt được quả đức của Như Lai. Nương quả đức cứu cánh của Như Lai, phát khởi nhân hạnh Bồ Tát quảng đại. Kinh Thắng Man đặc biệt hiển bày nghĩa này, để hướng chánh những lý thuyết hoang đường của thế tục, mà những thuyết này mới xem qua hình như chơn thật, nhưng thật ra là tà ngụy, nên kinh này phân khoa để thuyết minh nhằm hiển bày chánh lý. Nhân hạnh Bồ Tát quảng đại lại có thể phân làm hai khoa quy tín và hạnh nguyện. Do đó, người học Phật trước phải quy y rồi sau mới thọ giới, phát nguyện, tu hành. Đây là quy phạm chung cho tất cả Phật pháp. Kế đến tán thán ngưỡng mộ Phật cầu từ bi nhiếp thọ, tức là thành tínquy y. Trong Thanh văn thừa, khi thọ quy y, giới tử nói: “Con tên họ gì, từ ngày hôm nay cho đến khi hết thọ thân này, nguyện quy y Phật bậc lưỡng túc tôn; quy y Pháp ly dục tôn; quy y Tăng chúng trung tôn, ba ngôi quý báu vì con, cúi xin Tam Bảo nghĩ nhớ từ bi hộ niệm cho”. Chỗ quy yTam Bảo. Theo tinh thần kinh này thì Tam Bảonhất thể. Bởi vì Pháp Bảo, Tăng Bảo y Như Lai mà lập. Chỉ Như Lai mới là thường trú, là chỗ chân thật cứu cánh quy y. Thế nên Thắng Man phu nhơn nương Như Lai làm chỗ quy y. Quy y có nghĩa là trở về y thác nương tựa được sự cứu hộ. Trong văn quy y nói: “Cúi xin Đại Đức nghĩ nhớ, từ bi hộ niệm”. Tức là cầu Tam Bảo nhiếp thọcứu hộ. Do lòng tín kính quy y mà thỉnh Tam Bảo từ bi hộ niệm nhiếp thọ con. Như thế mới là đầy đủ ý nghĩa quy y. Vì vậy, khi bước vào cửa quy y, trước tiêntán thán công đức Phật, tiếp đến là thỉnh Phật từ bi nhiếp thọ. Thắng Man phu nhơn tuy tu đại hạnh đã từ lâu xa, chính đích thân bà thấy Như Lai hiện chứng, nhưng vì để hiển thị cho chúng sanh biết thứ lớp, nên trước trình hiện sự quy tín. Sự kiện hiện chứng này còn mang ý nghĩa được sự chứng tín ở nơi Phật, Pháp, Tăng. Tán Phật tức là hiển thị cảnh giới tự chứng.

CHÁNH VĂN:

Sắc thân Như Lai tuyệt diệu, trong thế gian không ai sánh bằng, thật không thể nghĩ bàn, thế nên nay con cung kính đảnh lễ.

LỜI GIẢI:

Trong việc tán thán công đức Phật trước tiên là tổng tán thán. Cổ đức nói đây là phần tán thán Hóa thân của Phật. Kế đến phần tụng tán thán công đức Pháp thân Phật. Có thể như thế này: Bởi do Thắng Man phu nhơn tâm chí thành mà Phật cảm ứng hiện thân, nên được thấy Phật. Khi được thấy Phật nên tán thán Phật. Do từ sự thấy được thân Phật thanh tịnh sáng ngời không gì sánh bằng, nên bà sâu sắc thấy được công đức chân thật của Như Lai. Như Lai là một trong mười danh xưng về Phật, tức là khế chứng như như thật tướng của các pháp. Trong Kinh Pháp Hoa, Long Nữ tán thán Phật rằng: “Pháp thân Phật thanh tịnh vi diệu, đủ ba mươi hai tướng tốt”. Giống như thân Phật mà Thắng Man phu nhơn đã thấy và khen ngợi. Phật là bậc siêu xuất thế gian đạt đến cứu cánh. Vì vậy, trong thế gian từ phàm phu cho đến Thánh nhơn xưa nay chưa ai bằng. Tất cả pháp trong thế gian cũng không có pháp nào sánh bằng Phật pháp của Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp thế gian đều không thể ví dụ cho thân Phật”. Có lúc lấy hư không để ví dụ thân Phật. Nhưng thực tế hư không cũng không đủ tánh cách để thí dụ thân Phật. Không ai bằng Đức Như Lai. Cũng không có pháp nào làm ví dụ được Đức Như Lai. Tâm thức chúng sanh có thể biết, có thể dùng lời nói để giải bày, ca ngợi Như Lai. Nhưng cũng không thể duyên nơi tâm thức ngôn ngữ, giải thích trọn vẹn về Phật. Vì vậy, nói là không thể dùng tâm nghĩ, miệng nói. Sắc thân của Như Lai vi diệu tuyệt vời, nên nay Thắng Man, con và quyến thuộc thành tâm kính lễ.

CHÁNH VĂN:

Sắc thân Như Lai vô tận, trí huệ Như Lai vô biên. Nhất thiết thường trú, thế nên con quy y.

LỜI GIẢI:

Ba văn tụng trên đây bày tỏ tâm thành đặc biệt tán thán. Thường thì lấy ba đức để tán thán Phật, tức là Trí Đức, Đoạn đứcÂn đức. Những kinh điển Đại thừa tán thán Phật, cũng có ba đức. Như Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: Một là đức Pháp thân, hai là đức Bát nhã, ba đức Giải thoát. Bát nhã tức là Trí đức, Giải thoát tức Đoạn đức. Kinh Niết Bàn gọi đây là “ba đức bí tàng”. Ba đức này không phải một không phải khác, không rộng dài lớn nhỏ, tổng danh là Đại Bát Niết Bàn. Thắng Man phu nhơn thấy Như Lai diệu sắc thân mà đặc biệt riêng tán thán Phật đức. Đây có thể là y cứ vào ba đức giải thoát này vậy. Kinh nói tròn đủ ba đức tức gọi là “Như Lai diệu sắc thân". Trong việc đặc biệt tán thán công đức thì trước tán thán đức Pháp thân. Tán thán Phật đức bao hàm ý nghĩa thuyết minh đối tượng quy y. Luận về Pháp thân Phật, theo Cổ đức xưa có hai thuyết:

1) Phật có hai thân, tức là Hóa thânPháp thân. Phật có ba thân: tức là Pháp thân, Báo thânHóa thân. Như thế Pháp thân là một trong hai hoặc ba thân.

2) Pháp thân là tổng danh xưng của Phật thân. Vì vậy, thân của Nhị thừa gọi là Giải thoát thân. Thân Như Lai gọi là Pháp thân. Theo nghĩa này, thì Pháp thân là tổng nhiếp Phật thân.

Pháp thân Như Lai sắc tướng vi diệu vô cùng. Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng trang nghiêm tốt đẹp. Sắc tướng của Như Lai sáng ngời chiếu khắp tất cả chỗ. Nhưng kinh điển Đại thừa đặc biệt chú trọng chữ “thường”. Như “thường trú” có nghĩa là vô lượng không đoạn diệt. Sắc tướng Phật thường trú vô lượng, trí huệ của Như Lai cũng thường trú vô tận như thế. Tất cả pháp không ngoài sắc và tâm. Tâm vô lậu lấy trí làm chủ. Nói thế có nghĩa là tâm và sắc của Phật đều là vô tận. Thường trú vô tận mới là chỗ rốt ráo để quay về nương tựa quy y. Vì thế nên nói Như Lai là nơi thường trú kết tụ tất cả các pháp đại công đức. Do đức tánh đặc thù nên Thắng Man nói: “Con và cả thảy quyến thuộc v.v…chí thành quy y Như Lai chơn thật thường trú”

Ở đây đối với Đức Như Lai công hạnh nhơn tròn quả đầy thì có nên nói thêm rằng có sắc tướng hay vô sắc tướng không? Điều này đối với giới Phật giáo Trung Hoa thời cổ xưa đã tranh luận rất nhiều. Có người nói Phật thì vô sắc. Có kẻ lại bảo Phật có sắc. Chín chắn nghiên cứu nghĩa căn bản của các kinh điển Đại thừa về lý chơn thường diệu hữu thì thấy Như Lai có sắc. Đây là nhắm thẳng vào Nhị thừa mà nói. Chẳng hạn như thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ v.v….nói Phật nhập Vô dư Niết bàn thì diệt hết thân trí, không thể nói là hữu sắc. hữu tâm. Còn như học thuyết của Thượng Tọa Bộ v.v…lại nói Phật nhập Vô dư y Niết bàn thì sắc không còn, nhưng tịnh trí hay đoạn phiền não, thế là hữu. Theo lý luận này thì có tâm nhưng không có sắc. Tư tưởng này gần giống với tư tưởng Đại Chúng Bộ của Đại thừa là: “Sắc thân Như Lai thật không biên giới…, thọ mạng Như Lai cũng không ngằn mé”. “Phật khắp cả chỗ”. Vì vậy nói “nhập Vô dư Niết bàn” cũng là “chẳng nhập Vô dư Niết bàn”. Với tư tưởng này không những có trí mà còn có sắc nữa. Giáo nghĩa của Đại Chúng Bộ v.v…rất gần với Kinh Pháp Hoa, Kinh Thắng Man v.v….Tinh thần thường trú diệu hữu của Đại thừa là nhằm phá bỏ tư tưởng của hàng Nhị thừa. Thanh văn nói Như Lai nhập Niết bàn thì không còn sắc tướng, đặc biệt chú trọng “giải thoát hữu sắc”. Kinh này tán thán công đức Phật: “Như Lai sắc vô lượng trí huệ cũng như thế”. Điều này rõ ràng hiển bày ý nghĩa Như Lai có sắc. Kinh Niết Bàn nói: “Như Lai xả bỏ sắc thân vô thường, được sắc thân thường trú”. Cũng Kinh Niết Bàn quyển ba có ghi: “Nói không sắc tức là Thanh văn Duyên giác; nói sắc tức là chư Phật Như Lai giải thoát”. Kinh Đại Pháp Cổ cũng nói: “Thường giải thoát không sắc, diệu sắc ngời sáng hằng còn”. Cũng trong kinh này nói: “ Các Phật Thế Tôn đạt đến giải thoát thảy đều có sắc, giải thoát cũng có sắc”. Như Lai giải thoát diệu sắc sáng ngời, đây là hiển thị ý nghĩa thù thắng về dặc tánh chơn thường của Đại thừa . Quả đức cứu cánh của Như Lai có tâm có sắc. Điều này không có gì khác lạ, tức là ở trong tất cả chúng sanh vốn có đầy đủ đức tánh thanh tịnh. Gọi đó là Như Lai tạng, nên nói: “Như Lai tạng có đủ ba mươi hai tướng”. Đây là ý nghĩa căn bản về diệu hữu chơn thường trong Phật pháp Đại thừa.

CHÁNH VĂN:

Hàng phục tâm tội lỗi và luôn cả bốn thứ thân, đã đạt đến chỗ khó điều phục, thế nên kính lễ đấng Pháp Vương.

LỜI GIẢI:

Đây là tán thán đức Giải thoát. Chúng sanh vì hoặc nghiệp trói buộc mà chịu quả khổ sanh tử. Phật thì không bị hoặc nghiệp trói buộc, nên giải thoát sanh tử, tự tại vô ngại, thành đức giải thoát

“Hàng phục” là khiến cho phiền não và nhiễm nghiệp không sanh khởi. Chữ “phục” vốn là đối với “đoạn” mà nói. Phục là áp chế tạm thời không để khởi. Đoạn là nhổ trừ luôn cả gốc rễ, triệt để giải quyết. Nhưng trong kinh luận có lúc cũng gọi phục là tạm thời đoạn, còn đoạn là vĩnh viễn phục. Ở đây nói phục là chỉ tánh cách đoạn rốt ráo mà nói. “Tâm tội lỗi” là tổng quát chỉ nội tâm tội lỗi, mà chủ yếu là căn bản phiền não. Ý nghĩa kinh đây là tất cả đều triệt để giải quyết, nên nói hàng phục tâm tội lỗi.

“Bốn thứ thân”, ý nói hàng phục luôn tất cả bốn thứ tội lỗi sát, đạo, dâm, vọng nơi thân. Trong Phật pháp nói về thân, hàm ý nghĩa rộng và hẹp. Nghĩa hẹp của thân là thân căn; nghĩa rộng của thân là năm căn nơi thân. Hoặc đối miệng ý nói thân, hoặc đối tâm nói thân. Nay đối với tâm nói thân là nghĩa rộng. Phần thân miệng biểu hiện ra hành động thuộc về thân. Như sát sanh, trộm cắp, dâm dục, dối láo, bốn thứ tội ác này đều thuộc về thân. Bốn thứ tội ác này là giới căn bản của tại gia năm giới. Sa di mười giới, Tỳ kheo hai trăm năm mươi giới, Tỳ kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới, và giới Bồ Tát. Còn những giới khác đều là phương tiện hoặc là quyến thuộc của bốn giới này. Nhưng rốt ráo thanh tịnh giới thì chỉ có Phật.Thân tâm xa lìa hết thảy tội ác rốt ráo thanh tịnh tức là hiển thị đức Giải thoát của Phật.

“Chỗ khó hàng phục” tức là chỗ Phật địa. Phật công đức lớn có mười lực, bốn vô sở úy, nên hay hàng phục tất cả mà không bị tất cả hàng phục.. Được như thế là do đã lìa bỏ tất cả ác trược của thân tâmđạt đến chỗ Phật địa. Phật có công đức như vậy, thế nên con nay cung kính đảnh lễ đấng Pháp Vương. Pháp Vương tức chỉ cho Phật, Vương có nghĩa là tự tại. Chúng sanh bị hoặc nghiệp ràng buộc nên không được tự tại. Phật xa lìa tất cả ràng buộc, đương nhiên đối với tất cả pháp được rốt ráo tự tại thành Đại pháp Vương. Nghĩa là Vua tất cả pháp.

CHÁNH VĂN:

Biết tất cả chỗ biết, trí huệ thân tự tại, nhiếp trì tất cả pháp, vì vậy nay kính lễ.

LỜI GIẢI:

Đây là tán thán đức Bát nhã. “Chỗ biết” tức là cảnh giới tâm thức giác liễu. Tâm cảnh của chúng sanh bị chướng ngại chỉ biết được phần ít nào thôi. Trí của Phật đối với tất cả cảnh giới không có gì mà không thông đạt trọn vẹn rốt ráo, nên nói “biết tất cả chỗ”. Học giả Đại Chúng Bộ nói: “Trong một sát na tâm biết rõ tất cả pháp. Một sát na tâm tương ưng Bát nhã biết tất cả pháp”. Vì vậy thường nói Phật có “Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí”.

“Trí huệ thân tự tại” tức là trí huệ có thể biết cảnh giới các pháp một cách tự tại không bị ngăn ngại. Thân có nghĩa là nhóm họp, hội tụ. Trí huệ thân là trí huệ hội tụ. Phật vô lương vô biên trí huệ, nên gọi trí huệ thân. Trí huệ đối với cảnh cố nhiên thông đạt, đồng thời lại hay nhiếp trì tất cả các pháp tại tâm. Đặc tánh của “nhiếp” chẳng khác như gương sáng nhiếp thâu ngoại cảnh ảnh hiện trong gương. Trì là bảo trì mà không làm mất nghĩa của vật. Phật đối tất cả cảnh giới có thể một niệm từ trong tâm hiện tiền, mỗi niệm mỗi niệm suốt biết tất cả pháp, xưa nay chưa từng quên mất. Vì vậy nên xưng trí Phật là Đại viên cảnh trí. Có nghĩa là gương sáng lớn nhiếp thâu tròn đủ. Đại Bát nhã của Phật nhiếp tụ như thế, “nên nay hướng Phật kính kễ”.

CHÁNH VĂN:

Kính lễ sao xứng bằng, kính lễ sao trọn đủ, kính lễ sao cho khắp, kính lễ khó nghĩ bàn.

LỜI BÀN:

Bài tụng này là kết thúc sự tán thán Phật đức. Phật đức vô cùng, tán thán sao cho hết, nên tốt nhất là tổng kết sự tán thán. Nên nói sao xứng bằng, sao tròn đủ, sao cho khắp, khó nghĩ bàn. Những từ ngữ này đều là hình dung Phật đức rộng lớn vô biên mà sự tán thán không thể nào hết. Công đức của Phật vượt ngoài số lượng, xứng bằng, nghĩ bàn, như Kinh Tịnh Danh nói: “Không thể đo lường, quá sự đo lường”. Công đức của Phật không thể nào ví dụ cho giống, cho trọn đủ. Các pháp thế gian hữu hạn với thời giankhông gian, mà công đức của Phật thì rốt ráo suốt cả ba đời, khắp cả mười phương, vô thỉ vô chung, không trong không ngoài. Nghĩ là tâm nghĩ. Bàn là miệng nói. Công đức Phật siêu việt cảnh giới nghĩ bàn, không thể dùng tâm trí của chúng ta nghĩ tưởng, dùng miệng của chúng ta luận bàn. Vì vậy, Phật đức không thể nào tán thán cùng tận, nên bài tụng trên dùng bốn nghĩa để tổng kết sự tán thán

CHÁNH VĂN:

Thương xót che chở hộ trì con, khiến cho giống pháp được tăng trưởng, đời này và đời sau, nguyện Phật thường nhiếp thọ.

LỜI GIẢI: 

Thường thường người Phật tử sau khi làm lễ quy y, cuối cùng bạch với Giới sư: “Nguyện Đại đức nhớ nghĩ từ bi hộ niệm cho” là ý nghĩa để nói lên lòng mong cầu nhiếp thọ. Thắng Man phu nhơn khi tán thán Phật công đức xong, tiếp đến là cầu Phật nhiếp thọ, đây là Đại thừa quy tín. Thương xót tức là bi mẫn. Che chở tức là cầu Phật hộ trì, giúp đỡ. Tại sao lại thỉnh Phật thương xót che chở, hộ trì, khiến giống pháp con được tăng trưởng? Giống pháp là hột giống chủng tử Pháp thân. Do đó, mọi người đều có thể thành Phật. Nghĩa là khiến cho công năng vốn có sanh trưởng, phát triển mới hy vọng thành Phật. Điều này phải cần đến ngoại duyên huân tập dẫn phát, như quy y, thọ giới, ăn chay v.v….Ngài Chơn Đế trong Nhiếp Đại Thừa Luận Thắng nói: “Bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh là chủng tử của Pháp thân, là nguồn gốc Phật đức vị lai”. Trong Phật pháp cầu Phật che chở không mang ý nghĩa hay hình thức cầu bảo hộ của các Thần giáo thường làm, mà là nương thần lực sức gia bị nhiếp thọ của Phật tự mình tinh tấn tu học. Bồ Tát phát tâm hành đạo suốt cả đời vị lai, nên nói không chỉ riêng hiện tại mà là suốt cả đời vị lai nữa, nguyện Phật từ bi thương xót nhiếp thọ cho con!

CHÁNH VĂN:

Ta từ lâu đã an lập ngươi, đời trước đã khai giác, đời này lại nhiếp thọ ngươi, đời sau cũng như vậy.

LỜI GIẢI:

Đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu quy y tín kính của Thắng Man phu nhơn, nên nói: “Ta từ lâu đã an lập ngươi”. An lập đồng nghĩa với thiết lập. Chúng sanh ở trong sanh tử, Đức Phật dùng Phật pháp giáo hóa chúng sanh, dẫn đạo chúng sanh, khiến cho chúng sanh an lập trong Phật pháp. Như Phật đã phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh phát tâm tu hành gọi đó là an lập trong Đại thừa giáo pháp. Phật từ lâu đã dùng Đại thừa pháp giáo hóa Thắng Man phu nhơn , khiến cho Bà an lập trong Đại thừa pháp. Thắng Man phu nhơn cầu thỉnh Phật hiện tại cũng như tương lai nhiếp thọ Bà. Đức Phật nói từ những đời quá khứ, Như Lai đã gia hộ, nhiếp thọ ngươi rồi. Vả lại, không phải Thắng Man chỉ mới liễu ngộ thâm nghĩa của Như Lai trong đời hiện tại, mà nhiều kiếp trước sớm đã được khải giác, tức là đã khai ngộ rồi! Quá khứ đã nhiếp thọ ngươi, hiện tại ngươi lại thỉnh cầu, đương nhiên Như Lai lại nhiếp thọ ngươi, và đời sau cũng lại như vậy. 

CHÁNH VĂN:

Con đã làm công đức, hiện nay và những đời khác, đối với các thiện căn con cũng như thế. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn chứng minh nhiếp thọ cho! Lúc bấy giờ Thắng Man phu nhơn và các quyến thuộc đầu mặt sát đất đảnh lễ Phật.

LỜI GIẢI:

Người tu học Phật pháp Đại thừa tưởng chỉ mới trong một đời này được duyên với Đại thừa, nhưng có biết đâu từ quá khứ xa xưa cũng đã học Đại thừa rồi. Chẳng qua còn sanh tử lưu chuyển, nên tạm thời quên kiếp của mình đó thôi. Nếu như có cơ duyên gặp Phật, Bồ Tát, Thiện Tri thức chỉ điểm thì lập tức liễu giải những việc đã tu học được ở đời quá khứ, Cũng như Thắng Man được Phật khai thị thì liền biết ở đời quá khứ đã trường kỳ tu học, nên ngay khi đó thưa với Phật rằng: “Con ở trong đời quá khứ xác thực đã làm các công đức lành, nhưng không lấy những công đức đó cho là đủ, mà hiện tại cho đến những đời vị lai, con còn phải ở trong Phật pháp tiếp tục nổ lực tinh tấn tu học. Con đối với các công đức thiện căn nhiều này. Không ngừng huân tập tăng tiến trên đường giác ngộ giải thoát. Ngưỡng nguyện Đức Như Lai từ bi thường hay gia hộ nhiếp thọ cho con”.

“Lúc bấy giờ” là chỉ cho thời điểm quy tín tròn đầy. Đức Phật từ bi nhận lời thỉnh cầu tiếp thọ của Thắng Man, nên Thắng Man và các quyến thuộc cung nữ thảy đều tỏ lòng tạ ơn sự hứa khả nhiếp thọ của Phật, thảy đều thành kính đầu mặt sát đất lễ Phật.

Học giả có thể từ trình độ không đồng, nên nhận thức ý nghĩa không đồng xem kinh Phật. Nếu từ nghĩa cạn xem, cho tán thán ý niệm rằng, Thắng Man thấy Phật, quy kính Phật, lễ Phật, tán thán Phật, cầu Phật nhiếp thọ, được Phật nhiếp thọ. Trên bình diện khác, từ ý nghĩa thâm sâu, ta thấy Thắng Man nhơn thấy Phật mà tán thán Như Lai. Nghĩa là bà từ ngộ chứng chơn lý các pháp như như, thấu rõ công đức của Phật, nên xưng tánh tán thán, tức thố lộ cảnh giới chứng ngộ của bà. Chính vì Bà liễu ngộ, nên mới có chánh kiến thấy được đức tướng cứu cánh của Phật và được Phật nhiếp thọ, rồi liền đó được Phật thọ ký.

Thọ ký thành Phật, thông và biệt có hai: 1/ Nói tổng quát tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, đây là thông thọ ký. 2/ Nếu chỉ nói một chúng sanh nào đó sẽ được thành Phật, thì gọi là biệt thọ ký. Với ý nghĩa trên, cũng có thể nói là chưa phát tâm thọ ký và đã phát tâm thọ ký. Ngoài ra còn có hiện tiền thọ ký và không hiện tiền thọ ký. Nay Thắng Man đã phát tâm ở trước Phật, được Phật thọ ký.

CHÁNH VĂN:

Phật ở trước đại chúng liền tuyên nói thọ ký: Ngươi tán thán Như Lai chơn thật công đức, do thiện căn này sẽ ở vô lượng kiếp a tăng kỳ, trong loài trời người làm Tự Tại Vương, sanh ra chỗ nào cũng được thấy ta, tán thán ta như hiện nay không khác. Rồi sẽ lại được cúng dường vô lượng A tăng kỳ Phật, trải qua hai vạn a tăng kỳ kiếp.

LỜI GIẢI:

Trong việc được thọ ký, trước thọ ký nhơn, tức là thọ ký nhơn địa dự định cho Thắng Man phu nhơn ở đời vị lai, nên lúc đó Phật ở trong đại chúng liền vì Thắng Man mà nói lời thọ ký rằng: “Ngươi đối với công đức Phật đã thấu rõ, nên xưng dương tán thán công đức chơn thật của Như Lai. Ngươi do thiện căn tán thán công đức Phật, nên sẽ ở vô lượng a tăng kỳ làm Vua Tự Tại trong loài trời người”.

Chữ “Kiếp” trong Phật pháp là chỉ thời gian, đại để có ba thứ, tiểu, trung và đại kiếp. Ý nghĩa của “a tăng kỳ” nói lên thời gian vô lượng số, là vị thứ một trăm hai mươi sáu trong số lượng Hoa Nghiêm. Vua Tự Tại trong loài trời người, ý nói Thắng Man sẽ được quả báo nhơn địa ở đời vị lai. Thắng Man còn phải tu trải qua trường kỳ mới thành Phật. Thời gian trường kỳ này ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp đều làm Vua Tự Tại trong loài trời người. Trong Phật pháp thường nói hành giả trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật. Nhưng trong kinh Đại thừa nói hành giả cần phải trải qua vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp thành đạo mới kiến tạo được Phật quả. Bồ Tát dùng thần thông nguyện lực cứu độ chúng sanh. Nhưng nếu nói Bồ Tát hành đại hạnh sở cảm quả báo thì không những không bị đọa đường ác, mà ở trong cõi trời người, Bồ Tát vĩnh cữu cũng là nhân vật lãnh đạo tự tại. Như cư sĩ Duy Ma Cật nói: “Nếu ở trong dòng tộc trưởng giả thì được hàng trưởng giả tôn kính; nếu sanh trong hàng cư sĩ thì được hàng cư sĩ tôn kính; nếu sanh trong dòng Sát Đế Lợi thì được Sát Đế Lợi tôn kính; nếu sanh trong dòng Bà la môn thì được Bà la môn tôn kính”. Bồ Tát vì nhiếp hóa chúng sanh nên thường ở địa vị lãnh đạo, thường làm vua trong loài trời người. Trong kinh nói: “ Thập tín thì làm Thiếc Luân Vương; Thập trụ làm Đồng Luân Vương; Thập hạnh làm Ngân Luân Vương; Thập hồi hướng làm Kim Luân Vương. Trong Thập địa, sơ địa làm Tứ Đại Thiên Vương; nhị địa làm Đao Lợi Thiên Vương; tam địa làm Diệm Ma Thiên Vương; nhẫn đến Thập địa Bồ Tát làm Tứ Thiền Thiên Vương. Đây là nói kỳ gian vị lai Thắng Man tu hành được những quả báo thù thắng.

Bồ Tát làm vua trong loài trời người, không phải vì hưởng thụ. Thắng Man trong tương lai sanh bất cứ nơi nào cũng thường thấy gặp Phật. Mỗi lần thấy Phật, Thắng Man đều hiện tiền trước Phật. Từ trong cảnh giới liễu ngộ sâu xa tán thán công đức Phật giống như hôm nay Thắng Man kính lễ tán thán không có mảy may sai khác. Phật lại nói với Thắng Man: “Ở trong thời gian trường kỳ tu tập, ngươi sẽ lại được cúng dường vô lượng A tăng kỳ số Phật”. Cúng dường không chỉ vật chất cúng dường, mà chân thật ý nghĩa đại cúng dường chính là cần phải như Phật đã nói, y theo đó hành trì mới là chân thật ý nghĩa thực hành. Cúng dường nhiều Phật như thế trải qua thời gian trường kỳ hai vạn a tăng kỳ mới có thể thành Phật. Đây là nói nhơn địa tu hành trong tương lai của Thắng Man phu nhơn. 

CHÁNH VĂN:

Sẽ được thành Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cõi nước Phật kia không có các tướng trạng xấu ác, suy, già, bịnh, não loạn, và các thứ khổ, các điều không như ý, cũng không có nghe đến danh từ ác đạo. Chúng sanh cõi nước đó sắc thân tốt đẹp, mạnh khỏe thọ mạng lâu dài, đầy đủ ngũ dục vi diệu, thảy đều an vui, hơn cả các cõi trời Tha hóa Tự Tại. Chúng sanh cõi nước đó thuần nhất Đại thừa. Các chúng sanh tu tập căn lành đều tập họp về cõi nước đó.

LỜI GIẢI:

Được Phật truyền thọ quả là hàm hữu ý nghĩa dự định Thắng Man viên thành Phật quả. Khi thành Phật tất phải có hóa chủ, hóa thổ, hóa chúng, hóa pháp. Nay y bốn thứ này phân biệt thọ ký. Trước tiên nói hóa chủ: Đến lúc đó, Thắng Man sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Nhơn khi Thắng Man thấy “Phật hiện ở không trung, phóng hào quang sáng khắp”, bà liền tán thán Phật, là nhân tố tăng trưởng thành thục công đức thiện căn, nên khi thành Phật hiệu là Phổ Quang.

Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri là danh xưng chung cho tất cả Phật. Thông hiệu của Phật gồm có mười hiệu, thường gọi tắt là Thế Tôn. Trong kinh có những chỗ thường nói về ba danh xưng này. Như Lai, Phạn ngữ Tathâgatha, có nghĩa là khế hợp tất cả các pháp như nhưthành tựu. Ứng, Phạn ngữ Arahat, thường dịch là Ứng cúng. Kỳ thực danh xưng này hàm hữu ba ý nghĩa: Ứng sát tặc, tức là diệt sạch phiền não. Ứng vô sanh, tức không còn sanh tử luân hồi. Ứng cúng, nghĩa là xứng đáng được sự cúng dường. Nhị thừa xứng đáng ứng thọ nhơn thiên cúng dường. Phật ứng thọ đời đời tất cả phàm thánh cúng dường. Chánh biến tri, Phạn ngữ là Samyaksam-bouddha, thường dịch âm là Tam miệu tam bồ đà hoặcTam miệu tam bồ đề, có nghĩa là chánh thật đích xác trọn vẹn. Kế đến nói hóa độ. Trong cõi nước Phật Phổ Quang kia thanh tịnh không có các đường ác, chỉ có trời, người. Trong loài trời người cũng không có già, bệnh, suy não và cũng không có những phiền khổ bất hợp ý. Chúng sanh trong thế giới Ta bà uế ác có đủ bốn khổ sanh, lão, bệnh, tử. Chúng sanh trong cõi Tịnh độ tuy còn có sanh tử, nhưng không có suy già bệnh tật. Trong thế giới Ta bà của chúng ta đây, thân thể của chúng sanh do tứ đại hòa hợp. Hoặc nương vào thân tứ đại thô kệch yếu đuối, hoặc hoàn cảnh khí hậu, ăn uống v.v… không thích hợp; hoặc phiền não tăng thạnh mà sanh nhiều tham dục lo âu không tránh khỏi sự già, bệnh thống khổ trói buộc. Chúng sanh trong cõi Tịnh độ, y báo của thân tứ đại tinh diệu thanh nhàn, hoàn cảnh, khí hậu, ẩm thực v.v….đều thiện mỹ tốt đẹp, phiền não nhẹ như sóng gợn gió thoảng, không có già, bệnh, khổ. Suy là chỉ cho hiện trạng ngoại vật suy tàn, như kinh tế từ giàu có bỗng chốc biến thành nghèo thiếu v.v…Não là trong lòng nóng nảy phiền não uất ức. Cõi nước Tịnh độ không có sự đau buồn biệt ly, không có sự khổ não oán hận. Vì vậy không có tình trạng không thích ý. Trên đây là nói trên cõi Tịnh độ, không có cái quả khổ. Tiếp theo dưới đây là nói không có nhơn khổ. Nhơn là chỉ trong tương lai cõi nước của Đức Phật Phổ Quang “cũng không có cái tên bất thiện nghiệp ác đạo”. Bất thiện nghiệp ác đạo tức là sát sanh, trộm cắp v.v…mười ác nghiệp đạo gia hạnh, hậu khởi v.v…Chúng sanh cõi Tịnh độ do nghiệp nghe pháp mà tự an vui, khởi tâm tu học tinh tấn, chỉ biết hành thiện, chẳng biết đến điều ác. Vì thế nên cả cái danh xưng ác nghiệp cũng không có trong cõi Tịnh độ. Tiếp theo đây là nói giáo hóa chúng sanh “trong hóa độ”. Chúng sanh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật Phổ Quang sắc thân tốt đẹp, thể lực cường tráng, thọ mạng lâu dài không có chết yểu. Ba điều này tròn đủ tức là Báo thân của chúng sanh cõi nước đó viên mãn. Chúng sanh cõi nước đó không những Báo thân viên mãnthọ dụng ngũ dục cũng đầy đủ, an lạc. Ngũ dục là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm thứ này trong cõi nước Phật Phổ Quang vô cùng tinh hoa mỹ diệu. Tất cả nhu cầu y phục chỗ ở, đường đi, phong cảnh v.v…đều tuyệt trần đầy đủ. Ngũ dục và các nhu cầu vật chất, người chánh tâm học Phật đều xem những thứ này là rắn độc thú dữ, nên chủ trương nhàm chán xa lìa, vui sống thiểu dục tri túc. Kỳ thực ngũ dục và các nhu cầu đầy đủ chưa hẳn nhất định là nguy hiểm, mà vấn đề chính là ở chúng ta có biết sự tự chủ mình để thọ dụng hay không đó thôi. Quan trọng là thọ dụng đừng để bị ngũ dục vật chất chuyển cuốn lôi. Ngũ dục cõi Tịnh độ đương nhiên là thù thắng mỹ diệu hơn cõi Uế độ. Những thứ này là để trang nghiêm Tịnh độ. Do phiền não của chúng sanh cõi Tịnh độ này nhẹ, nên tuy thâm nhập lạc thú thanh sắc mà không bị chuyển, không tạo thành nguyên nhân đọa lạc. Thế nên, ham muốn là tại trong lòng chúng ta chứ đâu phải cảnh giới ngoại vật.

Ngũ dục trong cõi Tịnh độ vô cùng tịnh diệu hơn cả cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Trong thế giới Ta bà mà chúng tán thán đang ở đây ngũ dục bẩn nhơ giả tạm. Ngũ dục tốt nhất là cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Đến cõi Sắc giới sơ thiền thiên không còn thọ dụng hương vị nữa. Từ nhị thiền trở lên, ngũ trần còn không có huống nữa là ngũ dục. Thế nên, chỉ có ngũ dục cõi trời Tha Hóa Tự Tại rất là tinh diệu khoái lạc. Ngũ dục cõi Tịnh độ lại còn thắng diệu hơn là ngũ dục cõi trời Tha Hóa nữa. Thế đủ thấy cõi Tịnh độ thanh tịnh vi diệu biết dường nào. Trong kinh thường nói ngũ dục vi diệu của cõi Tịnh độ như thanh hương quang minh, mỹ vị diệu xúc, thất bảo trang nghiêm, rừng vườn ao hồ xinh đẹp. Đây là nói lên sự thích ứng mong cầu của chúng sanh cõi Dục giới, nên dùng phương tiện này để dẫn đạo chúng sanh. Luận đến cõi Tịnh độ cứu cánh của Phật, thân biến pháp giới, an trụ trong cõi Tịch quang Tịnh độ thì không còn có thể dùng lời để thí dụ miêu tả được nữa. Bản chất của ngũ trần không có ô nhiễm. Ngũ dục là có tình thức đắm nhiễm ngũ trần, che lấp chân tánh Phật tâm, sanh phiền não lầm lạc.

Giờ đây nói đến “hóa pháp” trong cõi Tịnh độ. Do cảnh ngộ bất đồng, nên pháp môn theo đó cũng có sai biệt. Chúng sanh ở trong cõi Tịnh độ của Phổ Quang Như Lai kia thuần túy tu học Đại thừa giáo. Đức Thích Ca xuất hiệnthế giới Ta bà. Bởi căn nghiệp của chúng sanh không đồng mà phương tiện nói Tam thừa giáo, Ngũ thừa giáo. Đặc biệt, ở Ấn Độ thời bấy giờ quan niệm tự lợi dẫy đầy, tạo thành học phong độc thiện, khổ hạnh. Vì để thích ứng căn tánh chúng sanh, nên Đức Phật nói pháp Thanh văn, Duyên giác. Đối với căn tánh chúng sanh thông lợi, phong phú ý hướng lợi tha, đương nhiên Đức Phật dùng Đại thừa pháp giáo hóa. Chúng sanh cõi Tịnh độ đều là duy nhất Đại thừa. Nhưng khi luận đến Đại thừa nhất giáo một cách tinh tế, cũng có sự không đồng. Có hạng từ Nhị thừa chuyển hướng vào Đại thừa thì ít nhiều không tránh khỏi mang theo tập khí tự lợi, dùng trí chứng làm trước. Có hạng từ Thiên thừa phát khởi tâm hướng Đại thừa thì lại thường ẩn tàng mang theo nhơn tố huyền bí của Thần giáo, nên phần nhiều lấy tín ngưỡng làm trước. Có hạng từ Nhơn thừa trực hướng Đại thừa thì lại cho rằng người vốn là Đại thừa Phật pháp, nên đặc biệt trọng nơi từ bi hạnh lợi lạc nhân gian. Trong cõi Tịnh độ của Phổ Quang Như Lai thì do từ Nhơn thừa trực hướng Đại thừa có kiêm nhiếp một phần của Thiên hạnh. Trong cõi Tịnh độ của Phổ Quang Như Lai thì thuần nhất Đại thừa. Các chúng sanh do tu tập căn lành thảy đều tùy nguyện hạnh mà duyên đến tập họp nơi cõi nước đó. Được như vậy là do Thắng Man phu nhơn khi ở nhơn địa tu Bồ Tát hạnh đã kết pháp duyên với quảng đại chúng sanh, nên khi thành Phật, những chúng sanh được phu nhơn nhiếp thọ giáo hóa trong quá khứ do thiện duyên sở cảm tự nhiên tập họp cõi Tịnh độ, hình thành hóa chúng của Phật Phổ Quang Như Lai.

CHÁNH VĂN:

Khi Thắng Man phu nhơn được thọ ký, vô lượng chúng sanh trời người nguyện sanh cõi nước Tịnh độ của bà làm hóa chủ. Đức Thế Tôn thọ ký cho hết thảy đều vãng sanh

LỜI GIẢI:

Trong khi Thắng Man phu nhơn đuợc Phật thọ ký thì vô lượng chúng trờì người được bà nhiếp thọ cũng đều phát nguyện sanh về cõi nước Tịnh độ của phu nhơn làm hóa chủ. Lúc đó, Thắng Man ở trong cung, những cung nữ đều là quyến thuộc của Bà. Do sự thỉnh cầu của Thắng Man phu nhơn mà Phật xuất hiện ở không trung thuyết pháp thọ ký cho Thắng Man, đồng thời những chư thiên đến tham dự pháp hội này cũng đều muốn sẽ được sanh đế cõi nước của Phổ Quang Như Lai để được nghe chánh pháp. Đức Thế Tôn thấy họ có tâm nguyện như thế, nên thọ ký cho họ đều được vãng sanh. Đây không phải chỉ đơn phương Phật Phổ Quang từ bi nguyện lực nhiếp thọ chúng sanh, mà chủ yếu nguyên nhân sâu xa là do những chúng sanh này vốn đã có nhơn duyên thâm sâu cùng với Phật Phổ Quang đồng nguyện đồng hành mới có thể vãng sanh Phật quốc kia. Kinh Duy Ma Cật nói: “Trực tâm là Bồ Tát Tịnh độ. Khi Bồ Tát thành Phật, không luống dối dụ hoặc để mong chúng sanh sanh về nước mình”, cũng là ý nghĩa này. Ý đây không phải nói Bồ Tát thành Phật hình thành Tịnh độ để mong mọi người phát nguyện vãng sanh. Mà là ở trong nhơn địa tu hành Bồ Tát của Như Lai, đã dùng các thứ pháp môn giáo hóa nhiếp thọ chúng sanh, khiến chúng sanh theo Bồ Tát tu học. Nên chi, khi Bồ Tát thành tựu Tịnh độ thì những chúng sanh hữu duyên đồng nguyện đồng hành cộng đồng phát nguyện tu tập đều được vãng sanhtrở thành hóa chúng. Như thế, hóa chủ, hóa chúng và hóa độ do hiệp duyên, hiệp nguyện thực hiện. Ngày nay hành giả tu Tịnh độ chỉ biết có cõi Tịnh độ Phật mong cầu được vãng sanh về đó, chứ không biết học theo Bồ Tát phát nguyện tu hành. Điều này chẳng khác nào chỉ biết mong cầu có trái để ăn mà không cầu giống hạt gieo trồng, thì e rằng Tịnh độ hãy còn xa vời với những người bỏ gốc lấy ngọn, quên nhơn nhớ quả.

Thế nên, sau khi quy y phải nên phát nguyện tu hành. Đã lập chí quy y Đại thừa thì nên thọ Đại thừa giới, phát Đại thừa nguyện, tu Đại thừa hạnh. Ba việc cân thiết là thập thọ, tam nguyệnnhiếp thọ chánh pháp, thực hành đầy đủ là Đại thừa hạnh nguyện.

Trước thuyết minh về “thập thọ”. Trên nói về năng thọ, tức là lĩnh thọ, thừa thọ, bẩm thọ. Dưới nói về sở thọ, tức là những giới pháp mình thọ. Mười Đại thọ, đời Đường Trung Hoa dịch là mười hoằng thệ. Bởi vì thọ giới thì phát nguyện cầu nương, tôn trọng, gìn giữ để cho hành vi được tương ứng với giới pháp. Vì vậyĐại thừatam tụ giới, tức là nguyện đoạn tất cả ác, nguyện độ tất cả chúng sanh, nguyện thành thục tất cả Phật pháp. Như thế thì thọ giới là nguyện và trì giới là hành.

Đại thừa giớiThanh văn giới không đồng, lược nêu dưới đây:

1. Thông giới và Biệt giới: 

Đức Thế Tôn thích ứng thời nghi mà chế ra giới, gọi là Biệt giới. Như cư sĩ tại gia thọ năm giới. Sa di, Sa di ni thọ mười giới. Thức xoa ma na thọ sáu giới pháp. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni thọ cụ túc giới. Giới không những chỉ có tầng thứ cạn sâu, mà còn nam nữ thọ riêng biệt. Thất chúng đệ tử thọ giới riêng biệt. Riêng Bồ Tát giớiThông giới, tức là giới chung cho cả thất chúng đệ tử. Thất chúng đệ tử tin Phật đều có thể thọ giới Bồ Tát. Như trước thọ ngũ giới rồi sau thọ Bồ Tát giới thì gọi là Bồ Tát Ưu bà tắc hoặc Bồ Tát Ưu bà di. Sa di thọ Bồ Tát giới gọi lả Sa di Bồ Tát. Tỳ kheo thọ Bồ Tát giới gọi là Tỳ kheo Bồ Tát giới. Bồ Tát giới không luận là tại gia hay xuất gia nam nữ lão ấu, mà dành cho tất cả người phát Bồ đề tâm đều có thể được thọ, nên gọi là Thông giới hay Thông thọ.

2. Nhiếp luật nghi giớiTam tụ giới

Giới pháp mà bảy chúng Thanh văn thọ là Nhiếp luật nghi giới, tức là chú trọng ở nơi ngừa lỗi, đoạn ác. Trên đây, tuy còn có giới định cộng và đạo cộng, nhưng hai giới này không phải do thọ mà được, mà là chú trọng ở sự lìa ác mà thành. Bồ Tát giới ngoại trừ Nhiếp luật nghi giới ra, còn có Nhiếp chúng sanh giới, Nhiếp Chánh pháp giới. Thế nên, Bồ Tát lấy việc hóa độ chúng sanh làm gốc lấy việc nhiếp hóa chúng sanh làm hạnh nguyện. Từ đây, ta thấy tu học Bồ Tát pháp mới thành Phật chứ không phải chỉ lìa nhiễm ô, không làm ác là có thể đạt thành Phật quả. Cũng như đất trong vườn ruộng không phải chỉ nhổ sạch cỏ thôi, mà cần phải trồng cây hữu dụng mới có quả tốt ngon. Vì vậyBồ Tát cần phải rộng học tất cả Phật pháp, để thành tựu tất cả công đức, và luôn luôn sống trong tinh thần tích cực lợi tha. Nội dung Bồ Tát giới có ba phương diện như thế, đã hiển suất tinh thần Đại thừa giáo.

3. Nghi thức thọ giới:

Giới của bảy chúng Thanh văn đều cần phảiGiới sư truyền thọ, mà đặc biệtthọ cụ túc giới thì cần phảiTam sư Thất chứng v.v…rất trọng nghi thức. Bồ Tát giới thì không trọng nghi thức như vậy. Kinh Bồ Tát Bổn Nghiệp Anh Lạc nói, thọ giới có ba phẩm: Thượng phẩm là thọ nơi Phật, điều này thật khó được. Trung phẩm là thọ với đệ tử xuất gia của Phật. Hạ phẩm là nếu như không gặp Phật xuất thế hoặc Phật đã nhập diệt rồi và trong khoảng ngàn dặm không có đệ tử nào của Phật hiện diện để làm thầy truyền giới thì một mình đối diện trước tượng Phật pháp nguyện tự thọ. Thậm chí trường hợp không có tượng Phật, y theo Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Lúc đó có thể quán tưởng Đức Thích Ca Mâu Ni làm Hòa thượng, Ngài Văn Thù Sư Lợi làm A xà lê, Ngài Di Lặc làm Giáo thọ. Nhất tâm quán tưởng thiết tha, như thế có thể phát nguyện thọ giới Bồ Tát. Trong trường hợp không có Phật, không có đệ tử Phật, có thể ở trước tượng Phật hoặc quán tưởng Phật để tự thọ giới. Nhưng nếu khi có đệ tử Phật vẫn nên cầu thọ giới với đệ tử Phật thì được hợp lý hơn. Bằng không thì phạm vào tội kiêu mạn, hủy báng Tam Bảo và tự mình tạo nhơn biên địa hạ tiện. 

4. Mới được và huân phát:

Giới Thanh văn có thể nói là nung luyện bên ngoài. Đại thừa giới có thể nói là vốn đã huân tập và phát triển. Như bảy chúng Thanh văn thọ giới thì phải trải qua nghi thức thọ giới mới thành. Nhưng khi phạm căn bổn trọng giới thì mất giới. Đồng thời, giới pháp Thanh văngiới tướng theo hình thể thọ suốt đời, một khi mạng sống kết thúc thì giới cũng theo đó mất luôn. Vì vậy, Thanh văn học giả hoặc cho giới thểvô biểu sắc hoặc cho rằng bất tương ưng hành. Quan niệm này gần với giáo nghĩa kinh Bộ Sư của Đại thừa cho rằng: “Dù có công năng suy tư về giới ở trong tâm tương tục thì đó cũng là mới huân tập”. Nghĩa là giới Thanh văn là giới huân tập vào tâm. Trong lúc đó Bồ Tát giới tự tâm vốn có đủ, nên Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc nói: “Tất cả giới Bồ Tát, phàm thánh đều do tự tâm làm thể. Tâm không cùng nên giới cũng vô tận”. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Bảo giới Kim Cang là bổn nguyên của tất cả Phật, là bổn nguyên của tất cà Bồ Tát, là chủng tử Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả tâm thức sắc thân là tình là tâm đều nhập trong giới Phật tánh”. Từ đây có thể cho ta thấy rằng, trong tâm chúng sanh có đủ Như Lai tạng, vốn có công năng ngăn lỗi dứt ác, có công năng từ bi làm lợi ích muôn loài, có công năng định huệ vô biên thanh tịnh công đức. Thọ giới chẳng qua là huân tập phát triển khiến cho nội tâm vốn có giới đức trưởng dưỡng phát triển mà thôi. Vì vậy, Tâm là giới thể. Một khi thọ rồi thì không có mất nữa. Sau khi chết, giới vẫn tồn tại. Nếu có phạm trọng giới hoặc là mất giới rồi, nhưng không trở ngại thọ lại. Thế nên, Bồ Tát từ khi sơ phát tâm cho đến thân này tự tâm giới đức ngày một huân tập tăng trưởng. Hiện tại gặp thiện duyên lại thọ giới, đó chẳng qua là dùng ngoại duyên huân phát cho giới đức thuần thục mà thôi. Đây là điểm đặc biệt của giới Bồ Tát, vĩnh viễn không mất trong bất cứ mọi trường hợpthời gian.

5. Về giới điều:

Tỳ kheo giới, thông thường nói có hai trăm năm mươi giới. Trong lúc đó Tăng Kỳ Luật Bổn nói hai trăm tám mươi giới. Cựu Truyền Hữu Bộ Luật thì nói là hai trăm sáu mươi giới. Như thế trên đại thể tương cận giống nhau. Còn về Bồ Tát giới thì như Kinh Phạm Võng nói có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Trong lúc đó, Luận Du Già thì lại nói có bốn giới trọng và năm mươi mốt giới khinh. Như thế có sự sai biệt rất lớn. Nhưng các trọng giới đại để vẫn gần giống nhau. Thường thì những người thọ giới cứ nghĩ rằng thọ từng điều giới, giữ từng điều để tu. Kỳ thực, ý nghĩa thọ giới rất là sâu sắc. Nghĩa là do từ thọ giới mà dẫn phát công năng nội tâm ngừa lỗi ngưng ác, chứ không hạn cuộc ở nơi giới điều văn tự. Quyết cũng không phải giới luật không có nói đến rồi cứ mặc tình làm. Chẳng hạn như giới rượu, hể là đệ tử Phật từ xuất gia cho đến tại gia đều phải thọ trì. Nhưng không nói đến giới cấm hút thuốc, lại cũng không có giới điều cấm chỉ nha phiến, các thứ độc phẩm v.v…Rồi từ đó, có người cho rằng Phật có cấm hút thuốc thì cứ hút đâu cần phải giới thuốc. Đâu có biết rằng khi Phật ở đời chưa có ác tập thói hư hút thuốc, hút nha phiến, các thứ độc phẩm v.v…, nên thời đó Phật chưa chế giới. Cứ suy luận từ việc Phật chế giới uống rượu, chất men say sưa làm tê dại tác hại thân tâm mà nói, theo tinh thần đó thì người hút thuốc, nha phiến, các thứ độc phẩm v.v…. Phật cũng đều cấm không được ăn hút. Văn tự giới luật quy định rõ ràng, chẳng qua đây tùy thời ứng cơ mà chọn lấy vài điều cần yếu để làm ví dụ thế thôi. Còn đối với người mê chấp thói quen hay cố tâm hương thụ thì dù có văn tự giới luật cũng vô ích. Bồ Tát Giới Kinh Luận nói: “ Dẫu có ít nhiều bất đồng, thì cũng như trên mà lý giải”. Nay Thắng Man thọ thập đại giới, giới điều tuy ít, nhưng ý nghĩa bao quát rất rộng.

CHÁNH VĂN:

Lúc bấy giờ Thắng Man nghe Phật thọ ký xong, cung kính đứng dậy thọ mười đại giới.

LỜI GIẢI:

Trước nói nói về nghi thức thọ giới của Thắng Man. Lúc bấy giờ, là lúc chỉ cho Thắng Man thọ giới. Sau khi Thắng Man phu nhơn nghe Phật thọ ký cho bà rồi, liền đứng dậy cung kính trước Phật phát nguyện thọ mười đại giới. Nghi thức thọ giới thường là quỳ gối cung kính, chấp tay lãnh thọ. Nay Thắng Man đứng cung kính chấp tay lãnh thọ, đây có thể Phật ở giữa không trung truyền giới. Thọ giới thường là trước do Giới sư làm pháp Yết ma, hỏi người cầu thọ giới “Có thể thọ trì được không?”. Người thọ giới đáp “Có thể được”. Nhưng đây Phật không có nói mà Thắng Man nói thẳngcần cầu thọ. Từ sự kiện này, ta thấy Thắng Man đã thâm nhập Phật pháp thuần thục, thấu rõ giới pháp Bồ Tát. Vả lại, trong hoàn cảnh thiếu duyên không còn cách nào khác mà tâm thiết tha thọ Bồ Tát giới, thì trước tượng Phật cũng có thể thọ, cùng lắm không có tượng Phật thì quán tưởng cũng có thể thọ được. Chẳng may ở vào hai trường hợp trên đây thì đâu có ai làm pháp Yết ma? Nay Thắng Man cung kính đối trước Phật là nói lên tánh cách viên thông, nương thần lực Phật hiện. Ý nghĩa này cùng với quán tưởng tượng Phật hoặc đối trước Phật tượng giống nhau “cảm ứng đạo giao nan tư nghì”. Mười đại giới trong Tam tụ tịnh giới phân làm ba loại: Năm điều trước thuộc Nhiếp luật nghi giới, tức là chuyên tâm giữ trọn giới đã thọ. Bốn điều kế là Nhiếp chúng sanh giới. tức là nguyện thực hành hạnh lợi tha, đưa chúng sanh về đạo giác ngộ. Điều cuối cùng là Nhiếp chánh pháp giới, tức là đem hết khả năng phương tiện để hoằng truyền chánh pháp.

CHÁNH VĂN:

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ nay cho đến khi chứng đạo quả Bồ đề, đối với giáo pháp đã thọ không để phạm. 

LỜI GIẢI:

 Đây là tổng tướng của Nhiếp luật nghi giới. Thắng Man đối trước Phật lập thệ nguyện: “Bạch Đức Thế Tôn! Con từ ngày hôm nay trở đi cho đến khi thành Phật, ở trong khoảng thời gian trường kỳ tu học đó, đối với tất cả giới pháp con đã thọ, quyết không để một niệm hủy phạm”. Tâm phạm đã không khởi thì tất nhiên không dẫn đến thân phạm. Khi phát tâm thọ giới không phạm. Nhưng sau đó do động tâm móng ý bất tịnh rồi trôi thả theo vọng niệm không còn sử dụng lực trí thúc liễm thân tâm, nên càng lâu càng lúc phiền não càng thêm tăng trưởng, khiến cho giới lực ngày một yếu kém dần, do đó không thể nghiêm trì mà sanh ra phạm giới. Đại thừa đặc biệt trọng về ý giới. Ý giới rất là trọng yếu. Nghĩa là đối với giới đã thọ thì phải hành trì không khởi tâm phạm mới được gọi là tịnh giới viên mãn.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến ngày thành đạo Bồ đề, đối với các bậc Tôn trưởng không khởi tâm khinh mạn.

LỜI GIẢI: 

Giới tối quan trọng là sát, trộm, dâm, dối. Như mười giới trọng trong Kinh Phạm Võng cũng như Kinh Anh Lạc đều nêu giới sát trước. Nhưng Du Già Giới và Kinh Thắng Man này thọ mười giới đều không nói đến điều đó. Như thế không có nghĩa là không thọ giới sát này, mà thật ra nhơn vì giới này chế chung cho bảy chúng đệ tử, nên trong giới Bồ Tát có thể lược nói.

Các bậc Tôn trưởng. đối với hàng tại giacha mẹ. chú bác, Sư trưởng v.v….Đối với hàng xuất gia là Phật, Hòa thượng, A xà lê, Thượng tọa, Đại đức v.v…Trong Phật giáo xưa nay vốn tôn trọng hàng Thượng tọa. Vì vậy đới với Tôn trưởng nên sanh tâm cung kính, không nên khởi tâm khinh mạn. Có tâm khinh mạn thì đó có lỗi lầm, công đức lành khó sanh. Bởi tâm khinh mạn nên khi thấy những bậc Sư trưởng cũng vậy thôi, không có gì đặc biệt. Từ cái tâm khinh mạn đối với các bậc Tôn trưởng, có thể dẫn đến tà kiến làm tiêu tan tất cả công đức lành. Rồi đưa đến hành vi hủy báng Tam Bảo, chê bai giáo pháp Đại thừa cũng đều từ tâm khinh mạn mà ra. Điều này trong Kinh Phạm Võng quy định thuộc về hủy báng Tam Bảo. Luận Du Già thì cho là chê bai pháp tạng Bồ Tát. Đối với Tôn trưởng có tâm khinh mạn là mặc nhiên hình thành tối đại chướng ngại cho sự tu học Đại thừa pháp. Vì vậy, hành giả trên đường cầu đạo giác ngộ, nên cẩn trọng thọ trì chớ nên để phạm phải.

CHÁNH VĂN: 

 Bạch Đức Thế Tôn! Con từ nay cho đến ngày thành đạo quả Bồ đề, đối với các chúng sanh không khởi tâm giận tức.

LỜI GIẢI: 

Các chúng sanh là danh từ tổng quát chỉ tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình, mà ở đây chủ yếu chỉ loài người. Tâm giận tức tương phản với tâm từ bi. Bồ Tát lấy tâm từ bi làm gốc, nếu có tâm giận tức với chúng sanh là thiếu tâm từ bi, tức là mất ý nghĩa Đại thừa Bồ Tát. Đại hoạn của pháp Thanh văntham tâm. Tâm khởi tham nhiễm thì thật khó mà ra khỏi thế gian. Đại hoạn của Đại thừa phápsân tâm. Tâm khởi giận tức thì không thể nhiếp thọ chúng sanh. Vì vậy Đại thừa phápNhẫn ba la mật để phòng chế sân tâm. Đối với chúng sanh khởi tâm sân hận, điều này ở Kinh Phạm Võng, Luận Du Già đều thuộc giới trọng. 

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi thành đạo Bồ đề, đối với sắc thân và sự thọ dụng phong phú của họ, không khởi tâm đố kỵ.

LỜI GIẢI: 

Bồ Tát phát tâm vì muốn khiến cho tất cả chúng sanh đều được phước lợi an vui. Chúng sanh có được phước lành, an vui thì tâm Bồ Tát mới hoan hỷ. Bồ Tát không giống kẻ phàm phu lúc nào cũng nghĩ mình tốt hơn kẻ khác. Bồ Tát đối với kẻ khác được phước lành an vui tuyệt đối không sanh tâm ganh tỵ. Vì thế, Thắng Man nói: “Con đối với sắc thân và sự thọ dụng phong phú của họ” là chỉ cho chúng sanh có được cái thân thể khỏe mạnh, tướng tốt trang nghiêm. Thọ dụng là chỉ cho chúng sanh có các đồ thượng hảo như y phục, nhà ở, nhu dụng v.v….Đối với những chúng sanh được thọ dụng mỹ diệu phong phú đều không khởi tâm đố kỵ. Giới này đồng như trong Kinh Phạm Võng và Kinh Anh Lạc nói về giới “tự khen mình chê người”. Khen mình chê người thì không thể có tâm tùy hỷ việc tốt của người. Cội gốc của tâm đố kỵ phát xuất từ tâm lượng hẹp hòi ích kỷ, thiếu từ bi.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ nay cho đến khi thành đạo Bồ đề, đối với nội ngoại pháp không khởi tâm lẫn tiếc!

LỜI GIẢI: 

Thắng Man nói: “ Con đối với nội ngoại pháp không khởi tâm lẫn tiếc”. Nội ngoại pháp có thể phân làm hai để gỉải thích:

1/ Nội pháp là chỉ cho chính thân thể của mình. Ngoại pháp là chỉ cho cơm áo, các vật dụng bên ngoài v.v…

2/ Nội pháp là chỉ cho Phật pháp, ngoại pháp là chỉ cho học thuật thế gian.

Bồ Tát thông đạt tất cả pháp đều là vì tất cả chúng sanh. Đại phàm đối thế phápxuất thế pháp, nếu có người đến cầu thì Bồ Tát không nên có tâm lẫn tiếc. Lẫn tiếc bất xả là tiêu mất tinh thần Bồ Tát.

Trên kia đã nói về bốn điều luật nghi giới

1) Đối với Tôn trưởng khởi tâm khinh mạn.

2) Đối với chúng sanh khởi tâm giận hờn.

3) Đối với người khác khởi tâm đố kỵ .

4) Đối với chính mình khởi tâm lẫn tiếc.

Một cách tổng quát nhận định về bốn luật nghi này thì, hai điều trước ước định tôn trọng chê ghét, hai điều sau ước định tự mình và tha nhơn. Bồ Tát lấy lợi ích chúng sanh làm tiền đề, nếu hủy phạm bốn giới này thì mất giới Bồ Tát. Bốn giới căn bản sát sanh, trộm cắp, dâm dục, dối ác xác thật là trọng yếu, nhưng chung cho cả Nhị thừa. Còn khinh mạn, giận tức, đố kỵ, lẫn tiếc bốn thứ tâm này là tối đại chướng ngại cho việc lợi ích chúng sanh. Nó chính là bất cộng giới trọng của Bồ Tát. Nghĩa là giới trọng riêng cho Bồ Tát. Trong KInh Phạm Võng nó thuộc về giới thứ tư trong mười trọng giới, cũng là bốn thù thắng pháp xứ trong Du Già Bồ Tát giới. Nay tóm lược mười trọng giới và bốn luật nghi căn bản của Bồ Tát trong kinh này có sự liên hệ với các kinh khác như sau:

- Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc: Sát sanh, trộm cắp, dâm ái, vọng ngữ, nói tội Bồ Tát, mua bán rượu, khen mình chê người, bỏn sẻn, sân hận, chê bai Tam Bảo. Kinh gọi mười giới này không thể sám hối

- Kinh Phạm Võng: Sát sanh, trộm cắp, dâm ái, vọng ngữ, mua bán rượu, nói tội Bồ Tát, khen mình chê người, bỏn sẻn, sân hận, chê bai Tam Bảo. Kinh gọi là mười trọng giới.

- Luận Du Già: Tự khen mình chê người, bỏn sẻn, sân hận, chê bai Bồ Tát tạng, gọi là bốn tha thắng xứ pháp.

- Kinh Thắng Man: Đố kỵ, bỏn sẻn, giận ghét chúng sanh, khinh mạn tôn trưởng. 

Trên đây cho ta thấy sự liên hệ và khác biệt thành phần luật nghi của các kinh mang tinh thần Đại thừa Bồ Tát.

CHÁNH VĂN: 

 Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi thành đạo Bồ đề, không vị kỷ nhận chứa tài vật cho mình. Phàm hễ có thọ nhận thì thảy đều thành thục chúng sanh bần khổ.

LỜI GIẢI: 

Dưới đây có bốn giới thuộc về Nhiếp chúng sanh giới. Thắng Man tuyên thệ rằng: Từ hôm nay cho đến khi thành đạo quả Bồ đề quyết không vì ích kỷ cho mình mà nhận lãnh chứa chấp tài vật của cải. Thường thì người ta chứa chấp tài vật là vì ích kỷ cho mình hoặc cho gia đình mình. Vì mình mà tích chứa tài vật, ấy là căn nguyên tội ác của xã hội ngày nay. Thanh văn thừa, xuất gia xả bỏ tất cả tài vật mình tích chứa, căn bản là phủ định tất cả tư hữu kinh tế không dám gom chứa. Nhưng Bồ Tát thì không giống như Thanh văn sự nghiệp nhỏ bé hy vọng hẹp hòi, mà Bồ Tátcứu độ chúng sanh, nên phải tích chứa tài vật. Tuy nhiên, điều đặc biệtBồ Tát tích chứa tài vật không phải cho cá nhân mình, nên “phàm hễ có thọ nhận” thì tất cả sự thọ nhận đó “đều vì thành thục chúng sanh bần khổ”. Nghĩa là đem tài vật ra cứu tế cho những chúng sanh bần khổ. Chúng sanh khi được cứu tế thì, từ đó có thể nhiếp hóa họ, khiến cho căn lành của họ thành thục với Phật pháp.

Khi mới phát tâm Bồ đề, người tu Bồ Tát hạnh cần phảitâm nguyện như thế này: Phàm tất cả những gì thuôc sở hữu của mình đều thí xả và cũng là thuộc sở hữu của chúng sanh, tùy nhu cầu của chúng sanh mà thí cho tất cả. Nhưng nói thế không có nghĩa là đem tất cả tài vật bố thí hết một lần rồi thôi. Như thế thuộc về pháp hạnh Tiểu thừa. Nhưng tinh thần Đại thừa Bồ Tát là phải quảng đại. Nghĩa là phải biết dùng tài vật có được cần đem kinh doanh phát triển nó. Vì chúng sanh mà kinh doanh phát triển chứ không phải vì mình. Mình chỉ là người quản lý trông coi để phát triển tài vật làm lợi ích chúng sanh thôi. Trừ hợp lý tiêu phí cho đời sồng ra, khi đem bố thí phải thích ứng nhu cầu chúng sanh bần khổ. Chân tinh thần của Bồ Tát bố thí ba la mậtthể hiện tâm hạnh thực tiễn lợi ích nhân quần xã hội.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi thành đạo Bồ đề, không vì tự kỷ mà hành Tứ nhiếp pháp. Duy nhất vì tất cả chúng sanh nên đem tâm không ái nhiễm, tâm không nhàm đủ, tâm không trở ngại để nhiếp thọ chúng sanh

LỜI GIẢI: 

Tứ nhiếp phápbố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bồ Tát cần nhiếp thọ chúng sanh, nên cần phải thực hành bốn pháp này.

-Bố thí: Dùng tiền của, dùng giáo pháp cho chúng sanh. Chúng sanh thọ nhận của bố thí theo đó dễ tiếp thọ sự chỉ đạo của Bồ Tát.

-Ái ngữ: Phàm nói lời gì đều nghĩ đến lợi ích cho chúng sanh mà nói. Lời nói thân ái dịu dàng không khẩu khí thô ác nóng giận, lăng mạ người. Người vốn có tâm tự tôn, thích nghe lời nói ngọt ngào tốt đẹp.

-Lợi hành: Có nghĩa là Bồ Tát làm việc đều nghĩ đến phước lợi chúng sanh, chịu giúp đỡ lợi ích tha nhân. Như thế chúng sanh tự nhiên hoan hỷ vui lòng tiếp nhận sự giáo hóa chỉ đạo của Bồ Tát

-Đồng sự: Bồ Tát còn phải dùng thân phận bình đẳng, cùng đồng giai cấp, cùng đồng công việc với chúng sanh mới nhiếp hóa được chúng sanh. Như Duy Ma Cật vào giòng họ Sát Đế Lợi, làm việc Sát Đế Lợi, như thế mới lãnh đạo được Sát Đế Lợi. Vào hạng nông công thương mới có thể lãnh đạo nông công thương.

Tứ nhiếp pháp này, Bồ Tát không thể thiếu. Thậm chí các hội đoàn, tổ chức cho đến lãnh đạo hoặc giúp người lãnh đạo cũng cần phải khéo áp dụng Tứ nhiếp pháp này. Nếu không biết ứng dụng bốn điều trên đây thì gia đình, thầy trò, hội đoàn, tổ chức, rồi ra cũng sẽ rơi vào tình trạng mặt ngoài hòa hợp mà trong thì thần ly tâm tán. Nếu biết ứng dụng Tứ nhiếp pháp thì sẽ gặt hái nhiếp phục đoàn kết. Vì vậy, muốn nhiếp thọ lãnh đạo chúng sanh, điều căn bảnáp dụng Tứ nhiếp pháp. Nhưng người thế gian mang phàm tâm thực hành Tứ nhiếp pháp, là mưu lợi cho mình hoặc lợi ích cho một ít người, ấy là người muốn lãnh đạo, mới tiểu xảo sử dụng phương pháp này để thu hút tổ chức người khác. Trái lại Bồ Tát không vì lợi ích cho mình, không có tham vọng lãnh tụ, mà vì phước lợi tất cả chúng sanh. Bồ Tát muốn giáo hóa chúng sanh tức phải thực hành đầy đủ Tứ nhiếp pháp. Vì thế, đối với hành giả Bồ Tát nói: “Tuy chưa thành Phật đạo, mà trước đã kết thiện duyên với người”. Cùng người kết duyên thì dễ hướng dẫn giáo hóa người học tập Phật pháp. Bồ Tát hành Tứ nhiếp pháp là vì tế độ lợi ích chúng sanh. Vì vậycần phải dùng ba thứ tâm để thi hành:

1.Tâm không ái nhiễm: Đối với cha mẹ, con cái, thầy trò, quyến thuộc v.v… tuy cũng có ứng dụng phần ít Tứ nhiếp pháp, nhưng đây là phát xuất từ tâm tư dục ái nhiễm. Bồ Tát dĩ nhiên không như thế. Nếu không thì tâm ái nhiễm nặng rồi sẽ dẫn đến vị nể. Đồng thời lơ là đối với người khác. Thậm chí giải thích quanh công đức với người, nói lời không hay về người, rồi vì mình mà biện hộ những điều sai lầm.

2.Tâm không nhàm đủ: Bồ Tát phát tâm quảng đại, không thể vì nhiếp thọ một ít chúng sanh rồi tâm ý tự mãn cho là đủ, mà phải phát khởi tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh, phát nguyện rộng lớn độ tất cả chúng sanh.

3.Tâm không trở ngại: Bồ Tát do y Bát nhã Ba la mậttâm không trở ngại. Nếu tâm còn chấp trước thì có trở ngại. Tâm chấp trước đối với việc nhiếp thọ chúng sanh thành chướng ngại lớn.

Câu “ nhiếp thọ chúng sanh” quán thông cả ba thứ tâm trên. Tức là Bồ Tát nên dùng tâm không ái nhiễm để nhiếp thọ chúng sanh, tâm không nhàm đủ để nhiếp thọ chúng sanh, tâm không trở ngại để nhiếp thọ chúng sanh. Dùng ba tâm này mà thực hành Tứ nhiếp pháp, ấy là yếu hạnh mà Bồ Tát thực hành nhiếp chúng sanh giới

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Con từ nay cho đến lúc thành đạo Bồ đề, nếu thấy chúng sanh cô độc, tật bệnh, lầm than, tối tăm, các thứ gian nan khốn khổ đeo đuổi buộc ràng không lúc nào dứt, thì con quyết làm cho họ được an ổn, lấy việc nghĩa khiến cho họ ấm no, lợi ích, thoát ly các khổ mới thôi.

LỜI GIẢI:

Hai giới trên kia chú trọng nhiếp thọ chúng sanh. Hai giới vừa rồi đặt trọng cứu độ chúng sanh. Thắng Man nói: “Con từ nay về sau, nếu thấy chúng sanh cô độc tật bệnh lầm than tăm tối, các thứ gian nan khốn khổ buộc ràng thì con trọn không lúc nào xả bỏ”. Tuổi trẻ dại mà không cha mẹ gọi là cô. Tuổi già mà không con cháu thì gọi là độc. Tối tăm là bị cầm tù nơi lao ngục. Buộc ràng là bị trói buộc xiềng xích v.v…Tật bệnh là bệnh đau nhức nhối hành hạ tâm lýsinh lý. Cô độc, tù đày gông cùm xiềng xích, bệnh đau, ba thứ này đều là đại khổ thế gian. Ngoài ra còn có các thứ chiến tranh, thủy hỏa tai biến, ôn dịch v.v….đều là ách nạn bần cùng, không tri thức v.v….đều là khốn khổ. Bồ Tát thấy chúng sanh chịu các thứ khổ thống này, không luận là có khả năng lực lượng viện trợ hay không, nhưng quyết không khởi tâm xả bỏ. Nếu Bồ Tát xả bỏ thì ai ra tay cứu tế đây?! Bởi vì Bồ Tát lấy việc cứu tế chúng sanh làm sự nghiệp, nên đối với sự khổ thấy chúng sanh tất muốn cho an ổn, quyết tâm khiến cho họ được no ấm an vui. Đây cần phải “lấy việc nghĩa làm lợi ích”, dùng nghĩa lợi hợp lý khiến cho chúng sanh được lợi ích “thoát khổ não”. Một khi chúng sanh thoát ly thống khổ được an vui rồi, Bồ Tát “mới thôi”. Bồ Tát là phải cứu tế chúng sanh. Nhưng không có năng lực cứu tế chúng sanh và không muốn cứu tế chúng sanh thì không phải Bồ Tát. Bồ Tát có thể chưa có năng lực cứu giúp chúng sanh, nhưng quyết không xả bỏ chúng sanh, trước sau vẫn giữ tâm cứu tế chúng sanh, cảm thấy rằng chưa có phương pháp cứu tế chúng sanh thoát ly các khổ thì lòng Bồ Tát không yên. 

CHÁNH VĂN: 

Người đưa bạn hữu và chúng sanh về với chánh pháp thì quyết định được chư Phật thọ ký.

LỜI GIẢI: 

Bốn chúng đệ tử được Bồ Tát hướng đạo vào trong chánh pháp đều thành người vĩ đại, quý giá. Bởi đã phát tâm Bồ đề gieo trồng hạt giống Phật, nên được chư Phật theo đó mà thọ ký. Phật thọ ký tức là Phật tán thán người thực hành chánh pháp, khéo hướng kẻ tà tâm tà hạnh bị lợi danh mê hoặc trở về với chánh pháp.

CHÁNH VĂN: 

 Bạch Đức Thế Tôn! Con thấy nhiếp thọ chánh phápđại lực lớn như thế, quả thật Phật là bậc thật nhãn thật trí, Phật là cội gốc của chánh pháp, thông đạt chánh pháp, là nơi nương tựa của chánh pháp, cũng là bậc thấy biết tất cả.

LỜI GIẢI: 

Bồ Tát ở trước Phật thuyết pháp, đương nhiên thỉnh Phật ấn chứng. Vì vậy Thắng Man trước tổng kết nói: “Con thấy nhiếp thọ chánh phápnăng lực vĩ đại như thế, xả bỏ thân thể, mạng sống, tài sản để kiến lập chánh pháp”. Tiếp đó tôn sùng Như Lai, bà liền nói: “Phật là bậc thật nhãn thật trí. Nhãn suốt thấy, trí suốt biết. Sự thấy biết của Phật thì hàm viên mãn”. Vì vậy xưng Phật nhãn là như thật nhãn, Phật trí như thật trí, nhất thiết chủng trí, thấy biết đúng như thật cứu cánh viên mãn. Phật là căn bản của pháp, thông đạt tất cả pháp, nên nói là nơi nương y của chánh pháp. Ở đây Thắng Man muốn nói: Phật thấy biết suốt thông tất cả pháp. Thế nên, những gì bà nói trên kia, hoặc đúng hoặc không đúng, Phật đều thấy biết tất cả. 

CHÁNH VĂN: 

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đối với những điều Thắng Man đã nói về sức đại tinh tấn nhiếp thọ chánh pháp, Ngài đều khởi tâm tủy hỷ.

LỜI GIẢI: 

Đây là nói, lúc Thắng Man hướng Phật tán thán công đức của sức đại tinh tấn nhiếp thọ chánh pháp, thì Phật ngài khởi tâm tùy hỷ những gì Thắng Man đã nói.

CHÁNH VĂN: 

Như thế đó Thắng Man! Người đã nói về sức đại tinh tấn của việc nhiếp thọ chánh pháp, chẳng khác nào người đại lực sĩ ít bị người đụng đến thân thể thì cảm sanh đại khổ não. Cũng giống như vậy đó Thắng Man, người đại tinh tấn mà ít nhiếp thọ chánh pháp thì khiến cho con ma khổ não khởi sanh. Ta không thấy còn một pháp lành nào khác khiến cho ma khổ não khởi sanh bằng ít nhiếp thọ chánh pháp.

LỜI GIẢI: 

Văn dưới đây sẽ lấy ba thí dụđại lực sĩ, trâu vua và núi Tu Di để tán thán về hạnh nhiếp thọ Đại thừa. Một là thí dụ về đại lực sĩ: Phật ấn chứng cho Thắng Man rằng: “Như thế đó Thắng Man! Đích thực như ngươi đã nói sức đại tinh tấn nhiếp thọ chánh pháp chính thực vĩ đại cao cả. Chẳng khác nào như nhà đại lực sĩ, nếu như ít người đụng đến thân thể họ hoặc không đi đấu võ thì họ cảm thấy hết sức khổ não, không thể chịu nổi! Có khác nào Bồ Tát ít nhiếp thọ chánh pháp thì khiến cho ma vương buồn bực khổ não”. Ma là loài ác, luôn luôn chướng ngại cho kẻ thiện nam người thiện nữ có tâm tu hành thiện pháp. Kẻ lãnh đạo làm chướng ngại thiện pháp, hoặc lợi dụng Phật pháp làm điều tà ngụy thì gọi đó là ma vương. Ngoài ra, kẻ làm chướng ngại thiện pháp mà không phải vai trò lãnh đạo thì gọi là ma tử, tức là con cháu quyến thuộc của ma vương. Nhiếp thọ chánh pháp là cội gốc của tất cả thiện pháp. Bởi Bồ Tát nhiếp thọ chánh pháp tức là tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian đều từ đấy phát sanh. Thế nên, ma làm chướng ngại thiện pháp tức là ít nhiều ma cũng đã thấy rõ điều đó thuộc về chánh pháp, nên chúng ma sanh tâm rất khiếp sợ. Người tu học chứng đắc pháp Nhơn, Thiên cho đến Nhị thừa thì đó bất quá chỉ là cá nhân chứng đắc giải thoát. Còn Bồ Tát nhiếp thọ chánh pháp còn cần phải cứu độ tất cả chúng sanh, nên Phật nói: “Ta không thấy một thiện pháp nào khác khiến cho ma lo âu khổ não bằng ít nhiếp thọ chánh pháp”. Bởi loài ma thích phá phách khuấy nhiễu, nên nếu Bồ Tát không nhiếp thọ chánh pháp thì không có cơ hội phá phách. Không phá phách thì chúng không thể chịu nổi. Chẳng khác nào vượn khỉ không thể không chuyền cây, mèo chồn không thể không bắt thịt, lực sĩ không thể không đấm đá.

CHÁNH VĂN: 

 Lại như hình sắc của vua trâu thì không trâu nào bì kịp, hơn tất cả trâu thường. Cũng như thế đó, Đại thừa ít nhiếp thọ chánh pháp cũng vẫn thắng hơn tất cả căn lành của Nhị thừa. Bởi lẽ nhiếp thọ chánh phápquảng đại.

LỜI GIẢI: 

Đây là thí dụ thứ hai về trâu vua. Trên kia dụ đại lực sĩ, ý nói Bồ Tát nhiếp thọ chánh pháp đối với tất cả pháp hơn cả. Ở đây, hai là dụ trâu vua nói lên ý nghĩa nhiếp thọ chánh pháp đại thừa đối với pháp Nhị thừa. Theo tục Ấn Độ, người chăn trâu đối trong bầy trâu tuyển lựa một con trâu to lớn khoẻ mạnh đặt cho làm trâu vua. Đầu và thân trâu này được trang sức đủ thứ hoa màu vải đẹp sặc sỡ. Vì vậy, hình sắc trâu vua không trâu nào sánh kịp. Hình thái cao lớn, lông sắc sạch sẽ, rực rỡ hơn tất cả trâu thường cũng như thế đó, nhiếp thọ chánh pháp Đại thừa đối với các thiện pháp khác chẳng khác nào trâu vua đối với trâu thường. Tự thể, công đức, tướng dụng của Đại thừa pháp đều là vĩ đại thù thắng hơn tất cả thiện căn Nhị thừa. Thiện căn của Nhị thừa như trâu thường. Pháp lành của Đại thừa như trâu vua.

CHÁNH VĂN: 

Lại như núi Tu Di vương đặc thù đoan nghiêm hùng vĩ hơn tất cả núi. Cũng như thế, Đại thừa xả bỏ thân mạng tài sản để đem tâm hạnh nhiếp thọ chánh pháp thì thắng hơn tất cả căn lành của bậc sơ trụ Đại thừa không xả thân mạng tài sản huống nữa là hàng Nhị thừa ư? Bởi vì quảng đại vậy.

LỜI GIẢI: 

Đây là thứ ba dụ về núi Tu Di vương, Bồ Tát nhiếp thọ chánh pháp đối với hàng Bồ Tát sơ học mà nói. Núi Tu Di vương dịch nghĩa là Diệu Cao Sơn nằm giữa bốn đại bộ châu (Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu, Nam thiệm bộ châu, Bắc Câu lô châu). Núi Tu Di cao hơn mặt biển đến bốn vạn tám ngàn do tuần, cao nhất trong tất cả núi, nên gọi là núi Vua. Núi Tu Di chẳng những cao nhất mà núi đó còn do các thử châu bảo hợp thành, nên kinh thường gọi là “đoan nghiêm đặc thù”, có nghĩa là thù thắng hơn núi Thất Kim Sơn và núi Thiết Vi Sơn. Cũng như thế đó, công đức của Bồ TátĐại thừaxả thân mạng tài sản để nhiếp thủ tâm nhiếp thọ chánh pháp chẳng khác núi Tu Di vương kia. Nghĩa là thù thắng hơn tất cả thiện căn của kẻ sơ trụ Đại thừa không dám xả thân mạng tài sản. Sơ trụ Đại thừa tức là mới phát tâm tu học Đại thừa được ở trong dòng pháp Đại thừa. Nghĩa căn bản của nhiếp thọ chánh pháp là dùng trí Bát nhã chứng đắc chánh pháp, tức là chứng đắc thật tướng.

Dùng tam vô lậu học Văn, Tư, Tu để tu tập chẳng qua là khai sự học tập nhiếp thọ chánh pháp đến khi nào thật sự liễu đạt tài sản thân mạng vốn là không, biết xả bỏ thân mạng tài sảnchánh pháp, thì lúc đó so với hạng Bồ Tát sơ trụ đại thừa tâm hữu lậu còn trước tướng tu hành đương nhiên siêu việt thù thắng hơn. Sơ học Bồ Tát còn không thể bì kịp đối với hàng thiện nam thiện nữ biết xả thân mạng tài sản nhiếp thọ chánh pháp, huống nữa là hàng Nhị thừa! Cận đại Hòa thượng Quảng Đức và các Thánh tử đạo vì pháp thiêu thân, đó là nhiếp thọ chánh pháp. Kinh Kim Cang nói: Phật Thích Ca ở thời Phật Nhiên Đăng đã chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, thù thắng hơn tất cả công đức sở hành trước đó. Hàng Đại thừa sơ học, tâm hạnh hữu lậu, chẳng bằng hàng vô lậu hạnh Bát nhã. Cũng như bậc tối hậu thân Bồ Tát đương nhiên không thể bằng Phật. Đây là nghĩa chung của kinh Đại thừa. Và đây cũng không phải là vấn đề quyền thực hoặc liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa, sơ học cựu học viên chứng. Nhị thừa chứng Niết bàn tưởng rằng là cứu cánh, kỳ thực chưa thành Phật là chưa cứu cánh, nên trong Phật pháp gọi Nhị thừa là phi thật quả. Nghĩa là không phải quả chơn thật. Phật thừa mới là quả chơn thật. Bồ Tát chưa từng nghĩ rằng mình đã chơn thật cứu cánh. Bởi vì biết rõ thành Phật mới là cứu cánh, nên các Ngài chẳng cần bàn quyền luận thật làm chi. Thế thì tại sao lại còn cho rằng sơ hành là quyền giáo, cựu hành là thật giáo, hoặc giả còn cho cựu hành là quyền giáo, viên chứng là thật giáo? Những học giả tự xưng là thật giáo viên giáo lẽ nào lại không biết phân định sơ học cựu hành ư? Lại có số người mỗi lần dẫn kinh điển đề cập đến Nhất thừa thì bảo rằng Đại thừa chưa phải là cứu cánh, lìa Đại thừa được Nhất thừa mới rốt ráo, nói thế là nói lếu láo không đúng chút nào. Y cứ vào ba thí dụ trên thì đủ thấy rằng hễ bất cứ ai vì nhiếp thọ chánh phápphát tâm đại tinh tấn xả bỏ thân mạng tài sản thực chứng pháp Đại thừa thì Đại thừa tức Nhất thừa vậy.

CHÁNH VĂN: 

Thế nên Thắng Man cần phải dùng nhiếp thọ chánh pháp để khai thị chúng sanh, giáo hoá chúng sanh, kiến lập chúng sanh. Như vậy đó Thắng Man, nhiếp thọ chánh pháp thì được đại lợi ích, đại phước báo, đại quả đức. Này Thắng Man! Ta đã từng trong kiếp a tăng kỳ giảng nói về ý nghĩa nhiếp thọ chánh pháp công đức không ngằn mé. Thế cho nên công đức nhiếp thọ chánh pháp thì vô lượng vô biên.

LỜI GIẢI: 

Tóm lại, trên đây là khuyến lệ học giả nên phát tâm Đại thừa tu học thông bác để nhiếp thọ chánh pháp giáo hoá, khai thị chúng sanh, hướng đạo kiến lập chúng sanh. Kinh Pháp Hoa nói “Tri kiến Phật”. Kinh này nói “nhiếp thọ chánh pháp chư Phật thật tri thật kiến”. Ý nghĩa đồng nhau.

Kinh Pháp Hoa nói “Khai thị ngộ nhập”. Kinh này nói “Khai thị, giáo hoá, kiến lập”. Tức là cả hai bộ kinh cùng phát minh nghĩa lý chỉ bày phương pháp tu hành. “Khai” là hiển bày chánh lý. “Thị” là chỉ rõ phương pháp như thật tu hành, tức là khai thị chúng sanh. “Ngộ” là giáo hoá hướng đạo khiến cho chúng sanh liễu giải giác ngộ chánh pháp, thật tánh chân tâm, tức giáo hoá chúng sanh. “Nhập” là thể nhập chứng đắc tri kiến Phật, trụ nơi quả chứng, tức là kiến lập chúng sanh. Đủ thấy bốn việc của Kinh Pháp Hoa đồng với ba nghĩa của Kinh Thắng Man này vậy. 

Đức Như Lai vì bốn việc khai, thị, ngộ, nhập này làm đại sự nhân duyênxuất thế, nên Đức Phật muốn Thắng Man lấy ba việc khai thị, nhiếp hoá, kiến lập làm pháp môn tôn chỉ giáo hoá chúng sanh. Kế đến nói: “Nhiếp thọ chánh pháp thì có lợi lớn, phước lớn, quả lớn như thế”. Đại lợi tức là lợi ích to lớn. Đại phước là phước báu vĩ đại. Đại quả tức chứng quả Vô thượng Bồ đề. Cũng có thể nói khai thị chúng sanh là khiến cho được lợi ích lớn. Giáo hoá chúng sanh là khiến cho chúng sanh được phước báu vĩ đại. Kiến lập chúng sanh là khiến cho chúng sanh được đại quả Vô thượng Bồ đề. Đấy là ba việc mà Đức Phật mong ước Thắng Man nguyện làm. Để khuyến lệ Thắng Man Đức Phật nói: “Ta ở trong kiếp a tăng kỳ đã từng nói công đức nghĩa lợi của việc nhiếp thọ chánh pháp số lượng không ngằn mé”. Thế nên nhiếp thọ chánh phápvô lượng vô biên công đức. Vì nhiếp thọ chánh phápcông đức vô lượng vô biên như thế, nên Bồ Tát phải khai thị, giáo hoákiến lập chúng sanh ở trong chánh pháp, khiến cho chúng sanh hoan hỷ tu học.

Trên kia nói nhơn hạnh của Bồ Tátquy y, thọ giới, phát nguyện, ấy là sự việc tu hành của Bồ Tát. Giờ đây nói đến quả đức của Như Lai. Kinh Pháp Hoa, Niết bàn tán thán công đức Phật quả hồi quy Nhất Phật thừa. Được quả thù thắng là do tu nhơn. Do đó, người tu học Phật chớ nên đơn giản lấy việc tán thán quả đức cứu cánh của Như Lai mà cho là đầy đủ. Quả đức có hai phần cần phải hiểu rõ. Một là Nhất thừa đạo quả. Hai là Nhất thừa đạo nhơn. Một cách chơn chánh giản gọn mà nói, Nhất thừa tức là Đại thừa vậy. 

Nhất thừa đạo quả tức là nêu rõ quả đức của Phật, hiển bày quả đức cứu cánh để cho chúng sanh khởi tín tâm tu hành, nên tiếp theo đó nói rõ đạo nhơn của Đại thừa. Ở đây nói đạo nhơn tức là nhơn địa hành đạo. Tin quả đức của Phật, phát tâm tu hành, tức là Đại thừa Bồ Tát đạo.

Trong khi thuyết minh về quả đức của Như Lai thì đồng thời cũng đã chỉ điểm đạo nhơn của Bồ Tát. Có nghĩa là tất cả chúng sanh đều có đức tánh của Như Lai. Đức tánh Như Laichánh pháp. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay nhiếp thọ chánh pháp, là tu đạo nhơn Đại thừa, nên tất cả chúng sanh đều có thể sẽ thành Phật. Như thế, quán thống toàn kinh mà luận thì, hành giả tu Bồ Tát đạo trước phải khởi chơn tâm chánh tín quy y, tiếp đến là thọ giới phát nguyện, rồi như giới phápchuyên tâm tu hành, sau cùng mới luận đến quả đức của Như Lai. Quả ở đây hàm dưỡng ý nghĩa tất cả chúng sanh đều có chánh pháp tánh tròn đầy hiển bày, nên lại y theo chánh phápkhởi tín tâm. Tín, nguyện, hành, quả là bốn điều liên chuyền triển chuyển tiếp nối nhau, phục thỉ mà thành. Ấy thế có những kẻ miệng bô bô nói chuyện tu hành, nào là đã có hào quang, xuất hồn thành thánh chứng quả, mà chẳng biết kính tín Tam Bảo không phát nguyện quy y, thọ trì giới pháp, không tìm hiểu nhơn quả nghiệp báo, lại chẳng lưu tâm sửa tánh tu thân còn thích làm thầy đời giảng đạo, khoác lác bịa nói mình đã sở đắc nọ kia. Suốt ngày nói xàm nào là tu tắt, nào là Nhất thừa. Những kẻ như đây, nếu chẳng phải là cuồng điên thì cũng là quyến thuộc của ma vương để mê hoặc lòng người, lừa đời kết nạp quyến thuộc với chúng ma, làm tổn thương những hành giả nhiếp thọ chánh pháp. Bởi không tín, không nguyện, không hành thì không bao giờ thành đạo quả. Nên biết những kẻ tà tâm, ngụy tướng không giới luật, chẳng chuyên tâm trì kinh, niệm Phật, tham thiền, suốt ngày không đàm tạp luận lý thuyết suông không tưởng, là kẻ hành ma đạo. Đặc tánh của tín, nguyện, hành, quả là sợi dây chuyền châu nhi phục thỉ, đưa người đến đạo quả giải thoát.

CHÁNH VĂN:

Phật bảo Thắng Man rằng: Ngươi nay lại nói điều mà tất cả chư Phật đều đã nói về nhiếp thọ chánh pháp .

LỜI GIẢI: 

Nhất thừa đạo quả phân làm bốn, trước bảo nói. Trước kia Thắng Man thọ giới, phát nguyệnhoàn toàn tự động chứ không do Phật khuyên nói. Đến khi nói về việc nhiếp thọ chánh pháp thì do chính Thắng Man xin nói, và được Phật hứa khả, sau đó Bà mới nói. Phát nguyện, thọ giới, phải là tự động phát tâm. Nhiếp thọ chánh pháp, Thắng Man tuy đã tu, đã chứng, nhưng vẫn còn chưa đạt đến cứu cánh, nên phải bẩm bạch Phật để nói chỗ sở đắc của mình. Giờ đây, Bà sẽ thuyết minh về quả đức Nhất thừa là phần Phật tự chứng. Điều này tuy Bà đã từng nghe và suy tư, nhưng không có tự chứng, nên phải do Phật chỉ giáo hoá Bà mới dám tuyên nói. 

CHÁNH VĂN: 

Thắng Man bạch Phật: Hay thay Đức Thế Tôn! Giờ đây con vâng mệnh nhận lãnh giáo lệnh của Ngài. 

LỜI GIẢI: 

Trên kia tổng quát thuyết minh về công đức Phật quả, Bồ đề Niết bàn cũng tức là Nhất thừa. Bồ đề Niết bàn chính là cảnh giới trí huệ của Như Lai, là tri kiến Phật, cũng là Như Lai tạng tánh, chánh pháp tánh, mà tất cả chúng sanh đều có đầy đủ tánh này. Nếu chúng sanh khéo phát triển khả năng tự tâm thì những đức tánh trên đây là nhơn tố nương tựa cho công đức Phật quả, cho cứu cánh quả Đức Như Lai. Để thuyết minh rõ về Như Lai quả đức, Đại thừa hay sanh trưởng đức tánh thánh thiện, nên Thắng Man mừng rỡ tiếp nhận giáo sắc của Phật, và liền thưa. 

CHÁNH VĂN: 

Thắng Man liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nhiếp thọ chánh phápMa ha diễn. Vì sao? Bởi vì Ma ha diễn hay sanh ra tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn, Duyên giác.

LỜI GIẢI: 

Nói về nhiếp thọ chánh pháp có ba việc là: Chánh pháp, Đại thừaBa la mật. Như trên chúng ta đã rõ nhiếp thọ chánh pháp tức là chánh pháp, tức là Ba la mật. Một khi hiểu rõ việc nhiếp thọ chánh pháp thì quảng đại thù thắng tức là hiểu rõ ý nghĩa Đại thừa. Đến đây mới đích thực liễu giải nhiếp thọ chánh pháp chính là Ma ha diễn, là Đại thừa, là căn bản chỗ sở y của Nhất thừa, Nhất đế. Ma ha diễn tiếng Phạn là Mahayâna nghĩa là Đại thừa. Sở dĩ gọi Ma ha diễnĐại thừa, bởi vì nó hay sanh ra tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn Duyên giác. Thanh văn Duyên giácnhị thừa thiện pháp. Thế gian là nhơn thiện pháp. Xuất thế gianThanh văn, Duyên giác, Bồ Tát pháp. Ngũ thừa này đều y nơi Đại thừa thiện pháp cũng tức y nơi nhiếp thọ chánh pháp mà phát sanh.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Như ao A Nậu lớn chảy ra thành tám sông, Ma ha diễn cũng như vậy, hay sánh tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn Duyên giác.

LỜI GIẢI: 

A Nậu nói cho đủ là A Nậu Đạt, tiếng Trung Hoa gọi là Vô Nhiệt, có nghĩa là không nóng. Ao A Nậu Đạt nằm giữa núi Tuyết SơnHương Sơn. Kinh này nói nước trong ao chảy ra thành tám sông, điều này đồng với Kinh Niết bàn. Nhưng các kinh luận khác nói nước trong bốn sông tức chỉ sông Hằng, sông Ấn, sông Phược Sô, sông Tỷ Đa đều từ ao A Nậu chảy ra. Nay nói nước ao A Nậu chảy ra bốn sông lớn, theo giải thuyết xưa nay thì mỗi sông lớn có bốn sông nhánh làm quyến thuộc. Vì vậy Kinh A Hàm, Luận Tỳ Bà Sa đều nói là hai mươi sông. Nay do Phật xuất hiện phương Đông nên lấy sông Hằng làm gốc cùng bốn sông quyến thuộc của sông Hằng hiệp lại thành năm, công thêm sông Ấn, sông Phược Sô, sông Tỷ Đa thành tám sông. Trên kia là dụ, nay đây hợp pháp như kinh này nói “Ma ha diễn cũng như thế, hay xuất sanh tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn, Duyên giác. Cũng như ao A Nậu lưu xuất nước thành tám sông lớn”

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Lại như tất cả hạt giống đều nương nhờ nơi đất mà được sanh trưởng. Cũng giống như thế, tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn Duyên giác đều nương nơi Đại thừa mà được tăng trưởng.

LỜI GIẢI: 

Ao lớn dụ cho chỗ xuất sanh. Hạt giống dụ cho sự tăng trưởng. Tất cả hạt giống đều như thế. Đặc tánh của chủng tử có năm: Gốc, rễ, lá, hoa, trái. Năm thứ này đều từ đất sanh thành. Năm thứ này cũng dụ cho thiện pháp năm thừa. Nếu hạt giống không gieo nơi ruộng đất thì không thể nào sanh trưởng được. Cũng như tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn Duyên giác đều y nơi Đại thừa mà được sanh trưởng. Đại thừa pháp dụ như đất. Tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Thanh văn Duyên giác như năm thứ chủng tử.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! Thế cho nên trụ nơi Đại thừa, nhiếp thọ Đại thừa tức là trụ nơi Nhị thừa nhiếp thọ tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian của Nhị thừa.

LỜI GIẢI: 

Thiện pháp thế gianxuất thế gian đều y nơi Đại thừa mà được sanh trưởng. Thế nên, phàm tu Đại thừa pháp hay an trụ nơi Đại thừa, nhiếp thọ Đại thừa, đối pháp Đại thừa ưa thích tinh tấn tức là bao hàm Nhị thừa, nhiếp thọ Nhị thừa, cho đến hàm dưỡng tất cả thiện pháp thế gianxuất thế gian. Điều này có hai cách giải thích:

1/ Nếu trụ nơi Đại thừa pháp, thì Thanh văn, Duyên giác v.v…ngũ thừa pháp tự nhiên thành tựu, cũng chẳng khác nào trồng tre thì chim tự nhiên đến đậu. Cũng giống như vậy, Bồ Tát trụ trong pháp Đại thừa thì thiện pháp của Nhị thừa v.v….tự nhiênthành tựu, chớ chẳng cần vì thiện pháp của nhơn, thiên, Nhị thừa mà phải thêm gia công tu hành.

2/ Pháp Đại thừa có khả năng sanh trưởng tất cả thiện pháp. Bồ Tát trụ trong Đại thừa, Đại thừa vốn hàm nhiếp thiện pháp nhơn, thiên, Nhị thừa. Thiện pháp Nhị thừa v.v…tức là cánh cửa lành thiện đầu tiên của Đại thừa. Như Kinh pháp Hoa lấy việc hướng đến bảo sở tức Phật quả để làm ví dụ. Trên đường đến bảo sở, Bồ Tát đã trải qua năm trăm do tuần. Nhị thừa chỉ mới được ba trăm do tuần. Như thế rõ ràng quảng đường năm trăm do tuần bào hàm ba trăm. Thế nên, đứng từ quan điểm Đại thừa Bồ Tát mà quán xét, thì pháp Nhị thừa không vượt ngoài pháp Bồ Tát. Công đức trí huệ của Bồ Tát hàm nhiếp công đức trí huệ Nhị thừa. Thế nên trong Phật pháp không tích cực khuyến khích hành giả trước tu học Tiểu thừa rồi sau học Đại thừa, mà tích cực khuyến lệ hành giả trước học pháp Đại thừa. Bởi Đại thừa pháp hàm nhiếp công đức Nhị thừa. Nhưng cũng nên lưu ý rằng, chớ nên tự cao thiên kiến cho thiện pháp nhơn thiên, Thanh văn, Duyên giác không đáng để học. Quan niệm như thế thì quá sai lầm, rơi vào bệnh chấp pháp tự đại. Bởi những pháp này đều có đầy đủ trong pháp Đại thừa.

CHÁNH VĂN: 

Như Thế Tôn nói Lục xứ. Những gì là Lục xứ? Ấy là Chánh pháp trụ, Chánh pháp diệt, Ba la đề mộc xoa, Tỳ ni, Xuất gia, thọ Cụ túc giới. Vì Đại thừa mà nói sáu việc này.

LỜI GIẢI: 

Đây là thuộc trong ngũ thừa chánh pháp rất xem trọng giới luật. Kinh Niết Bàn, Kinh Đại Vân đại biểu cho việc tôn trọng giới luật. Giới luậtĐại thừa không hai. Giới luật là nền tảng cho quả vị Đại thừa. Giới luật đưa hành giả đến ngưỡng cửa Vô thượng Bồ đề. Không thọ trì giới luật, như người mù trong đêm tối khó tìm lối ra khỏi rừng sâu để ngẩng đầu tìm phương hướng về quê cũ.

Sáu việc Phật đã từng nói: Chánh pháp trụ, Chánh pháp diệt, Ba la đề mộc xoa, Tỳ ni, Xuất gia, thọ Cụ túc. Sáu việc này làm thành ba cặp đối nhau:

1/ Chánh pháp trụ và chánh pháp diệt. Chánh pháptượng pháp đối đãi nhau. Như nói chánh pháp ngàn năm, tượng pháp ngàn năm. Hoặc một cách tổng quát nói: Thánh giáo của Như Lai, nếu như chánh pháp diệt, thì hết các kinh điển v.v…. Chánh pháp trụ thế thì Phật pháp trụ thế. Theo học giả Thanh văn thừa nói thì, người xuất gia phải y theo giới luật hoà hợp mà ở. Nghĩa là còn pháp Yết ma, thuyết giới, trì tụng giới, giảng nói giới tức là chánh pháp còn trụ thế. Nếu người xuất gia không y pháp luật mà sống thì dòng sanh mệnh chánh pháp diệt.

2/ Ba la đề mộc xoa và Tỳ ni. Ba la đề mộc xoa dịch là biệt biệt giải thoát. Có nghĩa là thọ giới nào được giải thoát giới đó. Như mỗi điều luật trong Tỳ kheo, Tỳ kheo ni Giới Kinh, nếu ai thọ giới nào thì ác nghiệp của thân miệng ý tức theo đó được mỗi mỗi giải thoát. Chẳng hạn thọ giới không sát sanh thì ác nghiệp của sát sanh được giải thoát. Trì giới nào thì riêng giới đó được giải thoát ác nghiệp, nên gọi là biệt biệt giải thoát. Tỳ ni phiên âm từ Phạn ngữ Vinaya, tức là giới luật. Có chỗ dịch là điều phục hoặc còn dịch là diệt. Có nghĩa là người tu học Phật thọ trì giới luật đối với nghiệp ác của thân, miệng, thất chi tội đều được hàng phục diệt trừ. Ba la đề mộc xoa và Tỳ ni, hai danh từ này mang ý nghĩa gần nhau. Chẳng qua Ba la đề mộc xoa là biệt thuyết còn Tỳ ni là tổng luận thế thôi. Ba la đề mộc xoachỉ trì, tức là ngăn ngừa trừ diệt. Tỳ ni không những thuyết minh chỉ trì mà còn tiếp tục tạo phước đức. Ba la đề mộc xoa mang ý nghĩa hẹp, còn Tỳ ni thì hàm hữu nghĩa rộng.

3/ Xuất gia thọ Cụ túc. Xuất giaxa lìa quan hệ gia đình cha mẹ vợ con, buông bỏ hết tất cả tài sản gia tộc tư hữu, quy y theo hạnh Phật sống đời thanh đạm. Thọ Cụ túc là thọ giới Tỳ kheoTỳ kheo ni. Cụ túc có nghĩa là viên mãn. Viên mãn tức Niết bàn . Do ý nghĩa này nên thọ Cụ túc giới còn gọi là thọ Cận viên giới. Thọ giới này tức là ý hướng gần đến Niết bàn. Trên kia Phật nói sáu việc thiên trọng về chúng đệ tử xuất gia Thanh văn. Nhưng cũng không nên vì thế mà cục hạn ở nơi Tiểu thừa. Bởi lẽ Phật vốn vì pháp Đại thừa mà nói sáu việc. Sáu việc y Đại thừa pháp mà ra, vì Đại thừa pháp mà nói. Đích thực nội dung và phương tiện của nó là hướng người đến thánh thiện Phật quả, nên sáu việc quy thuộc Đại thừa.

CHÁNH VĂN: 

Vì sao? Vì muốn chánh pháp trụ nên nói Đại thừa, Đại thừa trụ thì chánh pháp trụ; chánh pháp diệt thì vì Đại thừa mà nói, Đại thừa diệt thì chánh pháp diệt. Ba la đề mộc xoa và Tỳ ni, hai pháp này tên khác mà nghĩa đồng. Tỳ ni là pháp học của Đại thừa. Vì sao? Vì y theo Phật xuất gia thọ Cụ túc, nên cũng nói oai nghi giới Đại thừa là Tỳ ni, là Xuất gia, là thọ Cụ túc. Mà nói A la hán cũng không khác, vì cũng xuất gia thọ Cụ túc. Bởi cớ sao? Bởi A la hán cũng theo Như Lai xuất gia thọ Cụ túc vậy.

LỜI GIẢI: 

Làm thế nào mà biết vì Đại thừa nói sáu việc này? Trước tiên căn cứ vào chánh pháp trụ diệt mà nói. Nghĩa là chánh pháp trụ ở đời hay diệt tận, thì vẫn y theo tinh thần Đại thừa mà nói pháp, căn bản vẫn là Đại thừa. Thế gianĐại thừa pháp, có người tu học Đại thừa, như thế là Đại thừa trụ. Đại thừa trụ thì chánh pháp trụ. Cũng giống như vậy, dù chánh pháp suy diệt thì cũng vì Đại thừa mà nói. Nếu như thế gian không y theo Đại thừa pháptu hành, thế là Đại thừa diệt. Đại thừa diệt là chánh pháp diệt. Chánh pháp vốn là Phật chứng đắc nói ra. Đại thừa tức chánh pháp. Hành giả tu Đại thừa tức là người được Đại thừa nhiếp thọ. Thế nên chánh pháp trụ hay diệt thật ra căn cứ Đại thừa mà nói, người xuất gia học Phật y giới pháp mà tu hành, thì Đại thừa pháp còn trụ ở đời, căn bản Đại thừa vẫn không xa lìa, như Thanh văn đã nói. Kinh Niết Bàn nói chánh pháp không thể diệt. Nếu nói chánh pháp diệt thì đó là quan niệm của Tiểu thừa. Còn y cứ tinh thần Đại thừa thì trải qua thời gian lâu dài chánh pháp mới diệt, đó là lời Phật dạy chúng ta. Đã là chánh pháp thì tự nó vốn không có vấn đề trụ hay diệt, mà trụ hay diệt quan kiện là ở con người. Nếu con người không khởi tâm tu học Đại thừa thì chánh pháp tức diệt. Ngược lại, nếu có người phát tâm tu học Đại thừa thì chánh pháp trụ thế. Kế đến nói về Ba la đề mộc xoa và Tỳ ni. Hai danh từ này có cùng một nghĩa. Giới không phải chỉ Thanh văn thừa mà là Đại thừa pháp học. Bởi vì y Phật dạy trước xuất gia sau mới được thọ giới Cụ túc. Thọ trì Cụ túc giới tức thành tựu Tỳ ni và Ba la đề mộc xoa. Trước xuất gia sau đó thọ giới. Thường người ta tưởng đó là Tiểu thừa, mà kỳ thực Tỳ ni và Ba la đề mộc xoa do thọ Cụ túc mà được an lập. Thọ Cụ túc là phải y theo Phật xuất gia mà thành. Tất cả đều y theo Phật mà được. Nghĩa là y theo Phật xuất gia, thọ Cụ túc giới, làm được trưởng tử Như Lai hoằng pháp lợi sanh v.v…đều từ biển pháp Đại thừa mà lưu xuất, tức là mạch nguồn của Đại thừa pháp. Thế nên nói Đại thừaOai nghi giới, là Tỳ ni, là xuất gia, là thọ Cụ túc. Oai nghi giới tức là Ba la đề mộc xoa, có nghĩa là Biệt giải thoát. Tức là hành giả giữ giới nào thì được giải thoát giới đó. Ví dụ giữ giới sát sanh thì liền tránh được quả báo đền mạng. Từ đây truy nguồn tìm gốc được biết căn nguyên của pháp Thanh văn. Nói rõ hơn không có pháp Tiểu thừa nào mà không hàm nhiếp trong Đại thừa pháp. Tất cả pháp của Tiểu thừa đều được lưu xuất từ Đại thừa. Thế nên tất cả đều là Đại thừa học. A la hán có nghĩa là bậc đã diệt sạch giặc phiền não, không còn sanh tử luân hồi, bậc đáng để cho người, trời cúng dường, là quả thứ tư trong tứ quả Thanh văn, quả cao nhất của Thanh văn. Pháp hạnh tu chứng của A la hán thông cả bốn quả. Họ cũng theo Phật xuất gia, y Phật thọ Cụ túc giới, chứ không có gì khác. Thế nên đứng từ sáu việc trên mỗi mỗi truy cứu có thể thấy đều là Đại thừa.

CHÁNH VĂN: 

A la hán quy y Phật. A la hán có tâm sợ sệt. Vì sao? Vì A la hán đối với tất cả pháp sợ sệt không làm, chỉ thích an trụ, sợ như có người cầm kiếm muốn đến hại mình, thế cho nên A la hán chưa có cái an vui rốt ráo. Vì sao? Bạch Đức Thế Tôn! Quy y mà chẳng cầu y, chẳng khác như chúng sanh không quy y, cái gì cũng sợ sệt, do vì sợ mà cầu quy y. Cũng như thế đó, A la hán có cái tâm sợ sệt, vì sợ sệt mà cầu quy y nơi Đức Như Lai.

LỜI GIẢI: 

Như trước kia đã nói sáu việc, tức là vì Đại thừa mà luận nói A la hán xuất gia thọ Cụ túc giới không khác. Bởi họ cũng nương nơi Phật. Rõ ràng hàng Nhị thừa Thanh văn căn nguyên vẫn là quy y Như Lai. Từ đây có thể tiến thêm một bước nữa để thuyết minh về Nhị thừa không rốt ráo, nên phải quy hướng nơi Nhất thừa để được cứu cánh Như Lai. Vấn đề được đặt ra, như văn trên nói: 1/ A la hán quy y nơi Phật. 2/ A la hán có tâm sợ sệt. Hai vấn đề này sẽ được lược giải dưới đây:

Quy y Tam Bảo, Tăng bảo bao gồm A la hán. Tuy cũng là quy y A la hán Tăng, nhưng kỳ thật lấy Như Lai làm gốc. Thời Phật còn tại thế, đệ tử Phật đi giáo hoá nhơn gian, có người nghe pháp khởi tâm hoan hỷ cầu xin quy y, thì các Tỳ kheo nói: “Chớ quy y ta, nên quy y Đức Như Lai”. Phật là nơi quy y rốt ráo. Không những chỉ người đời quy y Phật mà cả chính các A la hán cũng quy y Phật. Điều này ta thấy bàng bạc ở Kinh A Hàm và Tỳ Ni.

A la hán có tâm sợ sệt. Sợ sệt ở đây là sợ sệt sanh tử. Chưa liễu thoát sanh tử thì còn phải chìm đắm trong đêm dài tăm tối. Một khi già chết đến, tâm không tránh khỏi sợ sệt. Cứ vào học giả Thanh văn thừa mà nói thì A la hán là liễu sanh tử, đắc Niết bàn, không có sợ sệt. Nhưng thật sự suy cho kỹ thì A la hán vẫn còn có tâm vi tế sợ sệt.Y Kinh A Hàm và Tỳ Ni thì, Tỳ kheo tu quán vô thường, đặc biệttu quán bất tịnh, cực đoan nhàm chán thế gian trạng thái già bệnh đói khát khốn khổ, nên nói: “Kẻ ngu thế gian chịu khổ nhục trong cái địa ngục thân ngũ uẩn, mà sanh tâm kinh sợ khổ, không như Thánh chúng Bồ Tát tự tại ở đỉnh đầu các uẩn khổ”. Vì quan niệm như vậy, nên lắm lúc kẻ tu mang tâm Tiểu thừaquan niệm xả bỏ thân mạng ngũ uẩn cũng giống như xả bỏ đồ nhơ uế độc hại. Các Thánh giả Thanh văn đối với việc luân lưu sanh tử có tâm rất kinh sợ. 

Tiếp theo đây giải thích A la hán vì sao có sự sợ sệt. Kinh nói: “A la hán đối với tất cả pháp có tâm sợ sệt không muốn làm, chỉ muốn an trụ”. Điều này có hai ý nghĩa để giải thích:

1/ Căn cứ vào ý nghĩa của Hữu dư y Niết bàn mà nói thì tất cả hành là pháp sanh tử lưu chuyển. Tất cả vô hànhNiết bàn tịch tĩnh không sanh diệt. A la hán tuy nói là đã liễu sanh tử, trụ trong Niết bàn, nhưng vẫn còn có tâm sợ sệt, trạng thái tâm lý này, giống như trẻ con sợ chó, chui vào lòng mẹ. Vì vậy trong kinh nêu ví dụ: “Như có người cầm kiếm muốn đến hại mình”, tuy mình đã đến chỗ an toàn, nhưng tâm vẫn còn dư âm sợ hãi không thôi. Bởi ý nghĩa này mà A la hán tuy nói đã chứng Niết bàn, nhưng chưa đích thực đạt đến chỗ cứu cánh an vui. Bằng chứng cụ thể như trong luật kể: “Phật ở thành Vương Xá, Đề Bà Đạt Đa âm mưu với vua A Xà Thế thả voi say hại Phật. Khi đó các A la hán sợ bỏ chạy tán loạn, chỉ riêng Phật đứng yên”. Điều này chứng minh A la hán còn có tâm sợ sệt. 

2/ Căn cứ vào ý nghĩa của Vô dư y Niết bàn mà nói thì hành tức là hành đạo. A la hán tuy đã tu đạo, mà chưa có hành đạo tất cả. Nghĩa là không có tu tập đoạn vô minh trụ địa chứng đắc các thứ công đức trí huệ, nên vẫn còn biến dịch sanh tử, chưa đạt bình đẳng tánh sanh tử Niết bàn. Vì vậy vẫn không tránh khỏi có tâm sợ sệt, nên chưa đạt an lạc rốt ráo.

Lại do từ có tâm sợ sệt luận đến quy y Phật. Kinh văn nói “quy y mà chẳng cầu y”. Câu kinh này mang ý nghĩa, hễ phàm người có khả năng để cho người khác quy, tức mình là nơi để cho người quy y thì quyết định người này không cần cầu quy y với ai nữa. Nghĩa là chính bản thân được cứu cánh tự tại thì đâu còn nương tựa ai nữa? Nhưng chúng sanhthế gian không nương không tựa thì lòng không an, có các thứ sợ sệt, như sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ tai hoạ, sợ chỗ người đông đảo v.v…Bởi vì có tâm sợ sệt như vậy, nên cần cầu quy y. Chẳng hạn có người quy y với thần núi, thần nước, Phạm Thiên, Ngọc Hoàng, Thượng Đế v.v…Phật tử thì quy y Tam Bảo. Tuy đối tượng quy y có khác, nhưng động cơ thúc đẩy quy y thì nhứt trí, do từ tâm sợ sệt. Cũng như thế đó, A la hán vì còn có tâm sợ sệt, nhơn tâm sợ sệt mà nương tựa Như Lai. Bởi còn tâm sợ sệt quy y nơi Như Lai, từ đây có thể thấy A la hán chưa rốt ráo an lạc.

CHÁNH VĂN: 

Bạch Đức Thế Tôn! A la hán, Bích chi Phật còn có sự sợ hãi, thế cho nên A la hán, Bích chi Phật đối với hữu dư sanh pháp chưa hết, nên còn sanh; hữu dư phạm hạnh chẳng thành, nên chẳng thuần; việc chẳng rốt ráo, nên còn có chỗ tạo tác; chẳng độ chúng sanh, nên có chỗ đoạn. Do vì không đoạn, nên cách xa cảnh giới Niết bàn.

LỜI GIẢI: 

Trước nói về tâm sợ hãi của A la hánBích chi Phật. Bích chi Phật còn gọi là Duyên giác, cũng gọi là Độc giác. Khi Phật không ra đời, không có duyên nghe Phật thuyết pháp, các vị Bích chi này tự tu quán nhơn duyên các pháp mà chứng đạo, nên gọi là Duyên giác hay Độc giác. A la hán theo Phật xuất gia thọ Cụ túc giới, nghe Phật thuyết pháp mà đắc quả. Bích chi Phật cũng còn có tâm sợ hãi như A la hán. Nhị thừa còn có tâm sợ hãi là vì trí đứcđoạn đức chưa được cứu cánh. Trí đứcliễu đạt nhơn của tất cả các pháp cho đến quả của Phật tánh. Thấu rõ tất cả sự lý. Đoạn đức là đoạn sạch tất cả vọng hoặc, chứng đắc Vô dư Niết bàn. Chỉ Phật mới đủ hai đức này. Kinh A Hàm và Tỳ Ni nói Thánh giả chứng quả A la hán thường tự nhớ: “Sanh tử ta đã hết, phạm hạnh đã hoàn thành, chỗ hành đạo đã xong, không còn sống trong vòng sanh tử”. Kinh luật thường lấy đây để tán thán A la hán.

Theo Nhứt Thiết Hữu Bộ luận về học giả Thanh văn thì: Sanh tử đã hết là chỉ cho phiền não đã sạch, nên gọi là Đoạn tập trí. Phạm hạnh là đạo đã lập, tức là đạo tu đã thành tựu, gọi là tu đạo trí. Chỗ hành đạo đã xong nghĩa là chứng Niết bànDiệt đế. Người tu học Phật, nhứt là xuất gia, điều quan trọng phải làm là liễu sanh tử chứng Niết bàn. Việc lớn này đã làm xong gọi là chứng Diệt trí. Hiện tại còn trong vòng sanh tử gọi là Bổn hữu. Vị lai sanh tử gọi là Hậu hữu. Nghĩa là chúng sanh còn luân lưu nổi chìm trong dòng sanh tử thì gọi là Bổn hữu hậu hữu. Quả khổ đoạn hết không còn. Nói thế có nghĩa là chỉ trong một đời này tu hành dứt sạch phiền não, đoạn gốc luân hồi, không lại còn sanh tử trong đời vị lai, nên danh từ Phật học gọi là Bất thọ hậu hữu. Nói cách tổng quát thì, hành giả tu Tứ đế rốt ráotrọn vẹn biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, ấy là Nhị thừa thánh giả chứng đắc cảnh giới. Nhưng y cứ vào kinh này thì Nhị thừa đối với pháp Tứ đế đạt được Tri khổ, Đoạn nhơn, Tu đạo, Chứng quả cũng vẫn chưa rốt ráo, mà tâm vẫn còn sợ hãi sanh tử. Thế nên, biết tâm của A la hán, Bích chi Phật chưa hết hẳn pháp biến dịch sanh tử. nghĩa là còn có gợn nhẹ giòng ý niệm sanh tử, nên không thể nói là sanh tử đã dứt hết. Đối với Nhị thừa nói đã hết sanh tử tức là căn cứ vào trí biết khổ mà nói đó thôi.Nghĩa là Nhị thừa A la hán, Bích chi Phật thấu biết nguồn gốc của khổ, nên không lại đắm vào nguồn gốc đó. Đây là quan điểm của Kinh A Hàm Ma Ly Ca và Luận Du Già. Nên có câu “Phạm hạnh của bậc Hữu dư Niết bàn chưa thành tựu, nên chỗ tu đạo chưa thành thục”.

Khế Kinh nói “Thuần nhất phạm hạnh” tức là vô lậu phạm hạnh. Nghĩa là không còn mảy may phiền não xen tạp mới gọi là “thuần”. Nhị thừa vẫn còn vi tế phiền não, nên trên đường tu đạo chưa đạt đến thuần nhất cứu cánh. Do đó Đại thừa Phật pháp không thể cho đó là phạm hạnh đã định lập. Bởi lẽ Nhị thừa tuy chứng Niết bàn, nhưng vẫn chưa phải là chơn thực Niết bàn, tịch diệt. Kinh Pháp Hoa nói: “Ngươi tuy diệt được độ, nhưng chẳng phải là chơn diệt độ”. Vì vậy, trong Khế kinh Đại thừa thường gọi Niết bàn của Nhị thừa là hoá thành chứ không phải là bảo thành của Niết bàn Phật quả. Vì thế đối với hàng Nhị thừa tu chứng tuy đã có tu chứng, nhưng chưa đạt đến cứu cánh tu chứng, mà còn phải tiếp tục gia hạnh công phu tu tập, nên không thể nói là hạnh quả hoàn toàn. Nhị thừa tuy đoạn trừ tứ trụ phiền não ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, nhưng vô minh trụ địa[12] vẫn chưa đoạn, chưa từng có thể hoàn toàn vượt qua biển cả phiền não, nên còn sanh tử trong tương lai. Nghĩa là còn có sở đoạn, còn chịu hậu hữu.

Nên ở trên kia nói Nhị thừa trí đức chưa viên mãn. Bởi chưa dứt sạch phiền não, nên chưa thuần, chưa rốt ráo. Vì vậy Nhị thừa vẫn còn xa cảnh giới Vô dư Niết bàn tịch diệt. Cảnh giới Niết bàn tức là pháp giới vô lậu cùng cực thanh tịnh, mà Nhị thừa đoạn đức chưa thành đạt. Kinh Pháp Hoa nói: Niết bànNhị thừa đạt đến chỉ là hoá thành giữa chặng đường của chân thật Vô dư y Niết bàn. Nghĩa là còn cách xa bảo sở thành đế hai trăm do tuần. Bởi Nhị thừa có tâm trạng sợ hãi, nên trí lực Nhị thừa chưa viên mãn. Lý dotrí đứcđoạn đức chưa viên thành, nên còn có tâm sợ hãi.

CHÁNH VĂN: 

Vì sao? Bởi vì chỉ có Như Lai mới trọn chứng Chánh đẳng Chánh giác Niết bàn, thành tựu tất cả công đức, còn A la hán Bích chi Phật chưa thành tựu tất cả công đức, mà nói là được Niết bàn, đó chẳng qua Phật phương tiện nói đó thôi. Chỉ có Như Lai chứng đắc Niết bàn, thành tựu vô lượng công đức, còn A la hán, Bích chi Phật thành tựu hữu lượng công đức, mà nói là được Niết bàn thì đó là Phật phương tiện nói đó thôi. Chỉ có Như Lai trọn đắc Niết bàn, thành tựu công đức không thể nghĩ lường, còn A la hán, Bích chi Phật thành tựu công đức nghĩ lường mà nói là được Niết bàn thì đó là Phật phương tiện nói thế. Chỉ có Như Lai trọn đắc Niết bàn, đoạn diệt tất cả phiền não, thành tựu đệ nhất thanh tịnh, còn A la hán, Bích chi Phật còn có vi tế lỗi lầm chẳng phải đệ nhất thanh tịnh mà nói là được Niết bàn, đó chỉ là Phật phương tiện nói thế thôi.

LỜI GIẢI: 

Trên đây nêu nguyên nhân vì sao Thanh văn, La hánBích chi Phật chưa chứng trọn vẹn Niết bàn, ấy bởi chưa đạt viên mãn tứ trí. Chỉ Phật mới đạt tứ trí trọn vẹn rốt ráo, nên nói chỉ có Phật mới “chứng Chánh đẳng Chánh giác Bát Niết bàn”.

Bát là thể nhập. Niết bàntịch diệtdiệt độ. Bát Niết bàn đích thực hàm hữu hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là tiêu tan, tức là giải thoát khổ thống mà được tự tại. Bởi ý nghĩa này, nên Ngài Tam Tạng Huyền Trang dịch chữ Niết bànviên tịch, có nghĩa sạch hết phiền lụy, đức tánh tròn đầy. Kinh đây nêu lên bốn thứ công đức để thuyết minh Như Lai sở đắc Niết bàn, hợp với hai nghĩa này. Như Lai sở dĩ đắc Niết bàn vì đã tán thành tựu tất cả công đức. Còn A la hánBích chi Phật chưa thành tựu tất cả công đức, nên nói là còn cách xa cảnh giới Niết bàn. Sự thực, hàng Nhị thừa không thể đắc Bát Niết bàn, mà các kinh như Kinh A Hàm v.v….nói A la hán đắc Niết bàn, thực ra Phật phương tiện quyền xảo giả nói nhằm khuyến lệ kẻ thiếu ý chí dõng mãnh, kém hùng tâm quảng đại đó thôi. Chứ Niết bàn Nhị thừa không phải là cứu cánh chơn thật nghĩa.

Đoạn kinh trên nhằm khai quyền hiển thật cộng gồm bốn đoạn mà văn nghĩa đại để đều giống nhau: Thứ nhất là thành tựu nhất thiết công đức. Thứ hai là thành tựu vô lượng công đức. Thứ ba là thành tựu bất khả tư nghì công đức. “Nhất thiết” tức là tổng tướng tất cả công đức mà nói, có tánh cách khái quát. “Vô lượng” tức là trong tất cả công đức, mỗi công đức trong tất cả đó có sự sai biệt. “Bất tư nghì” tức là nói đến công đức vô lượng vô biên không phải người, trời, Nhị thừa, Bồ Tát có thể nghĩ bàn tính đến được. Ba đặc tánh này thuyết minh Bát Niết bàn của Phật đức tánh viên dung tự tại. Phật đoạn sạch tất cả lỗi lầm nên được tất cả công đức Niết bàn. Lỗi lầm đoạn sạch, tập khí không còn, Bát Niết bàn tự nhiên chứng đắc. Chứng Bát Niết bànchứng đắc thanh tịnh. Tất cả chúng sanh có đầy đủ pháp giới tánh, có đầy đủ Như Lai tạng tánh. Tuy bản tánh chúng sanhthanh tịnh, nhưng chưa đạt vô lậu pháp giới thanh tịnh. Phật đạt được pháp giới tối thanh tịnh, hoàn toàn xa lìa tất cả phiền nãosở tri chướng, nên gọi là đệ nhất thanh tịnh. A la hánBích chi Phật chưa hoàn toàn dứt sạch sở tri chướng, nên chỗ chứng pháp giới tánh không phải là đệ nhất thanh tịnh. Luận Nhất thừa Bảo Tánh và Kinh Bảo Man giải thích rằng: “Bát địa Bồ Tát đắc nhất thiết công đức. Cửu địa Bồ Tát đắc vô lượng công đức. Thập địa Bồ Tát đắc bất khả tư nghì công đức. Phật đắc đệ nhất thanh tịnh công đức. nhưng kinh đây thuyết minh Niết bàn của Phật là siêu việt Niết bàn Nhị thừa.

CHÁNH VĂN: 

Chỉ có Như Lai chứng đắc Bát Niết bàn, là chỗ quy ngưỡng cho tất cả chúng sanh. Niết bàn của Phật siêu việt cảnh giới của A la hán, Bích chi PhậtBồ Tát. Thế nên A la hán, Bích chi Phật còn xa cảnh giới Niết bàn.

LỜI GIẢI: 

Bởi cảnh giới Niết bàn của Phật siêu xuất cảnh giới Niết bàn của A la hán, Bích chi Phật, Bồ Tát, nên Niết bàn của Phật được chúng sanh ngưỡng mộ hướng về. Siêu việt có nghĩa là thù thắng vượt hơn cả. Niết bàn của Như Lai vượt thắng hơn quả đức của Nhị thừa và nhơn địa Đại thừa.

Bồ Tát là nhơn địa Đại thừa. Nghĩa là cho dù tối hậu thân Bồ Tát, tức là Nhất sanh bổ xứ cũng vẫn chưa đạt cảnh giới như Phật. Bằng vào nghĩa này, cũng có thể nói hội tam thừa quy nhất Phật thừa, tức là A la hán, Bích chi Phật tuy vẫn còn xa Niết bàn của Như Lai, nhưng cũng có thể phát tâm trên đường đến Phật quả. Nơi đây cũng minh xác rõ rằng, hàng Nhị thừa A la hán, Bích chi Phật cứ nghĩ rằng mình chứng Niết bàn nên chẳng cầu tiến. Kinh đây lặp đi lặp lại nhiều lần “Nhị thừa còn cách xa Niết bàn” mà không đề cập đến Bồ Tát. Bởi vì nhơn địa tu hành của Bồ Tát đang trên đường tiến đến Phật quả. Nghĩa là còn đang trên đường tiến đến Niết bàn Phật chứ chưa đạt cứu cánh Niết bàn. Chính các ngài Bồ Tát cũng không nghĩ rằng quả vị Bồ Tát của mình là cứu cánh. Chính ý nghĩa này mà Phật siêu việt Bồ Tát, không nói Bồ Tát còn xa lìa cảnh giới Niết bàn. Bởi lẽ Bồ Tát đang gia công hành đạo tiến đến Phật quả, còn Nhị thừa thì chỉ an trụ. Vì thế, kinh Phật thường nói Nhị thừa Niết bànphương tiện, là quyền thuyết, chứ không nói Đại thừa Niết bànphương tiện, là quyền thuyết.

CHÁNH VĂN: 

Nói A la hán, Bích chi Phật quán sát giải thoát rốt ráo trí đắc Tô tức xứ, đây cũng là Đức Như Lai phương tiện hữu dư bất liễu nghĩa mà nói.

LỜI GIẢI: 

Những đoạn kinh văn trên đây Đức Như Lai đặc biệt chú trọng thuyết minh về Niết bàn của Nhị thừa không phải là chơn thật Niết bàn. Từ đây về sau đặc biệt chú trọng thuyết về tứ trí của Nhị thừa chưa viên mãn. Trong Kinh A Hàm và các kinh khác, Đức Phật đã từng nói: “A la hán, Bích chi Phật quán sát tứ trí giải thoát rốt ráo được Tô tức xứ”. Tô tức xứ là danh xưng khác của Niết bàn. Quán sát tứ trí giải thoát tức là A la hán sở chứng ngũ phần pháp thân: Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến

A la hán, Bích chi Phật xác thực biết mình đã được giải thoát, giải thoát đến trình độ nào. Quán sát cứu cánh giải thoát tứ trí tức là thuyết minh giải thoát tri kiến của Nhị thừa, trí tự giác về Tứ đế cứu cánh. Cứu cánh đắc Tô tức xứ tức là suốt rõ cứu cánh Niết bàn. Tô tức xứ có nghĩa là từ trong sanh tửđược giải thoát tự tại, tức là Niết bàn.

Kinh Pháp Hoa dụ nhà lửa rằng: “Bầy con trẻ vì muốn được xe để chơi mà chạy ra khỏi nhà lửa, ngồi chơi ngoài trời”, là ý này vậy. Trong kinh tuy nói như vậy, nhưng đây đương nhiên “Đức Phật phương tiện nói về hữu dư bất liễu nghĩa”. Phương tiện thì không phải là chơn thật mà chỉ là quyền xảo phương tiện giả nói đó thôi. Đức Phật nói pháp có hai loại là hữu dư ý và vô dư ý. Hữu dư ý thì không thể căn cứ trên mặt ngữ ngôn văn tựgiải thích. Bởi vì nội dung của hữu dư ý hoặc là thiểu phần hoặc là đặc thù v.v… mà nói. Vô dư ý thì có thể như ngữ văn mà giải nghĩa, không có ý nghĩa nào khác nữa. Hữu dư ý là phương tiện giả thuyết. Vô dư ý thì rốt ráo. Bất liễu nghĩa là đối với liễu nghĩa mà nói. Liễu nghĩa thì hoàn toàn rốt ráo, nghĩa lý triệt để. Như nói các pháp vô ngãliễu nghĩa. Như nói hữu tình chúng sanhbất liễu nghĩa. Nay nói A la hán, Bích chi Phật quán sát tứ trí cứu cánh giải thoát đắc Tô tức xứ (Niết bàn). Đây là Như Lai phương tiện nói chứ chẳng phải chân thật. Nghĩa là Như Lai nói hữu dư ý thuyết chứ chẳng phải vô dư ý thuyết. Như Lai nói bất liễu nghĩa chứ chẳng phải liễu nghĩa.

CHÁNH VĂN: 

Vì sao? Vì có hai thứ chết. Những gì là hai? Ấy là phần đoạn tử và bất tư nghì biến dịch tử. Phần đoạn tử là trạng thái hư ngụy của chúng sanh, bất tư nghì biến dịch tửtrạng thái A la hán, Bích chi Phật, đại lực Bồ Tát ý sanh thân, cho đến quả vị cứu cánh Vô thượng Bồ đề.

LỜI GIẢI: 

Bình thường nói liễu sanh tử, kỳ thực có hai thứ tử. Thường người ta nói hai thứ sanh tử, kinh này chỉ nói tử mà không ghép đôi hai chữ sanh tử. Nay có thể giải thích như sau: Từ sanh đến tử thường thì người ta đặc biệt sợ già chết. Vì vậy ở đây chỉ nói hai thứ tử: Ấy là phần đoạn tử và bất tư nghì biến dịch tử. Phần đoạn tử tức là trạng thái sanh tử thông thường của chúng ta. Nghĩa là ba việc thọ, nóng ấm, thức hoà hợp kết sanh gọi là sanh. Sau khi sanh sống vài mươi năm, trăm năm v.v…đến khi thọ, nóng, thức không còn hoà hợp ly diệt thì gọi là tử. Tử rồi lại sanh, sanh rồi lại tử, mỗi kỳ sanh mỗi kỳ tử, tử tử sanh sanh phân làm từng giai đoạn sanh tử, nên gọi là phần đoạn sanh tử, hay còn gọi là phần vị sanh tử. Loại phần đoạn sanh tử này thuộc phàm phu Nhị thừa và những chúng sanh chưa chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Còn biến dịch sanh tử thì không có tướng phần đoạn. Nghĩa là không có hình tướng sanh diệt. Tuy trước sau liên tục không có tướng liên tục, nhưng vẫn còn sát na trước bất trụ sanh diệt biến hoá, nghĩa là trạng thái vi tế sanh diệt của dòng sanh diệtphàm nhân không liễu đạt nổi. Biến dịch tử là từng sát na từng sát na sanh diệt biến hoá. Người ta thường nói A la hán, Bích chi Phật nhập Vô dư Niết bàn, tức không có phần đoạn sanh tử mà trước sau vẫn còn vi tế sanh diệt tương tục. Thứ vi tế sanh tử này không phải là phàm phu, Nhị thừa có thể nghĩ lường được, hiểu được, nên gọi là bất tư nghì. Kinh này giải thích rằng: Phần đoạn tử là chỉ cho mạng sống tạm bợ hư ngụy của chúng sanh. Hư ngụy tức là hư vọng, là chẳng chơn thật nghĩa. Học giả đời Đường dịch phần đoạn là tương tục. Tương tục có ba thứ là: Phiền não tương tục, nghiệp tương tục, khổ tương tục, hợp ba thứ này lại gọi là phần đoạn sanh tử. Phàm phu, Nhị thừa, Bồ Tát chưa chứng Vô sanh pháp nhẫn đều là còn trong trạng thái phần đoạn sanh tử. Bất tư nghì biến dịch sanh tử thường được nói đến trong Phật pháp là thuộc hàng đại lực Bồ Tát ý sanh thân. A la hán, Bích chi Phật nhập Vô dư y Niết bàn, tức là đạt biến dịch sanh tử khởi ý sanh thân.

Đại lực Bồ Tát là bậc Bồ Tát từ bi nguyện lực thần thông tự tại. A la hán, Bích chi Phật, đại lực Bồ Tát, ba bậc Thánh nhơn này đều còn trong trạng thái biến dịch sanh tử.

Ý sanh thân còn gọi là ý thành thân, loại thân này rất là vi diệu. Chữ ý ở trong danh từ này đại để có ba nghĩa: Một là vô ngại. Hai là mau lẹ. Ba là đến khắp. Ba hạng Thánh nhơn này được thân vi diệu linh hoạt như ý thức của chúng ta, không những không bị giới hạn trở ngại mà còn mau lẹ tùy ý hiện hành, tùy ý sở thành, nên gọi là ý sanh thân.

Ý sanh thân còn sanh diệt biến hoá cho đến khi đạt đến cứu cánh Vô thượng Bồ đề, tức thành Phật, thì ý sanh thân sanh diệt biến hoá mới hết. Chỉ có Phật địa tập chướng mới hoàn toàn thanh tịnh, công đức mới hoàn toàn viên mãn không khuyết không dư, không còn có biến dịch. Vì vậy tán thán Phật thường hằng bất biến thanh lương. Ở đây tưởng cũng nên lược nói về ý sanh thân:

1/ Kinh A Hàm có đề cập đến ý sanh thân. Tại sao gọi là ý sanh thân? Tức là nói về sinh hoạt của thân trung hữu hay còn gọi là thân trung ấm. Như nói về người thì, chúng sanh từ khi thọ thân người cho đến khi chết nghiệp dẫn thọ sanh, trong khoảng thời gian chưa thọ sanh vào loài súc sanh, thì chúng sanh đó cũng có thân chịu trạng thái sống chết. Vì có thân sống chết trong khoảng thời gian chưa đầu thai ấy, nên gọi là thân trung hữu hay thân trung ấm, hoặc gọi là ý sanh thân. Nếu cứ vào thân chúng sanh cõi Sắc và cõi Vô sắc giới mà nói, Kinh A Hàm cũng có đề cập đến hai thứ Niết bàn: Một là Hữu dư Niết bàn; hai là Vô dư Niết bàn. Căn cứ vào cổ điển Kinh A Hàm nghĩa nói thì: Đắc bất hoàn quả (A na hàm quả) gọi là Hữu dư Niết bàn.Đắc A la hán quả gọi là Vô dư Niết bàn. Từ quả thứ ba của tứ quả Thanh văn tức A na hàm trở lên, thì không còn phải thọ sanh vào cảnh Dục giới nữa, tức là sở đắc thượng giới thân, gọi đó là ý sanh thân.

Khi Phật còn ở đời, hai vị đệ tử của Ngài là Ưu Đà DiXá Lợi Phất đã từng tranh luận về ý sanh thân có sắc hay không sắc. Riêng Ưu Đà Di quả quyết rằng ý sanh thânvô sắc, nên bị Phật quở. Như thế đủ biết rằng A na hàm quả đắc Hữu dư Niết bàn, tức là hữu ý sanh thân. A la hán quả đắc Vô dư Niết bàn, tức là không ý sanh thân. Nay kinh Thắng Man lược nói có chỗ bất đồng với quan điểm trên, ấy là A la hán, Bích chi Phật vẫn thuộc Hữu dư Niết bàn, tức là hữu biến dịch sanh tử, gọi là ý sanh thân, khi nào chứng đắc Vô thượng Bồ đề mới được Vô dư Niết bàn, mới gọi là vô ý sanh thân. Từ đây chúng ta có thể biết Kinh A Hàmcăn cứ vào hành giả Thanh văn, phạm vi quan điểm của Nhị thừa mà luận hữu dư vô dư và ý sanh thân. Trong khi đó Kinh Thắng Man đứng trên quan điểm Đại thừa cũng căn cứ vào cựu thuyết; nhưng lại có lối biện giải tích phân tinh tường hơn, tức là căn cứ Nhị thừa quả và Phật quả để luận giải hữu dư vô dư và ý sanh thân. Kỳ thật Phật pháp vốn không có đại tiểu, tất cả đều đồng nhất truyền thuyết. Nhưng chẳng qua đứng trên quan điểm quả vị dị biệt mà có sự giải thích bất đồng.

2/ Đại lực Bồ Tát ý sanh thân. Đây căn cứ vào vị thứ Bồ Tát mà lược nói có hai:

+ Theo giải thuyết cổ điển như Đại Trí Độ Luận nói thì: “Thất địa Bồ Tát xả thân trùng”. Nghĩa là Thất địa Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn xả bỏ thân trùng, tức là lìa khỏi phần đoạn thân. Luận nói về thân trùng nghĩa là thân thể chúng sanh là do đại khối vi trùng tụ tập. Bởi thân do đại khối vi trùng kết hợp, nên có sanh, bệnh, già, chết. Thất địa Bồ Tát xa lìa thân trùng được pháp tánh sanh thân, ý sanh thân, tuy có sát na sanh diệt, nhưng không có trạng thái khổ của các thứ bệnh, già, chết. Do đó, từ Thất địa Bồ Tát về trước còn có phần đoạn sanh tử. Thất địa Bồ Tát về sau thì có sanh ý thân biến dịch sanh tử. Kinh Pháp Cổ cũng nói như thế: “Bảy hạng học nhơn và Thất trụ Bồ Tát chẳng khác nào như chất sữa sanh tô (lớp sữa trên mặt). Đắc ý sanh thân A la hán, Bích chi Phật đắc tự tại lực và Cửu trụ Thập trụ Bồ Tát cũng như chất sữa sanh tô chín”. Thất chủng học nhơn Thanh văn gồm có: Sơ quả hướng, Sơ quả; Nhị quả hướng, Nhị quả; Tam quả hướng, Tam quả; Tứ quả hướng. Bảy quả vị này chưa thông đạt liễu giải cảnh trí của A la hán Bích chi Phật. Trên đây nói bảy hạng học nhơn của Thanh văn Tiểu thừa và Thất trụ địa Đại thừa như chất sữa sanh tô. Tiếp theo lại nói đến cửu trụ Bồ Tát, thập trụ Bồ Tát, A la hán, Bích chi Phật thấy đắc ý sanh thân và đắc tự tại lực Bồ Tát, tức là đệ bát trụ địa. Điểm này xưa nay có thuyết khác nhau, hoặc nói thất địa đắc Vô sanh nhẫn hoặc nói bát địa đắc Vô sanh pháp nhẫn. Từ thất địa hoặc bát địa trở lên đại thể nhất trí chỉ có ý sanh thân biến dịch sanh tử. Nhưng trong các kinh luận của giáo hệ Pháp Tướng Tông thì chỗ thuyết minh bất đồng. Chẳng hạn như Ngài Chân Đế dịch Kinh Vô Thượng Y, Phật Tánh Luận, và Ngài Công Đức Hiền dịch Kinh Lăng Già đều lập thuyết hiển bày sơ địa Bồ Tát đắc ý sanh thân. Riêng về Kinh Lăng Già thì y cứ vào hàng Bồ Tát mà nói thì có ba loại sanh thân: 1/ Tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân. Đây là chỉ cho hàng sơ địa đến Lục địa Bồ Tát. 2/ Giác pháp tự tánh ý sanh thân, tức là chỉ cho hàng Thất địaBát địa Bồ Tát ý sanh thân giống bằng với chỗ chứng đắc Niết bàn của A la hán Bích chi Phật. 3/ Chủng loại câu sanh vô tác hành ý sanh thân. Đây là ý sanh thân của hàng Cửu địa, Thập địa Bồ Tát. Nếu y theo thuyết này thì Kinh Thắng Man gọi đại lực Bồ Tát phải bằng giống với giác pháp tự tánh ý sanh thân của Kinh Lăng Già. Hai thuyết vốn bất đồng, nhưng cổ nhơn đã có thể hội thông, hoặc y theo thuyết của Long Thọ nói thì: Độn căn thất địa Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Trong lúc đó lợi căn sơ địa Bồ Tát đã có thể đắc Vô sanh pháp nhẫn rồi. Các nhà Duy Thức Học nói: Các bậc Bồ Tát trí huệ tăng thượng thì nơi sơ địa đắc ý sanh thân. Các Bồ Tát từ bi tăng thượng thì bát địa đắc ý sanh thân.

CHÁNH VĂN: 

Trong hai loại chết, bởi do phần đoạn tử, nên nói A la hán Bích chi Phật biết sự sống ta đã hết, chứng được quả Hữu dư, nói rằng phạm hạnh đã lập, hạng phàm phu nhơn thiên không thể rõ, bảy hạng học nhơn chưa thể làm, hư ngụy phiền não đã đoạn hết, cho rằng việc tu hành đã làm xong. A la hán Bích chi Phật đã đoạn phiền não, không còn thân hậu hữu, nên nói không chịu thân hậu hữu.

LỜI GIẢI: 

Trên kia nói về hai loại tử, tức là nhằm thuyết minh rốt ráo về ý thú của tứ trí Nhị thừa. Vì vậy mới nói tiếp là ở trong hai thứ tử chỉ giới hạn nói phần đoạn tử, tức là chỉ nói quan niệm của hàng Nhị thừa A la hán, Bích chi Phật cho rằng mình sống đã hết, chứ không phải nói về biến dịch tử. A la hán, Bích chi Phật tu tập chánh đạo có thể chứng đắc hữu dư quả, nên nói Phạm hạnh của Nhị thừa thánh đạo chỉ có thể đắc hữu dư quả A la hán mà không thể chứng đắc vô dư quả. Thật ra hữu dư quả của Nhị thừa đối với phàm phu nhơn thiên cũng đã khó làm rồi. Bảy thứ học nhơn trước khi tiến đến quả vị A la hán cũng chưa thực hiện được. Xin lập lại giai đoạn tu chứng của bảy học nhơn là: 1/ Sơ quả hướng; 2/ Sơ quả; 3/ Nhị quả hướng; 4/ Nhị quả; 5/ Tam quả hướng; 6/ Tam quả; 7/ Tứ quả hướng. Trước khi đạt đến quả A la hán phải trải qua bảy giai đoạn tu chứng này. Bảy hạng hành giả Thanh văn này còn phải gia công tu học nên gọi là học nhơn. A la hán gọi là vô học nhơn. Thế nên kinh Phật thường gọi Nhị thừa có hai hạng hữu họcvô học

Như vậy phàm phu nhơn thiên và đến cả bảy thứ học nhơn cũng chưa chứng phần đoạn tử, nghĩa là chưa ly trạng thái của chết từng phần. A la hán đoạn diệt hư ngụy phiền não. Hư ngụy phiền não căn bảnA la hán đoạn trừ đó là tám mươi tám thứ Kiến sở đoạn hoặc và mười thứ Tư sở đoạn hoặc. Cũng nên biết rằng Kiến hoặcTư hoặc này là phần đoạn sanh tử trong ba cõi. Khi nào đoạn sạch hai loại hoặc này thì vượt thoát tam giới chứng quả Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác, chấm dứt phần đoạn sanh tử khổ, không còn hạn hữu thân. Phật gọi đây là chứng đắc Nhị thừa tứ trí cứu cánh. Đoạn trần sa hoặc thì chứng quyền thừa Bồ Tát. Đoạn từng phần vô minh hoặc thì chứng từng phần pháp tánh Bồ Tát. Đoạn sạch vô minh thì chứng quả Phật vô thượng Bồ đề.

Cứ theo thứ lớp tu chứng của Đại thừa thì hành giả tu Bồ Tát hạnh phải tu trải qua năm mươi hai quả vị mới đoạn sạch vô minh chứng đến Phật quả. Năm mươi hai quả vị đó là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giácdiệu giác Phật quả. Khi hành giả Bồ Tát tu mãn mỗi thập vị thì đoạn được một phần vô minhchứng đắc một phần pháp tánh của Phật. Pháp tánh gồm có ba là Pháp thân, Bát nhãGiải thoát

CHÁNH VĂN:

Chẳng phải hết tất cả phiền não, cũng chẳng phải dứt hết tất cả thọ sanh. Thế nên nói chẳng nói chẳng thọ hậu hữu. Vì cớ sao? Bởi lẽ có loại phiền nãoA la hán, Bích chi Phật chưa có thể đoạn.

LỜI GIẢI: 

A la hán đã đoạn những phiền não, nên không còn nghiệp lực dẫn thọ sanh thân hậu hữu. Nhưng trong vố số phiền não. A la hán chỉ đoạn một phần, còn có phiền não chưa đoạn trừ, nên cũng có thể bị dẫn lực thọ sanh tử. Nên kinh nói: “Chẳng phải hết tất cả phiền não, cũng chẳng phải hết tất cả thọ sanh, thế nên nói chẳng thọ hậu hữu”. Xưa nay sanh tử vốn là quả khổ. Nguyên nhơn của sanh tửphiền não. Phiền não hết thì tự nhiên sanh tử không còn. Cũng giống như cây bị chặt gốc thì cây tự nhiên khô. Nhị thừa đoạn phần đoạn sanh tử nhưng vẫn còn biến dịch sanh tử. Đây là do có những phiền não chưa đoạn. Bởi loại phiền não câu sanh vi tếA la hán, Bích chi Phật chưa đủ khả năng đoạn sạch. Tiếp theo dưới đây luận về phiền não mà hàng Nhị thừa chưa thể đoạn, đồng thời hiển bày cái nghĩa Nhị thừa hữu dư để rồi sau đó quy về cứu cánh vô dư Nhất thừa.

CHÁNH VĂN: 

Phiền não có hai thứ. Những gì là hai? Đó là trụ địa phiền não và khởi phiền não. Riêng về trụ địa phiền não có bốn thứ. Những gì là bốn? Ấy là kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa, sắc ái trụ địa, hữu ái trụ địa. Bốn thứ trụ địa này sanh ra tất cả khởi phiền não. Khởi là sát na tâm, sát na tướng tương ưng. Bạch Thế Tôn! Tâm bất tương ưngtrụ địa vô thỉ vô minh.

LỜI GIẢI: 

Khi luận giải về Nhị thừa chưa đoạn hết phiền não, trước phải tổng quát thuyết minh số lượng phiền não, rồi sau đó mới minh xác Nhị thừa chưa đoạn sạch phiền não.

Phiền não là phiền động nhiễu loạn khiến cho thân tâm chúng sanh hiện tại vị lai không được an ổn. Một cách thống quát thì phiền não có thể phân làm hai thứ: Trụ địa phiền não và khởi phiền não. Trụ địa còn có tên là tập địa. Tập tức là huân tập. Địa có nghĩa là nơi nương trụ và sanh trưởng. Như cây cỏ từ đất mà sanh, nương trụ nơi đất. Khởi là hiện khởi, tức là hiện hành hiển hiện ở ngay hiện tại, giống như bệnh sốt rét ở thời kỳ tiềm phục chưa phát hiện, tạm gọi là thời kỳ trụ địa. Khi lạnh nóng phát sanh tác dụng tức là hiện khởi. Tướng trạng phiền não cũng như thế. Khi tham tâm hoặc sân tâm hiện khởi thì liền đó khởi phiền não. Có lúc tuy chẳng hiện khởi tham sân, trạng thái bình thường hoan hỷ bố thí, trẻ con ngủ say không mộng, ở trạng thái này thật ra phiền não vẫn tiềm phục trong tâm thức, trạng thái này gọi là trụ địa. Nói cách khác, trụ địa tức là huân tập, chủng tử ẩn tàng, khi phát khởi thì gọi là hiện hành.

Trụ địa phiền não lại cũng có thể phân làm bốn thứ: 1/ Kiến nhất xứ trụ địa; 2/ Dục ái trụ địa; 3/ Sắc ái trụ địa; 4/ Hữu ái trụ địa. Những trụ địa này lại có thể khái quát phân làm hai phương diện để luận:

1/ Luận về tu đoạn phiền não thì có thể chia làm hai loại là kiến đạo sở đoạntu đạo sở đoạn. Kiến là chứng kiến, thấu rõ thật lý, danh từ Phật học gọi là kiến đế. Nghĩa là một khi đã thấy rõ thật lý của sự vật thì mê lý liền dứt, tức là trạng thái lý trí không còn lầm nhận nữa, nhưng phiền não vẫn còn có thể làm ngại chánh tri kiến đế. Điều này do mê sự mà khởi. Bởi vì xúc cảnh tùy duyên đối với sự tướng hãy còn sanh khởi các thứ lầm loạn nhiễm trước. Nói cách khác cho dễ hiểu là, lý tríhiểu rõ, nhưng thói quen tập khí vẫn còn mê trước. Thí dụ như người nghiền thuốc phiện, tuy biết thuốc phiện là thứ độc hại, nhưng thị hiếu bị khêu gợi tưởng đến vị thuốc ngon, nên tuy biết rõ tánh chất độc hại mà vẫn phải thèm hút. Điều này giống như Kiến đạo sở đoạn. Nghĩa là thấy biết rõ lợi hại không còn lầm lẫn, điên đảo, dứt sự mê mờ nhận định. Nhưng tập khí quen ghiền hút vẫn còn, vẫn khó tránh không hút. Sự thèm muốn vi tế, thói quen tập khí thúc giục, nên phải đòi hỏi sự cố gắng kiên nhẫn khắc phục liên tục cho đến khi hoàn toàn không còn thèm, không còn nghĩ đến, không còn bị lôi cuốn. Điều này chẳng khác nào Tu đạo sở đoạn . Nghĩa là lý thì đã hỉểu, nhưng sự thì dần dần đoạn diệt chứ không thể cùng một lúc đoạn ngay. Như kinh nói: “Lý thì đã suốt liễu, sự dần dần diệt đoạn” . Điều này cho chúng ta thấy chứng kiến ngộ đạo không phải tất cả đều cùng lúc thành tựu trọn vẹn, mà cần phải từ cuộc sống hiện thực không ngừng tu luyện dần dần để trừ sạch những nhiễm trước vi tế, tận diệt quan niệm ý tưởng bất hợp lý ẩn tàng trong tâm thức.

2/ Luận về phiền não cũng có thể phân làm hai thứ, tức là kiến và ái. Kiến hoặc là do tư tưởng sai lầm, như chấp ngã, chấp thường v.v… Ái là tâm hành nhiễm trước, như tham sân v.v…Nay tổng hợp hai ý này để giải thích về bốn trụ địa: 1/Kiến nhất xứ trụ địa là chỉ tất cả sự thấy nhiếp tập một chỗ, khi kiến đạo đoạn ngay một chỗ. Kiến có tánh chấp trước, nhận thấy như thế chắc chắn rằng như thế. Kinh Anh Lạc phân làm bảy thứ kiến, tức là ngã kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, nghi kiến. Đây tức là Kiến đạo sở đoạn, thuộc về cái thấy tất cả. Kinh A Hàm nói: “ Đoạn tam kết thì được quả Tu đà hoàn”. Tam kết tức là ngã kiến, giới cấm thủ và nghi. Ba thứ này là phần trọng yếu của trong bảy thứ kiến kia. Còn về ái thì lại phân làm ba thứ, đây là Tu đạo sở đoạn hoặc, thuộc trong ba cõi phần đoạn, tức là dục giới tu sở đoạn hoặc. Sắc giới tu sở đoạn hoặc và Vô sắc giới tu sở đoạn hoặc. 2/ Dục ái trụ địa: Tức là tu đoạn tất cả phiền não cõi Dục giới. 3/ Sắc ái trụ địa: Tức là tu đoạn tất cả phiền não cõi sắc. 4/ Hữu ái trụ địa: Tức là tu đoạn phiền não cõi Vô sắc. Đây là do ái nhiếp tập, nên đều gọi là ái. Ngoại đạo lầm nhận cõi Vô sắc giớiNiết bàn, kỳ thực đâu có biết Vô sắc giới vẫn còn trong vòng sanh tử, nên gọi là Hữu, nghĩa là sanh tử ái vẫn còn. Đối với vấn đề Tu sở đoạn hoặc, Kinh Anh Lạc nói có sáu thứ: Tham, ái, sân, si, dục, mạn. Riêng về tham, ái, dục ba thứ này là danh xưng riêng của ba cõi ái. Nghĩa là có chỗ nói là ái, có chỗ nói là tham, có chỗ nói là dục, dùng chỉ chung cho tam giới. Kinh Anh Lạc nói có sự trùng hợp với luận thuyết của Nhất thiết hữu bộ.

Bốn thứ trụ địa trên đây sanh khởi tất cả phiền não hiện hành. Từ Kiến nhất xứ trụ địaquán sát, ta thấy tất cả phiền não sanh khởi. Từ Dục ái trụ địa mà hàm nhiếp tất cả dục ái phiền não sanh khởi. Từ Sắc ái trụ địa mà nhiếp thâu tất cả sắc ái phiền não sanh khởi. Từ Hữu ái trụ địa gồm nhiếp tất cả hữu ái phiền não sanh khởi. Thế nên, khởi phiền não phải từ trụ địa phiền não mà nói, điều này cũng lại có bốn thứ.

Thế nào gọi là Khởi? Như trên đã nói, khởi có nghĩa là sát na tâm sát na tướng tương ưng. Thời gian của sát nathời gian mỗi niệm sanh diệt. Dòng tâm thức là chuỗi sát na sát na nối tiếp, nên gọi là sát na tâm. Sát na phiền não sanh khởi cùng với sát na tâm tương ưng, nên gọi là sát na tâm sát na tướng tương ưng. Phiền nãotâm sở, còn tâm là tâm vương. Vương, sở tương ưng. Cũng như mắt thấy phân biệt cảnh sắc cùng với cùng với phiền não tương ưng và cũng do nơi cảnh sắc chuyển. Tâm và phiền não chỗ sở duyên đồng, hành tương đồng, đồng thời tương ưng hợp tác, nên gọi là tương ưng. Nói cách khác, xúc cảnh sanh tình liền sanh phiền não. Xúc, cảnh, tình và phiền não tương ưng tương hợp. Nhưng trụ địa thì không cùng tâm tương ưng. Cũng như khi tâm khởi niệm thiện thì không khởi phiền não tương ưng, mà trụ địa phiền não vẫn còn tiềm tàng. Nghĩa là trụ địa không cùng sát na tâm đồng duyên đồng sự. Tâm bất tương ưng này là vì vô thỉ vô minh trụ địa.

Như trên đã nói, phiền não có hai thứ: Một là trụ địa, hai là khởi. Trụ địa có bốn. Khởi từ bốn trụ địa xuất sanh. Khởi phiền não là tâm tương ưng, tâm bất tương ưng gọi là vô thỉ vô minh trụ địa. Vậy vô thỉ vô minh trụ địa này cùng với tứ trụ địa là đồng hay khác? Tứ trụ địa là tâm tương ưng hay bất tương ưng?

Tứ trụ địatrụ địa, đương nhiên cũng là tâm bất tương ưng. Y kinh đây nói thì, ngoài tứ trụ địa ra không có vô thỉ vô minh trụ địa nào khác. Vì vậy, ta thấy trong giới học Phật thường nói đến ngũ trụ phiền não, ấy là lấy giáo thuyết của kinh này làm gốc để luận chứng vậy. Dịch giả Kinh Thắng Man từ Phạn ngữ ra Hán văn là Ngài Cầu Na Bạt Đà La cũng là người đã dịch Kinh Lăng Già, gồm bốn quyển, trong mỗi quyển đều có nói đến tứ trụ địa, vô minh trụ địa. Tuy nhiên khi đem đối chiếu với các bản Kinh Lăng Già khác được dịch vào đời Ngụy đời Đường thì thấy các bản kinh này chỉ gọi là tứ chủng huân tập, mà không gọi là tứ trụ địa nữa. Nhưng y kinh này và Kinh Anh Lạc thì ngoài tứ trụ địa ra, không có vô thỉ vô minh trụ địa. Do đó, y kinh này phân tích về vấn đề khởi phiền não có hai: Một là tứ trụ địa sở khởi, tức là hằng sa thượng phiền não. Hai là vô thỉ vô minh trụ địa sở khởi, tức là quá hằng sa thượng phiền não. Trụ địa phiền não cũng có hai: Một là tứ trụ địa. Hai là vô thỉ vô minh trụ địa.

Phật pháp bổn nguyên nơi A Hàm Tỳ Ni, nay lược thuật.Tổng nhiếp tất cả phiền não là kiến nhất xứ và tam giới ái, tức là bốn thứ gọi là Phật pháp cộng nghĩa. Đại thừa bất cộng nói có năm thứ (ngũ chủng). Nhưng A Hàm và Tỳ Ni nói: A la hán đoạn phiền não, nhưng có phần chưa đoạn, ấy là tập khí. Tập khí Kinh Thắng Man này gọi là trụ địa. A la hán chẳng đoạn tập khí, Bích chi Phật tiêu trừ một phần tập khí. Chỉ có Phật mới đoạn sạch tất cả tập khí phiền não. Nhị thừa chẳng đoạn tập khí, trong khi hàng Thanh văn học phái xưng là bất nhiễm vô tri. Vô tri ở đây có nghĩa là vô minh; tập khí là loại vô minh rất vi tế ẩn tàng trong tâm thức hành giả, loại này cùng với vô minh trụ địa của Đại thừa giống nhau. Như Long Thọ khi giải thích về phiền não của Thanh vănBồ Tát có nói: “Tiểu thừa là tập khí. Bồ Tát là phiền não”. Hàng Thanh văn học giả cho rằng tập khí thì không nhiễm ô, vô ngại đối với việc sanh tử. Nhưng quan niệm của hàng Đại thừa học giả thì tập khí là thứ nhiễm ô vi tế, vẫn còn tác dụng chiêu cảm biến dịch sanh tử. Hàng Nhị thừa chưa đoạn phiền não vi tế này. Chỉ có Phật mới đoạn sạch vô minh. Đại thừa học giả nói, Bồ Tát trong khi tu hành đoạn từng phần từng phần vô minh phiền não cho đến khi thành Phật thì vô minh rốt ráo đoạn sạch. Đại thừa cho rằng vô minh trụ địa đích thực là căn bản phiền não mà trong giáo điển cố hữu đã từng xác nhận. Chẳng qua điều này đối với hàng Thanh văn học giả giải thuyết không đồng nhau.

Lại nữa, Kinh A Hàm nói phiền não có hai loại là triền và tùy miên. Điều này với Thanh văn học giả đại để cho rằng triền là tâm tương ưng, còn tùy miên là tâm bất tương ưng. Đặc tánh của tùy miên tâm bất tương ưng thì tiềm phục mà không có hiện khởi. Trạng thái tiềm phục này kinh luận thường họi đó là chủng tử hoặc huân tập. Vì vậy, kiến nhất xứ và tam giới ái phiền não đều là ước định chủng tập và hiện khởi mà nói, tức là tứ trụ phiền não (tùy miên) và khởi phiền não (triền). Đây là loại phiền não mà hàng Nhị thừa đúng ra có thể đoạn, tức là có thể đoạn tứ trụ và khởi, mà chẳng thể đoạn được, ấy là bởi loại vô thỉ vô minh trụ địa. Kinh đây tổng hợp những giáo nghĩa trên. Luận giải như trên đủ thấy rõ khởi phiền não là của tứ trụ địa không cần phải biện luận thêm mà tập địa gọi là vô minh cũng được công nhận. Vì vậy kinh này khi nói đến khởi phiền não tâm tương ưng tức là nói tâm bất tương ưng vô minh trụ địa. Mà tâm bất tương ưng tứ trụ địa cùng với vô minh trụ địa khởi phiền não lại chỉ lược qua mà không rộng luận giải. Thiên Thai Tông nói: Phiền não có ba loại hoặc, ấy là Kiến tư hoặc, Trần sa hoặcVô minh hoặc. Kiến tư hoặc tức là tứ trụ địa. Trần sa hoặc tức là từ Vô minh hoặc khởi hằng hà sa phiền não. Còn Vô minh hoặc tức là vô minh trụ địa. Nay y bổn kinh này thay vì phân làm bốn loại phiền não kiến, tư, trần savô minh thì phân làm hai, tức là Tứ trụ địaVô minh địa. Hai loại này mỗi loại đều có phiền não quyến thuộc của nó.

Kinh Anh Lạc khi nói về kiến và ái tứ trụ địa thì cho rằng kiến phiền nãosanh đắc nhất trụ địa, còn ái phiền não thì là tác đắc tam trụ địa. Do vô minh nên bất liễu nhất pháp giới tướng, vô thỉ lai tồn tại, nên gọi là vô thỉ vô minh trụ địa. Y nghĩa Kinh Anh Lạc thì, nguyên do bất liễu nhất pháp giới vô minh là bởi loại vô minh này có từ vô thỉ rất khó lý giải. Bởi do vô minhchúng sanh khởi niệm thức, tâm trụ nơi duyên thức tức là khi đó đã hình thành tâm cảnh tương quan tồn tại, liền sanh hữu kiến phiền não. Bởi do kiến hoặc mê lý mà khởi tác ái phiền não. Ở đây danh từ sanh đắctác đắc đều xưng là trụ địa, nên đều có hiện khởi. Thế nên sanh đắctác đắc vẫn chẳng phải là chủng tửhiện hành mà bổn tánh thành và tập sở thành, tức là y hiện hành thành giống, rồi giống lại sanh hiện hành. Do tánh thành và sanh đắc dẫn sanh tác đắc tập thành. Khi tâm cảnh tương đối tồn tại thì liền đó có phiền não sanh đắc tồn tại. Nhưng trước khi sanh đắctrạng thái mê muội bất giác, nên vẫn không thể nói khi đó là tâm hay cảnh, nghĩa là trạng thái vô thỉ vô minh trụ địa.

Trạng thái vô thỉ vô minh không những phàm phu Tiểu thừa không biết mà đến cả hàng thập địa Bồ Tát cũng không đích thật liễu đạt một cách rốt ráo, chỉ có Phật mới thấu triệt. Chính vì đặc tánh cực vi tế của ngũ trụ địa, nên trong Kinh Anh Lạc có phân nguồn gốc phiền não làm ba giai đoạn là, từ vô minhsanh đắc kiến, từ kiến mà tác đắc ái. Điều này đối với Kinh Thắng Man lược có sự bất đồng. Nghĩa là theo kinh này thì kiến và ái của tứ trụ địa không có nói đến sanh đắctác đắc, mà là đồng có trụ địa và hiện khởi. Nhưng đây y cứ căn nguyên phiền não vi tế vô thỉ vô minh trụ địa thì bất đồng.

Xem tiếp: Phần Chánh tông 2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12422)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13969)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10739)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10403)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11868)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13039)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13526)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12823)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12958)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11525)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11319)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11746)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11404)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18871)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12460)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11214)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15623)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11607)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12630)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12545)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13860)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13199)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12651)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11651)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12220)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12252)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19687)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11904)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16728)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14946)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15977)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12761)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12132)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11797)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11841)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13140)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12387)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11730)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11067)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11168)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9950)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11654)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant