Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 5: Bồ Tát Hành

30 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8346)
Chương 5: Bồ Tát Hành

THẮNG MAN GIẢNG LUẬN
Śrīmālā-siṃhanāda-sūtra-vyākhyā
Tuệ Sỹ dịch và giảng

PHẦN MỘT
GIẢNG LUẬN

CHƯƠNG V: 
BỒ TÁT HÀNH

TIẾT 1: NHIẾP SỰ VÀ NHIẾP THỌ

I. MƯỜI HAI NAN ĐỀ 

Động lực phát tâm cầu Phật thừa là do ở chỗ nhận định nỗi khổ không cùng tận của tất cả thế gian chứ không phải riêng mình. Cho nên, ngay sau khi vừa phát tâm, để củng cố tâm nguyện ấy, người thực hành Bồ tát đạo luôn luôn lấy sự an lạc của chúng sanh làm đối tượng. Trong quá trình thực hành ấy, cho đến khi hành động tự tại và để thành tựu kết quả ấy, Du-già [87] nêu lên mười hai trường hợp gian nan như sau:

1. Đối với hạng hữu tình thường vi phạm các luật tắc đạo đức, Bồ tát phải hành động như thế nào cho thích hợp, bằng trừng trị hay tha thứ?

2. Đối với hạng ác hữu tình, muốn khắc phục chúng, phải phương tiện hiện hành các công hạnh tân khổ, chế ngự ý chí của mình để không sanh phiền não.

3. Khả năng cung cấpgiới hạn, nhưng nhu cầu của chúng sinh trước những thống khổ bức bách thì vô cùng, làm thế nào để thỏa mãn?

4. Mình chỉ có một thân, nhưng các hạng khốn khổ cần cứu giúp lại vô số, làm thế nào để đồng thời đem lại lợi ích cho tất cả?

5. Trong trường hợp phải sống ở giữa những nơi buông lung, những nơi xa hoa, với những dục lạc quyến rũ, làm thế nào để tự khắc phục ý chí?

6. Luôn luôn mong cầu làm lợi ích một cách phổ biến, nhưng trong trường hợp chưa đủ sức, chưa đủ khả năng, thì làm thế nào?

7. Đối với các hạng ngu si, siểm trá, phải giáo dục, hay phải bỏ đi, như thế nào?

8. Thấy rõ nỗi khổ sanh tử luôn luôn áp bức nhưng không thể từ bỏ chúng sanh.

9. Chưa chứng được thanh tịnh tăng thượng ý lạc,[88] cho nên vẫn lo sợ tâm niệm xao lãng khi mạng chung.

10.Chưa chứng được thanh tịnh tăng thượng ý lạc mà có những đến cầu xin những thứ yêu quý nhất của mình.

11.Đối với các hạng có quan điểm dị biệt, có xu hướng dị biệt, làm thế nào để giáo dục, hay bỏ đi?

12.Thực hành sự không buông lung tối đa nhưng không cần phải gấp rút diệt tận các phiền não để một mình vào Niết-bàn.

Khắc phục được những gian nan ấy, đòi hỏi phải phát triển trí tuệ, tình cảm, ý chí. Đấy không phải là những điều muốn thành tựu tức thì thành tựu ngay. Do đó, trong quá trình hành động, kinh luận phân chia hai giai đoạn trọng yếu của Bồ tát.[89] Giai đoạn thứ nhất, kể từ khi mới phát tâm hướng thượngtrí tuệ, tình cảm và ý chí chưa vượt lên trên hạng phàm phu. Giai đoạn thứ hai, với tín tâm vững chắc không còn giao động trước mục tiêu hướng thượng của mình, là giai đoạn Thánh giả Bồ tát mà tất cả khả năng đã vượt hẳn thế gian.

Trước khi là một Thánh giả, đối tượng chính yếu phải phát triển là đạo đứctrí tuệ, trong khi đó vẫn không bỏ sót sự tài bồi tâm nguyện vị tha. Để phát triển đạo đứctrí tuệ, vị ấy phải thực hành các pháp môn của Thanh văn, tất nhiên có thể lựa chọn những pháp môn nào thích hợp và cũng có thể thực hành tất cả vì như vậy mới đủ khả năng làm mô phạm giáo hóa kẻ khác. Nghĩa là, phải tu tập quán sát để thấy rõ chân tướng của thế gian. Và để tài bồi tâm nguyện vị tha, căn bản hành động trong phương diện này là bốn nhiếp sự.

II. NHIẾP SỰ – NHIẾP THỌ – BA-LA-MẬT

Bốn nhiếp sự:[90] bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự, không phải là mô thức hành động riêng biệt của Bồ tát đạo, mà chung cho cả nhân thiên thừa. Đó là bốn nguyên tắc của đời sống tập thể, là những mô thức ràng buộc và đoàn kết tất cả mọi người trong đời sống cộng đồng bằng tình cảm vị tha cao cả.[91] Như kinh Thiện sanh[92] nói: «Chính những nhiếp sự này, khiến thế giới xoay quanh, như bánh xe quay lăn, vòng theo trục xe chính.» Và kinh cũng nói rằng, nếu không có bốn nhiếp sự này thì cả đến sự hiếu kính của con cái đối với cha mẹ cũng không có, hay cũng thành vô nghĩa.

Chính trong ý nghĩa đó mà bốn nhiếp sự được đề cao trong Bồ tát đạo. Song song với bốn nhiếp sự là sáu ba-la-mật. Nhưng chính bốn nhiếp sự này dẫn công trình thực hành sáu ba-la-mật đi đến mức thành tựu toàn vẹn, vừa tự phát triển khả năng của bản thân, và vừa hướng khả năng ấy đến với mọi cộng đồng khác của thế gian.

Sáu ba-la-mật được thực hành giới hạn tùy theo trình độ phát triển tâm linh. Cho đến khi bước vào địa vị Thánh giả Bồ tát, mà địa vị đầu tiên được gọi là Hoan hỉ địa,[93] bấy giờ từng giai đoạn một từng ba-la-mật được thành tựu trên mức tuyệt đối.[94] Sau khi thành tựu đến ba-la-mật thứ sáu,[95] trí tuệ ba-la-mật, thấy rõ chân tánhthực tướng của vạn hữu, bấy giờ là giai đoạn phát triển các khả năng xảo diệu, thành tựu phương tiện ba-la-mật, đạt địa vị thứ bảy gọi là Viễn hành địa.[96] Bên trên địa vị này từ điạ vị thứ tám trở lên,[97] Bồ tát mới đủ tài năng và trí tuệ để vượt qua những gian nan như đã dẫn Du-già ở trên. Cũng chính từ địa vị này trở đi, Bồ tát phát triển năng lực nhiếp thọ[98] chúng sinh. Nhiếp thọ trong ý nghĩa này tức là đóng vai trò thuyền trưởng đưa người vượt qua sóng gió, làm tư cách một nhà hướng đạo đưa đoàn lữ hành vượt qua sa mạc. 

Nói cách khác, nhiếp thọ[99] có thể được hiểu như là duy trì, bảo vệ hay quan phòng. Trước hết, nhiếp thọ trong trình độ mới phát tâm hướng thượng, được gọi là đốn phổ nhiếp thọ, tức sự nhiếp thọ trực tiếp và phổ biến, là thâu nhiếp trọn tất cả thế giới hữu tình vào trong vòng quyến thuộc của mình, với ý niệm rằng: «Tôi sẽ làm mọi lợi ích cho tất cả.» Thứ đến, là tăng thượng nhiếp thọ, tức là, tùy theo môi trường sinh hoạt, tùy theo địa vị xã hội của mình mà phụng sự, giáo dục, cho đến nhẫn mọi cái xấu xa của mọi người, khích lệ phát triển khía cạnh tốt. Đó là nhiếp thọ để tăng thượng, nghĩa là để hỗ trợ sự phát triển đạo đức của mọi người. Thứ ba, nhiếp thủ nhiếp thọ, tức nhiếp thọ bằng sự che chở, trong trường hợp làm bậc thầy của mọi người, có trách nhiệm giáo dục đối với một học chúng lớn. Thứ tư, trường thời nhiếp thọ, với những người cần phải gần gũi lâu dài để giáo hóa. Thứ năm, đoản thời nhiếp thọ, với những hạng trung bình, không đòi hỏi phải giáo hoá bằng thời gian lâu dài. Và sau chót, tối hậu nhiếp thọ, theo đuổi để giáo dục cho đến khi nào thành tựu tuyệt đối, không giới hạn thời gian đời này mà cả đến về đời sau.

TIẾT 2: BẤT TƯ NGHỊ NHIẾP THỌ

Đặc sắc của kinh Thắng Man ở đây là sự nhiếp thọ Chánh pháp, mà chúng ta thấy có mặt trong bất tư nghị nhiếp thọ này. Nói là bất tư nghị, vì nó vượt ngoài sự diễn tả thông thường. Bởi vì đây là hành vi của Thánh giả Bồ tát

Như đã từng định nghĩa, nhiếp thọ Chánh pháp được hiểu trên hai phương diện. Về tự hành, đó là sự học hỏi Chánh pháp không hề xao lãng. Về hóa tha, đó là sự hộ trì Chánh pháp khiến cho được tồn tại. Như vậy, nội dung ý nghĩa của nhiếp thọ Chánh pháp khá đơn giản, nhưng mức độ vi tế và quan trọng của nó tùy theo mức độ phát triển tâm linh trong quá trình thực hành Bồ tát đạo. Nội dung đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất, là hộ trì hay bảo vệ Chánh pháp. Nhưng sự bảo vệ được đặt trên một cơ sở có hai lớp: học và hành.[100] Quá trình diễn tiến của nhiếp thọ Chánh pháp khởi sự từ giới hạn của một phàm phu bình thường. Ở khởi điểm trên con đường hướng thượng này, ý chí bảo vệ Chánh pháp đi liền với ý chí học hỏi Chánh pháp. Muốn thành tựu sự học tất nhiên không thể không gần gũi thiện tri thức. Cho nên, trong trình độ này, trách nhiệm trọng yếu là thân cận, cung kính, tôn trọng, phụng sự các thiện tri thức để học tập không hề biết mệt mỏi, ghi nhận không hề xao lãng những điều đã học, luôn luôn phát triển khả năng quan sát sự tướng thế gian.

Khi sở học đã đạt đến một căn bản vững vàng, khả năng quan sát sự tướng thế gian đã tinh luyện, xảo diệu, bấy giờ dẫn đến thực hành. Mục tiêu thực hành ở đây là tự mình chứng nghiệm những điều đã học, mô phạm thực hành là bốn nhiếp sự và sáu ba-la-mật. Đây là giai đoạn của thánh giả Bồ tát từ địa vị thứ nhất cho đến địa vị thứ bảy.

Như vậy, Chánh pháp được bảo vệ bằng ý chí học tập không mệt mỏi, và bằng ý chí hành động không khiếp nhược. Từ đây trở đi, không những chỉ đủ khả năng bảo tồn Chánh pháp làm ngọn hải đăng trong đêm trường sinh tử, mà còn có khả năng thiếp lập Chánh pháp, làm tỏa rộng ánh sáng của hải đăng đến biên giới vô tận. Tức là vấn đề chủ yếu của chương này.

TIẾT 3: PHÂN TÍCH NỘI DUNG

I. Ý NGHĨA TRỌNG ĐẠI CỦA NHIẾP THỌ

Kể từ chương này trở đi, Thắng Man phu nhân sẽ lần lượt trình bày những điểm cốt yếu làm cơ sở cho tư tưởng Nhất thừa của kinh này. Chương này có nhiệm vụ nối kết giữa căn bản hành động được trình bày ở các chương trước và căn bản tư tưởng sẽ được trình bày trong các chương sau.

Toàn chương gồm ba phần chính. Phần thứ nhất, nêu lên bốn thí dụ để mô tả ý nghĩa trọng đại của sự nhiếp thọ Chánh pháp. Phần thứ hai, giải thích ý nghĩa trọng đại đó. Phần cuối cùng, sự ấn chứng của Phật. 

Ý nghĩa trọng đại của sự nhiếp thọ Chánh pháp được Phu nhân nói rằng: «Hằng sa các nguyện mà Bồ tát có, thảy đều thâu nhập vào trong một đại nguyện. Đó là nhiếp thọ Chánh pháp. Nhiếp thọ Chánh pháp là chân đại nguyệnTính cách trọng đại ấy như thế nào? Phu nhân nêu bốn thí dụ để giải thích.

Thí dụ 1 : Mây lớn - Ở đây, mây và mưa trong thời kỳ thế giới sáng thành được nói đến.

Đức Phật không hề đưa ra một Thượng đế có khả năng sáng tạo và hủy diệt thế gian. Ngài nói, thế gian được thành tựu hay hủy diệt do bởi hành vi của chính các loại hữu tình sống trong đó, bị thúc đẩy bởi tâm thức của chúng. Thế giới bị hủy diệt vì ngọn lửa thù hận chúng sanh. Tai biến thứ nhất là hỏa tai. Thứ đến, sau khi qua thời kỳ hỏa tai, một tai nạn lớn xảy ra: nước lụt. Chính dục vọng con người dẫn đến thảm họa đó. Sau hết, cơn lốc vũ trụ thổi bay tất cả tro tàn của thế giới đã bị đốt cháy bằng lửa và đã bị cuốn trôi bởi nước. Đám vi trần trở thành những đám bụi vũ trụ hỗn mang trong cơn lốc vũ trụ. Sự cuồng dại ngu ngốc của các loại hữu tình đã gây ra cơn lốc vũ trụ ấy. Rồi qua một thời gian, cũng từ cơn lốc vũ trụbản chất là sự cuồng dại tối tăm của các loại chúng sanh ấy tập hợp các đám vi trần vơ vẩn trong không gian thành những đám mây lớn. Truyền thuyết gọi đó là những đám mây sáng thế. Từ đám mây này đổ xuống những cơn mưa lớn, gọi là mưa vũ trụ. Những bọt nước mưa từ cơn mưa vũ trụ này dần dần kết chặt lại thành khối đất lớn. Nghĩa là, tình yêu và dục vọng lại một lần nữa hình thành thế giới, trong đó sẽ tái diễn những tấn kịch thảm khốc do bởi tham dục, thù hận và cuồng dại si ngốc.

Những đám mây vũ trụ được dùng làm thí dụ cho tính chất to lớn của sự nhiếp thọ Chánh pháp. Bởi vì, cũng như thế gian được khởi thủy tạo thành bởi những đám mây ấy, cũng vậy, Thắng Man phu nhân nói: «Sự nhiếp thọ Chánh pháp mưa xuống vô lượng phước báo và là những cơn mưa vô lượng thiện cănHạnh phúc của thế gian xuất phát từ khả năng nhiếp thọ Chánh pháp, và công bằng, bình đẳng và kiêm ái, tất cả đều được phát triển và tài bồi bởi sự nhiếp thọ chánh pháp.

Thí dụ 2: Nước lớn - Trong truyền thuyết sáng tạo thế gian, về phương diện ý nghĩa tượng trưng, nước được thí dụ cho tình yêu, yếu tố kết hợp. Trong truyền thuyết ấy, sau cơn mưa vũ trụ, nước dâng tràn dần dần đông thành chất rắn, thành khối đất lớn, tức nảy sanh «ba ngàn đại thiên thế giới tạng và bốn trăm ức lục địa.» Đó là thành ngữ chỉ cho một hệ thống tinh vân vũ trụ. Cũng vậy, từ sự nhiếp thọ Chánh pháp mà nảy sanh các thừa. Kinh nói: «Xuất sanh vô lượng thế giới tạng của Đại thừaTức từ nhiếp thọ Chánh pháp mà nảy sanh giáo pháp Đại thừa, đủ các địa vị Bồ tát. Nói cách khác, Thánh giả Bồ tát với vô số địa vị khác nhau đều lấy sự nhiếp thọ Chánh pháp làm nguyên sinh chất để thành tựu. Nói rằng: «Oai lực thần thông của hết thảy Bồ tát» tức chỉ cho khả năng hóa tha vô tận của Bồ tát cũng lấy sự nhiếp thọ chánh pháp làm yếu tố sơ thủy. Cả hai câu trên đều chỉ Đại thừa Bồ tát trên trình độ xuất thế gian tức các Thánh giả Bồ tát. Kinh văn lại nói: «Sự an ổn khoái lạc của hết thảy chúng sanh» là nói đến nhân thừa, hạnh phúc đạt được trong giới hạn vật dục tương đối. Lại nói: «Sự như ý tự tại của hết thảy chúng sanh» là nói đến thiên thừa, hạnh phúc vượt trên giới hạn vật dục tương đối. Kinh văn lại nói đến: «Sự an lạc xuất thế gian» là nói đến Thanh vănDuyên giác thừa. Và cuối cùng, «sự sáng thành thế giới cho những gì mà chư thiênnhân loại vốn chưa từng có» tức chỉ sự nhiếp thọ Chánh pháp không chỉ giới hạn trong ý nghĩa hộ trì Chánh pháp đơn phương mà còn bao hàm cả ý nghĩa hộ trì tất cả sự thành tựu thế gian.

Thí dụ 3: Đất lớn - Chỉ trách nhiệm trọng đại của sự nhiếp thọ Chánh pháp. Trách nhiệm này có bốn. Trước hết, trách nhiệm thiết lập nhân và thiên thừa, làm nơi trú ngụ an ổn cho các hạng chúng sanh không biết đến thiện tri thức, không biết đến đạo lý giải thoát, không có ý chí hướng thượng. Thứ đến, trách nhiệm thiết lập ba thừa xuất thế gian, gồm Thanh văn, Duyên giácBồ tát thừa, làm mô thức phát triển tâm linh cho những hạng có ý chí hướng thượng. Gánh vác trách nhiệm trọng đại ấy, tự mình là người bạn tốt của tất cả và là người mẹ hiền của tất cả. Với sự hỗ trợ không điều kiện, không cần mời thỉnh, không một mục đích tự lợi nào, mà hoàn toàn bằng tâm nguyện vị tha, đó là tư cách của người bạn không cần mời thỉnh. Với tấm lòng từ ái bao dung, nuôi lớn thiện tâm cho tất cả, đó là tư cách của người mẹ hiền trong Chánh pháp. Là Pháp mẫu.

Thí dụ 4: Kho bảo vật - Tức các hầm mỏ chứa đựng các thứ châu ngọc, gồm mọi tài nguyên vô tận của thiên nhiên, có khả năng cung cấp đời sống hạnh phúc cho mọi chúng sanh trên mặt đất. Các loại như ý bảo châu là những bảo tạng vô giá. Các loại châu báu thuộc hải sản như ngọc trai vân vân là thượng giá. Và các loại đồng, thiếc, v.v.., thuộc hạ giá. Bốn loại châu báu này chỉ cho bốn thừa: Nhân thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừaBồ tát thừa. Lòng đất là kho tàng vô tận của các tài nguyên châu bảo, cũng vậy, sự nhiếp thọ Chánh pháp là kho tàng vô tận cung cấp tất cả chúng sanh chất liệu và phương tiện sống một cách sung mãn, giàu có với trí tuệ vô biên; sang cả với những phẩm tính đạo đức tuyệt vời.

II. THỰC HÀNH NHIẾP THỌ

Trong ý nghĩa thực tiễn, Chánh pháp không phải là sự thực hay chân lý riêng biệt cho một cá thể nào trong chừng mực trình độ nào. Đó vừa là bản chất, bao gồm cả chất liệu nuôi dưỡng đời sống, và vừa là mục đích hay giá trị hay ý nghĩa của đời sống. Nói cách khác, Chánh pháp tức là chân lý, và những giá trị phổ quát của sự sống; đồng thời cũng là vô vàn hiện thực riêng biệt của từng cá thể sống.

Dù có tất cả những sai biệt tùy theo căn tính sai biệt ấy, nhưng thực tướng của thế giới vẫn không vì vậy mà thuần một mực là thường hay vô thường, thuần biến động hay không biến động. Thực tướng đó là Chánh pháp, là những gì được chứng ngộthành tựu nơi trí tuệ của Phật. 

Bồ tát hộ trì chánh pháp, trong bước đầuhọc hỏitu tập để nhìn thấy thấu suốt cái thực tướng ấy. Sau khi thành tựu sự nghiệp học hỏi này, không còn bị trở ngại bởi những sự tướng thế gian, Bồ tát hộ trì Chánh pháp bằng những sự tướng thế gian; Bồ tát hộ trì Chánh pháp bằng sự nhiếp thọ chúng sinh, tùy cơ duyên tự tạithi hành sáu ba-la-mật. Do đó, Chánh phápThắng Man phu nhân nói đến ở đây bao gồm cả hai mặt: Hành trìthực chứng, lý luậnthực tiễn. Do ý nghĩa này, Chánh phápnhiếp thọ Chánh pháphai mặt của một thực tại duy nhất. Chánh phápbản chấtnhiếp thọ Chánh phápcông năng. Hành động thích ứng với bản chất, và bản chất được bộc lộ, được thực chứng với hành động. Đó là ý nghĩa trong câu nói của Thắng Man phu nhân: «Không khác biệt Chánh pháp, không khác biệt nhiếp thọ Chánh pháp, Chánh pháp tức là nhiếp thọ Chánh pháp

1. TỰ THỂ CỦA NHIẾP THỌ

Chánh pháp mà được định nghĩa rằng: «Chánh pháp tức là nhiếp thọ Chánh pháp», đó là nhấn mạnh tính cách thực tiễn của Chánh pháp, và tính chất chân thật của sự nhiếp thọ Chánh pháp. Chánh pháp tức nhiếp thọ Chánh pháp, nhiếp thọ Chánh pháp tức ba-la-mật: chuỗi quan hệ này xác định một cách rõ rệt con đường của Bồ tát. Nếu lần đi từ bộ phận thực tiễn, thì sự thành tựu các ba-la-mật chính là thành tựu sự nhiếp thọ Chánh pháp. Và thành tựu sự nhiếp thọ Chánh pháp là chứng đạt được bản thân của Chánh pháp. Phu nhân nói: «Bạch Thế Tôn, ba-la-mật không khác biệt nhiếp thọ Chánh pháp. Nhiếp thọ Chánh pháp tức là ba-la-mật.» Sự xác định này có ý nghĩa rằng: Sự giác ngộ của Bồ tát không mang tính chất cá biệt, mà là sự giác ngộ toàn diện, đại đồng, tức sự giải thoátgiác ngộ luôn luôn nằm trong quan hệ mật thiết giữa ta và tất cả thế gian.

Sáu ba-la-mật được nói trong chương này, trong phần định nghĩa về nhiếp thọ Chánh pháp này, là khả năng hành động tự tại của Thánh giả Bồ tát từ địa vị thứ bảy trở lên,[101] Viễn hành địa, vì đã tu tập viên mãn sáu ba-la-mật qua nhiều môi trường, qua nhiều thời gian. Bấy giờ, sự thực hành sáu ba-la-mật là tùy theo cơ duyên, tùy theo tâm niệm của mỗi loại chúng sinh riêng biệt. Ba-la-mật như là phương tiện thiện xảo để Bồ tát hướng dẫn những hạng có căn duyên thích hợp bước lên Bồ tát đạo.[102]

2. NHÂN CÁCH NHIẾP THỌ

Mục trên nói về bản thân của nhiếp thọ. Mục này, Thắng Man phu nhân lại thỉnh cầu Phật hứa khả cho nói thêm về nghĩa lớn của nhiếp thọ Chánh pháp, là nói về nhân cách nhiếp thọ. Ở đây gồm có hai tiểu mục:

A. Tự lợi. — Nhân cách nhiếp thọ được nói là «thiện nam, thiện nữ nhiếp thọ Chánh pháp.» Nghĩa của câu này là : thiện nam hay thiện nữ nào đã thành tựu được sự nhiếp thọ Chánh pháp. Sự thành tựu ấy đưa đến kết quả gì? Trước hết, đối với bản thân của người nhiếp thọ ấy. Bởi vì để bảo vệ hay hộ trì sự tồn tại của Chánh pháp cho nên người nhiếp thọ Chánh pháp không thể không hy sinh thân thể, sinh mạng và tài sản. Trong sự hy sinh này, người nhiếp thọ Chánh pháp đã thấy rõ bản chất mong manh hư ảo của thân ngũ uẩn giả hợp này, của sinh mạng vô thường này, và của những tài sản phù vân này. Sở học và sở hành trong ý nghĩa hy sinhChánh pháp ấy đưa đến chỗ chứng ngộ một cách sâu xa, thâm thiết, bản chất đích thực của tất cả những gì có mặt trên thế gian. Sự hiến dâng vĩ đại này không có giới hạn thời gian. Hư không giới không cùng tận, chúng sanh giới không cùng tận, cho đến Phật pháp cũng không cùng tận, vì thế sự hy sinh thân, mạng và tài sản cũng không bao giờ cùng tận. Trong hy sinh vô tận, Bồ tát chứng thực ý nghĩa vô tận. Đó là sự thực chứng bằng kinh nghiệm học và hành về pháp tánh thường hằng qua những gì vô thường tạm bợ. Ở đây, người nhiếp thọ Chánh pháp hy sinh ba phần thuộc bản chất vô thường của chúng sanhthành tựu được ba phần của Pháp thân thường trú. 

B. Lợi tha. - Sự nhiếp thọ Chánh pháp của Thắng Man phu nhân là sự hộ trì chánh pháp trong thời đạiChánh pháp được công bố của đức Thích Tôn gần đi đến chỗ biến mất. Thực trạng của sự biến mất đó được mô tả rõ: lúc bấy giờ các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nghĩa là tất cả bốn chúng đệ tử của Phật, không tha thiết gì đến những sự kiện học hỏihành trì Phật pháp, mà chỉ bận tâm đến những tranh chấp, phe nhóm, bè đảng. Chính trong bối cảnh ấy, trách nhiệm nhiếp thọ Chánh pháp phải là sự nêu cao đức tính không gian xảo. Đức tính này được đề cao ở đây quả thực có một ý nghĩa quan trọng mà chúng ta không thể lơ đãng để lướt qua. Đó là sự tiên đoán gián tiếp rằng Phật pháp sẽ không được tôn sùng trong thời đại mà tính gian xảo như là bản chất chủ động của con người được bộc lộ phổ biến, cho đến đệ tử Phật cũng không ngoài công ước chung của thời đại. Lấy tính gian xảo làm bản chất chủ động để điều hành những mâu thuẫn xã hội, thì thực trạng của thời đại đương nhiên là đấu tranh thù nghịch, chia rẽ phe nhóm. Giữa những làn sóng đục thô bạo đó, trách nhiệm hộ trì chánh pháp là phải củng cố cộng đồng Chánh pháp, lấy trực tâm, lấy đức tính không gian xảo, đức tính nhiệt thành với chánh pháp làm nền tảng. Thắng Man phu nhân nói: «Những ai tham dự trong những cộng đồng Chánh pháp sẽ được các đức Phật thọ kýCộng đồng chánh pháp với cơ sở đạo đức vững chắc là thành trì bảo vệ chánh pháp trước những cơn lốc và ma quỷ của thời đại

III. PHẬT ẤN CHỨNG

Trong mỗi phân đoạn và mỗi tiết mục trên đây, trước khi trình bày một khía cạnh của nhiếp thọ Chánh pháp, Thắng Man phu nhân đều có thỉnh cầu hứa khả. Bởi vì những điều Phu nhân trình bày không phải chỉ là những phát biểu quan niệm riêng tư căn cứ trên sự hiểu biết cá biệt của mình, mà đấy còn là những điểm then chốt, những điểm trọng yếu trong giáo pháp của đức Thích Tôn. Cho nên cần được hứa khảấn chứng, để chúng trở thành những điểm giáo pháp mà ai đã phát tâm dũng mãnh hướng thượng có thể lấy đó làm tiêu chí cho sở học và sở hành của mình, không chỉ giới hạn trong thời đức Thích Tôn còn tại thế mà còn trong tất cả mọi thời đại về sau.

Trong phần ấn chứng của Phật, có ba thí dụ được nêu lên để mô tả những tính chất ưu thắng của nhiếp thọ Chánh pháp

Thí dụ thứ nhất về nhược điểm, hay tử huyệt của lực sỹ. Một lực sỹ dù có sức mạnh vô địch thế nào đi nữa, vẫn tồn tại trong cơ thể một điểm yếu gọi là tử huyệt. Cũng vậy, quyền lực ma quỷthế gian dù hung bạo và dù có to lớn đến mức nào, vẫn chứa đựng trong bản thân nó một yếu tố tự hủy diệt. Nhiếp thọ Chánh pháp như là cơ sở tất yếu để chiến thắng ma quỷ, những quyền lực cuồng bạo của thế gian ngự trị thế gian bằng sự gian xảo, đẩy lui sự thật của đời sống con người vào bóng tối. 

Thí dụ thứ hai, về trâu chúa. Nhiếp thọ Chánh pháp là điểm tập họp tất cả mọi hành vi thiện, và là khả năng hướng dẫn mọi hành vi hướng thiện; là khả năng hướng thượng vượt lên trên tầm mức hướng thượnggiới hạn của Tiểu thừa

Thí dụ thứ ba, về núi Tu-di. Uy nghiêmbất động trước mọi thứ giông bão, nhiếp thọ Chánh phápđiểm tựa vững chắc cho Bồ tát hành đạo, là nơi xuất phát tinh thần hy sinh vô úy

Ở đây cũng nên nói thêm một đôi điều về nét đặc sắc của ý nghĩa nhiếp thọ Chánh phápThắng Man phu nhân trình bày và Phật ấn chứng. 

Nhiếp thọ Chánh pháp, nghĩa thấy, cũng có nghĩa là hộ trì Chánh pháp. Và đây mới chính là tinh nghĩa của ý niệm này. Tinh nghĩa đó không chỉ đơn thuần về mặt học thuyết, mà còn chứa đựng những khía cạnh xã hội của nó. Tức là, cho đến một giai đọan lịch sử nhất định, vấn đề học Phật và tu Phật không chỉ có nghĩa đơn thuần là tu và học, với Tam tạng kinh điển, với các pháp môn tham thiền, quán tưởng, trong các tự viện, tại các tòng lâm. Tất nhiên, nội dung của tu và học vẫn là giớí-định-tuệ; và Phật tử vẫn hành đạo bằng các nhiếp sự, các ba-la-mật. Nhưng tất cả sinh hoạt ấy đều quy tụ vào một điểm: hộ trì hay bảo vệ Chánh pháp.
 
 

[87] Đại 30, tr. 564b16.

[88] Nhiếp luận thích (huyền), Đại 31, tr. 354c28: «Thanh tịnh tăng thượng ý lạc có những đặc tính gì? … Sự mong cầu và tin hiểu đều thanh tịnh, nói là thanh tịnh ý lạc.» Skt. śuddhādhyāśaya, Du-già, tr. 565a 2: Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, trải qua 7 địa vị khác nhau: 1. Chủng tính địa (Skt. gotra-bhūmi), 2. Thắng giải hành địa (Skt. adhimukti-caryā-bhūmi), 3. Tịnh thắng ý lạc địa (Skt. śuddhādhyāśaya), 4. Hành chính hành địa (Skt. caryāpratipatti-bhūmi), 5. Quyết định địa (Skt. niyatā-bhūmi), 6. Đáo cứu cánh địa (Skt. niṣṭhagamana-bhūmi), 7. Tạp địa (Skt. vỳmiśrà-bhūmi). Tiếng Phạn, adhyāśaya (tăng thượng ý lạc, hay thắng ý lạc) thường xuyên gặp trong các luận của Đại thừa, chỉ tâm nguyệný chí của Bồ Tát. Có nơi dịch là thâm tâm, chánh trực tâm, hay cao chí. Xem thêm, Du-già, tr. 551c8 ff.

[89] Giai đoạn «địa tiền» (Skt. pṛthgjanabhūmi: phàm phu địa hay dị sinh địa) trước khi chứng nhập mười địa (daśabhūmikā) khi đó còn gọi là Bồ Tát phàm phu; và «địa thượng» (Skt. Āryabhūmi: Thánh địa) từ đây trở đi được gọi là Bồ Tát Thánh giả.

[90] Sūtrālaṅ, tr. 1138 dānaṃ samaṃ priyākhyānam arthacaryā samārthatā/ tad deśanā samādāya svānuvṛttibhir iṣyate, «bố thí cùng với ái ngữ, lợi hành, đồng sự; sau khi thọ lãnh giáo pháp ấy, tích cực tự mình thục hành.»

[91] Sūtrālaṅ, 11410: parṣatkarṣaṇaprayuktairvidhireṣasamāśritaḥ sarvārtha­sid­dhau sarveṣāṃ sukhopāyaś ca śasyate, Bồ Tát muốn duy trì đoàn thể, dựa vào bốn nhiếp sự, vì đó là phương tiện tốt đẹp được ca ngợi trong tất cả sự thành tựu mục đích.

[92] Cf. Trường «16. Thiện sanh kinh», Đại 1, tr. 72. Cf. Phật thuyết Thi-ca-la-việt lục phương lễ bái kinh, An Thế Cao dịch, Đại 1, tr. 250. Phật thuyết Thiện sinh tử kinh, Chi Pháp Độ dịch, Đại 1, tr. 252. Pāli: Singālovāda, D. iii. tr. 192: dānañ ca peyye-vajjañ ca, attha-cariyā ca yā idha, samānattatā ca dhammesu, tattha tattha yathā 'rahaṃ, ete kho saṅgahā loke rathass'āṇīva yāyato. Tham khảo thêm, Du-già, Đại 30, tr. 529c.ff; Trang nghiêm kinh, Đại 31, tr. 633c.ff; Sūtrālaṅ, tr. 113ff.

[93] Daśā, tr. 823: pṛthagjanabhūmimavakrānto bhavati (…) tathāgata-kule'navadyo bhavati (…) lokottarāṃ gatiư sthito bhavati (…); evaṃ-rūpadharmavyavasthito bhavanto jinaputrā bodhisattvaḥ prāmu-ditāyāṃ bodhisattvabhūmau vyavasthito bhavaty acalanayogena: «Siêu việt địa vị phàm phu, … sinh vào trong gia tộc Như Lai, … trụ vững trên hướng đi siêu xuất thế gian; khi an trụ trong các pháp như vậy, Bồ Tát chứng nhập Bồ Tát địa gọi là Hoan hỷ địa, vì là không còn bị dao động nữa.»

[94] Nhiếp luận thích (Huyền), tr. 425b11: «Trong tất cả các địa không phải không tu tất cả ba-la-mật, (…) nhưng ở đây nói về ý nghĩa đặc thắng của sự tu tập

[95] Sūtrālaṅ, tr. 174 20 : sā hi prajñāpāramitāśrayeṇa nirvāṇa- saṃsārayor apratiṣṭhānāt saṃsāranirvāṇayor abhimukhì: «Bồ Tát ở địa thứ sáu, do y trên bát-nhã ba-la-mật, có thể không trụ sinh tử cũng không trụ Niết-bàn, do đó hướng đến cả hai (nên gọi là hiện tiền).» Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b3.

[96] Sūtrālaṅ, tr. 174.21: ekāyanapathaśleṣād bhūmir dūraṅgamà matā: do đã tiếp cận nhất thừa đạo, nên địa vị này được nói là viễn hành. Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b6.

[97] Sūtrālankā, tr. 17423 dvayasaṃjñāvicalanād acalā ca nirucyate: «do không còn bị dao động bởi các ấn tượng (hữu tướng hay vô tướng) nên được gọi là Bất động (acalā).» Cf. Trang nghiêm kinh, tr. 659b9.

[98] Du-già 48 (Đại 30, tr. 563b.29): Bồ Tát đối với chúng sanh có sáu trường hợp thi hành ân huệ chiếu cố chính đáng làm lợi ích cho chúng sinh, gọi là «hữu tình vô đảo nhiếp thọ» (Skt. samyak-sattva-parigraha), Bồ Tát địa trì kinh, quyển 10, (Đại 30, tr. 953b), gọi là «đẳng nhiếp thọ.» Sáu nhiếp thọ kể theo Du-già: 1. Đốn phổ nhiếp thọ (Skt. sakṛt-sarvasattva-parigraha), 2. Tăng thượng nhiếp thọ (Skt. adhipatya-parigraha), 3. Nhiếp thủ nhiếp thọ (Skt. upādāna-parigraha), 4. Trường thời nhiếp thọ (Skt. dīrgha-kālika-parigraha), 5. Đoản thời nhiếp thọ (Skt. adīrgha-kālika-parigraha), 6.Tối hậu nhiếp thọ (Skt. varama-parigraha).

[99] Từ Skt. parigraha, do gốc động từ pari+GRAH, nghĩa đen là nắm bắt (hay nắm giữ) hoàn toàn (hay toàn diện). Hán cũng có khi dịch là «hộ niệm.» Xem, Saddh., tr. 1185: sad­dharma­puṇḍarīkaṃ nāma dharmaparyāyaṃ sūtrāntaṃ (…) sarvabuddhaparigrahaṃ (…), bản dịch Hán tương đương đoạn này, «Đại thừa kinh danh Diệu Pháp liên hoa, giáo Bồ Tát pháp, Phật sở hộ niệm.» (Pháp hoa, Đại 9, tr. 25a 28). Trong dẫn chứng của Śikṣ (tr. 27.2), từ Skt. của Nhiếp thọ Chánh pháp là saddharma-parigraha. Hán dịch, Tập học, đoạn tương đương, Đại 32, tr. 82b.ff, dịch là «hộ trì chánh pháp

[100] Śikṣa tr, 26.20: ye te dharmabhāịakā eṣām evaṃrūpāṇāṃ sūtrāntānāṃ deśayitāraḥ pratipattisārāś ca, teṣām api dharma- bhāịakānāṃ yat sevanaṃ(…) parigrahaścīvarapiṇḍapātra- śayanāsanaglāna pratyayabhai-ṣajyapariṣkāradānaṃ (…), ayam api saddharmaparigrahaḥ. (…) tasya yā nivāraṇā parirakṣā ekāgrìbhāvo damaḥ śama upaśamo vinayaḥ, ayam uccyate saddharmaparigrahaḥ. «Những pháp sư diễn giảng các kinh điển như thế và kiên cố thực hành; với những vị ấy, ai thân cận, (…) hộ trì, cung cấp các thứ nhu dụng…., người ấy như vậy là hộ trì Chánh pháp. Những ai loại trừ các chướng ngại, tâm chuyên nhất, thuần hóa, an tĩnh, tịch tĩnh, tự điều phục, người ấy cũng được nói là hộ trì Chánh pháp

[101] Bảo khốt, tr. 27b19: «Về địa vị của Nhiếp thọ, ở Giang nam có ba thuyết. 1. Bân Pháp sư: khởi từ phàm phu ngoài Phật pháp, tu hành bao quát cả vạn hạnh, giáo hóa chúng sanh, làm xuất sinh thiện căn của năm thừa. Đó là nhiếp thọ Chánh pháp; 2. Tông Pháp sư: khi bước vào Bồ Tát địa, mới thật sự thành tựu vạn hạnh, thâu nhiếp và xuất sinh năm thừa…; 3. Đàm Đạt sư: từ Bát địa trở lên, chỉ trong một tâm mà đủ cả vạn hạnh, giáo hóa chúng sanh…»

[102] Daśa, tr. 40.7: evameva…asyāṃ saptamyāṃ bodhisattvabhūmau pratiṣṭhito bodhisattvaḥ sarvajñajñānamahāsāgarāvatīrịaḥ pāra-mitāmahāyānapātrābhir ūḍho bhūtakoṭivihāreṇa ca viharati, na ca nirodhaṃ sākṣātkaroti, «cũng vậy, Bồ Tát đã đứng vững trong địa thứ bảy này, bằng con thuyền lớn ba-la-mật mà vào đại dương Nhất thiết trí trí, phân định rõ giới hạn thực tế, nhưng không chứng nhập tịch diệt.» Cf. Hoa nghiêm (Phật), tr. 562b18.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11864)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15190)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16419)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12566)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11729)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17884)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15189)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14151)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10591)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant