Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Giới Thiệu

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11494)
Phần Giới Thiệu

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Phần Giới Thiệu

Ngày nay với sự tiến bộ của văn minh khoa học đã giúp con người có những cái nhìn tương đối rộng rãichính xác hơn đối với nhân sinh vũ trụ. Ngày xưa, khi Ngài Tam Tạng Trần Huyền Trang khổ công lặn núi trèo non, băng qua tuyết sơn giá buốt đến Ấn Độ để thỉnh kinh. Cuộc hành trình phải mất hai năm đi, hai năm về và 13 năm du học bắt đầu từ năm 629 mãi đến năm 645 Ngài mới về lại Trường An, Trung Quốc. Rời Đại Đường 17 năm, Ngài Huyền Trang đi trên năm vạn dặm đường, xuyên qua 128 quốc gia lớn nhỏ. Khi đi chỉ một người một ngựa, nhưng ngày trở về cố quốc Ngài đã thỉnh về 150 Xá Lợi, hai tượng Phật gỗ đàn tô ngân cao 4 thước, ba tượng Phật bằng đàn hương cao trên 2, 3 thước và 657 bộ kinh chia làm 520 hiệp cùng một số bảo vật khác. Trong suốt thời gian du học, Ngài đã thăm viếng hầu hết các di tích của đạo Phật như vườn Lâm Tỳ Ni (nơi Phật đản sanh), Bồ-đề đạo tràng (nơi Phật thành đạo), thành Câu thi na (nơi Phật nhập diệt) và rất nhiều tu viện lớn trải khắp Ấn Độ. Đặc biệt Ngài lưu lại sáu năm tại tu viện Na Lan Đà tu họctrở thành một trong ba người học trò giỏi nhất của cao tăng Giới Hiền. Tất cả những kinh điển của phái Đại thừa, Tiểu thừa, kinh Vệ đà ngay cả những sách thuốc…đều tập trung tại tu viện này. Từ ngày về lại Trung Hoa, Ngài Huyền Trang bắt tay ngay vào công việc phiên dịch.

Trong suốt 19 năm ròng rã, Ngài dịch được tất cả 75 bộ kinh, gần 1335 quyển từ tiếng Phạn sang tiếng Hán. Thể theo lời yêu cầu của vua Đường để phô trương cho người Ấn Độ biết những học thuyết của Trung Hoa, Ngài còn dịch bộ Đạo Đức Kinh của Lão Tử và bộ Đại Thừa khởi tín luận từ chữ Hán sang chữ Phạn. Và dĩ nhiên Ngài còn để lại cho đời một bộ “Đại Đường Tây Vực Ký” gồm 12 quyển ghi lại đầy đủ rất chi tiết về lịch sử, địa lý, phọng tục, tập quán…của 128 quốc gia Ngài đã đi qua. Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, vì tuổi già sức yếu Ngài gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, thọ 69 tuổi. Trên đường hồi hương Ngài phải băng qua con sông Tín độ (Indus), một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Khi đoàn người hộ tống kinh sách đến giữa dòng sông thì đột nhiên cuồng phong nổi sóng ba đào khiến thuyền bị chơi vơi làm rơi mất 50 bộ kinh. Biến cố nầy làm cho Ngài Huyền Trang ray rứt đau buồn khôn xiết vì Ngài quý kinh điển còn hơn cả mạng sống của mình. Giả sử ngày xưa Ngài Huyền Trang có cái “memory stick” chứa khoảng vài “Gigabyte” thì tất cả kinh điển có thể dung chứa trong cái memory nhỏ hơn ngón tay út nầy. Giả sử Ngài Huyền Trang có được chiếc máy “GPS” để dẫn đường thì cuộc hành trình qua Ấn Độ sẽ dễ dàng biết bao. Nhưng giả sử Ngài Huyền Trang có được những thứ nầy thì làm sao Phật giáo có được một bậc vĩ nhân đã tận tụy hy sinh cả đời mình cho Phật pháp, bất chấp mọi hiểm nguy. Một người chẳng những đã thông suốt tam tạng kinh điển mà còn cống hiến đời mình để thỉnh và dịch những bộ Đại Tạng Kinh lưu lại cho hậu thế đến hơi thở cuối cùng. Ngài là một tấm gương sáng chói cho hàng hậu học vì không có một thành công lớn nào trên thế gian mà không trải qua những thử thách khó khăn. Vì thế cổ nhân có dạy rằng:


“Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch”
Nghĩa là người cho chí lớn trước hết phải trải qua một phen khó khăn gian khổ, sau đó mới có thể đạt được sự dễ dàng.


Tu học kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng thế, đòi hỏi hành giả phải chuyên cần, bền chí dành nhiều thì giờ tư duy quán chiếu, thẩm xét tư lương đến khi nhân duyên đến, tức thì được ngộ. Do vậy cổ nhân cũng nhắn nhủ rằng:


“Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa phác tỵ hương?”


Nghĩa là:


Không trải qua mùa đông buốt giá,
Hoa mai sao nở được mùi thơm?


Nhưng tiếc thay chính Ngài Huyền Trang tuy đã lưu ngụ rất nhiều nơi và nhiều năm ở Ấn Độ mà cũng không hề hay biết lúc bấy giờ ở Ấn Độ còn có một bộ kinh rất quý giá khác là kinh Thủ Lăng Nghiêm.


Thử nghĩ một người đi trong biển khơi, sóng dồi gió dập, lênh đênh chập chùng, nếu không có tấm hải đồ hay kim chỉ Nam thì làm sao vượt qua bão tố trùng dương để quay thuyền về bến. Chúng ta ngày nay rất may mắn có được chiếc máy Navigation nên không còn lầm đường lạc nẻo, nhưng thử nghĩ lại trên con đường tu đạo chúng sinhmay mắn nắm trong tay cái máy GPS Phật pháp chăng? Vâng, chính kinh Thủ Lăng Nghiêm là chiếc máy GPS, là kim chỉ Nam để hướng dẫn người tu hành từng bước ngỏ hầu vượt qua bao thử thách chướng ma mà thành tựu trí tuệ Bồ-đề.


Bấy giờ tại núi Thiên Thai bên Trung Hoa có Trí Giả Đại Sư là người đã nghiêm trì kinh Pháp Hoa đến chỗ tột cùng. Một hôm Ngài đọc phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự trong kinh Pháp Hoa đến câu : ”Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” nghĩa là có được tâm chân chính tinh tấn thì mới được gọi là pháp cúng dường Như Lai chân thật, Ngài liền nhập định, chứng Pháp Hoa Tam-muội và đạt được Nhất Triền đà-la-ni. Lúc đó Ngài vừa 49 tuổi. Sau khi Ngài xuất định, với trí tuệ siêu tuyệt, Ngài lập ra môn Tam Chỉ Tam Quán và từ đó tông Thiên Thai được vang danh cho đến ngày nay. Sau đó có một vị Pháp sư người Ấn Độ đến Trung Hoa vì nghe danh Ngài nên đến núi Thiên Thai để thăm. Sau khi nghe Trí Giả Đại Sư trình bày về môn Tam Chỉ Tam Quán, vị Pháp sư rất ngạc nhiên mà thốt rằng môn Tam Chỉ Tam Quán nầy cũng giống như kinh Thủ Lăng NghiêmẤn Độ. Tam Chỉ Tam Quán dùng “ý thức” để tu tâm, còn kinh Thủ Lăng Nghiêm dùng “Tánh của Căn” để tu. Thông thường, chỉ quán là do công phu luyện tập lâu ngày thuần thục mới có thể kết hợp được tâm và cảnh nhất như mà không lấy ngay tự tánh sẵn có làm định. Ngược lại, kinh Lăng Nghiêm dùng định viên mãn của tự tâm sẵn có làm “Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố” nghĩa là sự bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ tức là cứu cánh bậc nhất.

Vì thế lối tu “Tự tánh bổn định” này khác hẳn với lối tu tam chỉ tam quán của Ngài Trí Giả Đại sư. Một khi đã nắm được thể tánh chiếu diệu đó, hành giả liền khởi công tu luyện “vi mật quán chiếu” mà không cần lấy tư duy tu tập làm quán. Tại sao? Bởi vì cái định này vốn tự tánh sẵn có, thường hằng, không ngoài tự tánh bất động cùng làm một thể chơn định. Vì sự huyền diệu đó mà Trí Giả Đại Sư rất xúc động khi nghe có kinh Thủ Lăng Nghiêm đang lưu hành mà chính Ngài chưa từng hay biết nên Ngài khát vọng muốn có cơ hội để xem cho được bộ kinh nầy nên hằng ngày hai lần sớm chiều hướng về phương Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn liên tiếp trong mười tám năm cho kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá sang Trung Quốc. Nhưng duyên chưa đến nên Trí Giả Đại Sư viên tịch lúc Ngài 67 tuổi mà vẫn chưa hề thấy, đọc được kinh.


Tại sao Ấn Độ lại cấm kinh Lăng Nghiêm lưu truyền ra nước ngoài và luật pháp cấm Pháp sư Ấn độ không được dạy kinh nầy cho người ngoại quốc?

Bởi vì kinh quá quý báu nên Quốc vương Ấn Độ thông báo cho thần dân biết kinh Lăng Nghiêmquốc bảo vì đó là bổn kinh do Bồ-tát Long Thọ mang từ long cung về nên nhà vua ra lệnh cấm lưu truyền kinh sang ngoại quốc. Khoảng 100 năm sau, trong thời đại của Võ Tắc Thiên hoàng đế, có Ngài Pháp sư Bất Lạt Mật Đế (Pramiti) người Trung Ấn Độ, vì thấy tầm quan trọng của kinh nên động lòng từ bi muốn đem kinh truyền sang nước khác để cứu độ chúng sinh, đặc biệt là Trung Hoa. Lần đầu Ngài sắp đặt cho thương nhân Trung Hoa mang đi bản sao của kinh, nhưng bị thuế quan ở biên giới giữ lại, không cho phép mang ra khỏi nước. Lần thứ hai, Ngài dấu kinh trong người nhưng cũng bị thuế quan bắt lại. Vì Ấn Độ thời bấy giờ triều đình rất kính trọng đạo Phật nên Ngài mới được tha tội.

Cuối cùng Ngài chép kinh bằng chữ rất nhỏ trên một tấm lụa cực mỏng, cuốn lại rồi phủ bên ngoài tấm lụa một lớp sáp. Ngài tự xẻ thịt nơi cánh tay mình nhét cuộn lụa vào trong đó, may vết thương lại rồi dùng thuốc đắp lên cho đến khi vết thương lành lặn. Khi vết mổ đã lành, Ngài lại lên đường sang Trung Hoa. Lần nầy, lính gác biên giới không chút nghi ngờ nên Ngài đi thoát. Ngài Bất Lạc Mật Đế dùng đường biển để đến Quảng Châu. Khi đến đất Nam Thuyên thì Ngài gặp cư sĩ Phòng Dung. Cư sĩ Phòng Dung lúc còn trẻ, làm đến chức Thừa tướng cho Hoàng đế Võ Tắc Thiên, nhưng vì phạm lỗi lầm nên bị thuyên chuyển đến làm quan ở đất Nam Thuyên nầy. Vì làm đại quan nên ông là bậc bác học uyên thâm và cũng là người rất hâm mộ Phật pháp.

Khi nghe Ngài Bất Lạc Mật Đế nói về kinh Lăng Nghiêm thì ông hết sức vui mừng, nhưng khi mở tấm lụa ra thì máu me bám lấy lâu ngày làm mất cả chữ nghĩa. May thay, phu nhân của ngài Phòng Dung đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học thì máu mủ đều theo nước mà tan đi và chỉ lưu lại các nét mực mà thôi. Ngài Bất Lạt Mật Đế vì đạo quên mình cũng đủ chứng minh sự quý báu của kinh Lăng Nghiêm và tâm Bồ-tát của Ngài làm cho chúng sinh trọn đời bái phục. Cũng xin nhắc lại, vào năm 64 trước tây lịch, vua Hán Minh Đế ở Trung Hoa một đêm nằm mộng thấy có “người vàng” trên đầu tỏa ánh hào quang. Khi nhà vua hội quần thần lại thì có người cho biết đó là hình ảnh Đức Phật bên Ấn Độ. Nhà vua bèn cho người sang tận Ấn Độ thỉnh. Lúc ấy có Ngài Ca Diếp Ma ĐằngTrúc Pháp Lan chở kinh về Trung Hoa. Từ đó Trung Hoa mới bắt đầu có kinh Phật. Ở Ấn Độ kinh Phật được chép trên lá bối thành từng miếng rồi xâu lại thành một thiên tức gồm một ngàn miếng. Vì thế có người gọi kinh Phật là kinh là bối. Nhưng khi kinh được dịch từ Phạn ngữ sang tiếng Trung Hoa thì được viết vào lụa trắng.


Ngài Bất Lạc Mật Đế dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm từ chữ Phạn sang chữ Hán theo khẩu dịch (văn nói) tại chùa Chế Chi tỉnh Quảng Châu vào ngày Tân Sửu, tháng Kỷ Mảo năm Ất Tỵ (705 Tây lịch) niên hiệu Thần Long thứ nhất và hoàn tất bản dịch năm Đinh Mùi (707 Tây lịch). Tuy Ngài Bất Lạc Mật Đế chủ trì công cuộc phiên dịch này, nhưng còn có hơn hai trăm Pháp sư đã tựu về để cùng nhau tiến hành công tác phiên dịch kinh Lăng Nghiêm. Triều đại nhà Đường của Võ Tắc Thiên Hoàng đế kéo dài từ năm 618 đến năm 907 Tây lịch. Năm Tân Sửu (701Tây lịch) Võ Tắc Thiên thoái vị, nhường ngôi cho Hoàng đế Trung Tông lấy niên hiệu là Thần Long nguyên niên.


Pháp sư cố gắng dịch kinh rất nhanh để phải trở về lại Ần Độ, đến thú tội với nhà vua và xin nhận bất kỳ mọi hình phạt nào trước khi viên quan giữ cửa ải có thể bị phạt vì để Ngài lén mang kinh ra nước ngoài. Trong khi đó ở tại Trung Hoa, sau khi dịch xong, cư sĩ Phòng Dung vào yết kiến triều đình thì vua Trung Tông mới lên kế vị và vì phải đương đầu với nhiều quốc sự nên nhà vua chưa rảnh để nhuận sắc. Đến khi Thiền sư Thần Tú được phong làm Quốc sư, rồi được cúng dường ở trong hoàng cung nên một hôm Thiền sư thấy được bộ kinh này bèn cho chép lại và ấn tống lưu hành ở phương Bắc. Sau khi được vua Trung Tông nhuận sắc, kinh Lăng Nghiêm được ấn hành tại chùa Độ Môn ở Kinh Châu và từ đó kinh mới được lưu truyền.


Khi nói về Thần Tú thì làm sao quên được bài kệ :


Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
Dịch là :


Thân là cội Bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi
Chớ để dính bụi trần.


Vì mỗi câu đều chấp vào sự tướng chứng tỏ tâm chưa ngộ được lý Không. Trong khi đó Ngài Huệ Năng dùng trí tuệ Bát nhã mà đối lại rằng :


Bồ-đề bổn vô thọ
Tâm phi minh cảnh đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.


Nghĩa là :


Bồ-đề là sự giác ngộ thì làm sao là cây được.
Chơn tâm là chơn không vô hình vô tướng thì làm sao là cái đài gương.
Cái chơn tâm, bản lai diện mục này từ xưa đến nay đâu có hình tướng.
Nếu không có tướng trạng thì làm sao dính được bụi trần!


Tuy ít học nhưng tâm đã liễu ngộ chân lý nên Ngài Huệ Năng trở thành tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa. Sau khi Lục Tổ Huệ Năng rời Huỳnh Mai quay về phương Nam lánh nạn và sau này truyền bá Đông Sơn Pháp môn chỉ trong phạm vi thuộc vùng biên cương Trung Hoa và Việt Nam nên triều đình và phần lớn người Trung Quốc không hề biết đến Ngài. Chính trong thời gian này, Thiền sư Thần Tú đang được trọng vọng ở triều đình và được vua Trung Tông sắc phong làm quốc sư vì thế mọi người đều nghĩ rằng Thần Tú chính là người thừa kế tâm ấn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Mãi về sau có Ngài Thần Hộiđệ tử của Lục Tổ sau khi thọ giáo với Huệ Năng đã đem những sở đắc của mình, bằng cách dùng trí tuệ Bát nhã, quét sạch hệ phái Lăng Già của Thần Tú để khôi phục danh vị lại cho Lục Tổ Huệ Năng. Thần Hội dùng phương pháp Đốn giáo (giác ngộ nhanh theo pháp tu trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật) mà đánh tan Tiệm giáo (tu từ từ) của Thần Tú do Phổ Tịch đệ tử của Thần Tú phát huy vì lúc đó cả Lục TổThần Tú đều đã viên tịch. Những lời thuyết pháp của Thần Hội mạnh như vũ bão đã quét sạch những tông phái Thiền lúc bấy giờ và phục hồi ngôi vị Lục Tổ cho Huệ Năng.


Phụ tá cho Ngài Bất Lạt Mật Đế trong việc phiên dịch kinh cũng là một pháp sư lỗi lạc người Ấn Độnhiệm vụ đọc lại bản dịch, chú ý đặc biệt đến sự diễn đạt văn nghĩa, câu cú và cách dùng những thành ngữ tiếng Hán. Đó là pháp sư Di-Già Thích-Ca (Meghasikhara). Ngài Di-Già Thích-Ca là người Ô-trành (Udyana) phía Bắc Ấn Độngày xưa là vườn hoa của vua A-dục (Asoka).


Cư sĩ Phòng Dung là một Phật tử tại gia đã thọ trì mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát. Ông là một người có tài văn chươngkiến thức rất uyên bác cho nên chính việc nhuận sắc của ông đã làm cho kinh Lăng Nghiêmgiá trị rất đặc sắc cho nên kinh Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay mà văn chương còn tuyệt diệu. Từ xưa các học giả, không nhất thiết là trong đạo Phật, mà cả đạo Khổng Mạnh, mỗi khi xem đến kinh Lăng Nghiêm đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu và văn chương tuyệt diệu của kinh. Có thể nói kinh Lăng Nghiêm là một tác phẩm hoàn hảo nhất bằng tiếng Hán ngay cả người Trung Hoa khi đọc cũng khó mà lãnh hội hết ý kinh.


Tuy hai Pháp sư Bất Lạt Mật Đế và Di-Già Thích-Ca đều là người Ấn Độ và rất thông thạo tiếng Phạn (Sanskrit) cũng như tiếng Hán, nhưng vì sợ rằng mình không thông hiểu được tiếng Trung Hoa hoàn hảo cho lắm nên họ cho mời một vị Pháp sư người Trung Hoa chứng minh cho bài dịch. Đó là Pháp sư Hoài Địch. Ngài Hoài Địch lúc bấy giờ đang làm trụ trì chùa Nam Lâu trên ngọn núi La Phù là ngọn núi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông. Ngoài tinh thông giáo nghĩa kinh tạng, Ngài Hoài Địch còn thông thạo cả tiếng Phạn nên được mời chứng minh cho sự phiên dịch chính xác của bản dịch.


Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tâm ẩn bí mật đại tổng trì môn của chư Phật Như Lai, bao gồm toàn bộ hệ thống giáo lý nhân quả, mê ngộ, chơn vọng, phàm thánh của tất cả đại tạng. Kinh soi chiếu rõ ràng giúp chúng sinh thấy sự sai khác của chánh tà trong quá trình tu chứngtình trạng điên đảo của luân hồi cũng như thấu triệt cả nguồn nhất tâm, bao gồm cả vạn pháp một cách rộng lớn và đầy đủ. Sau khi Đức Phật nhập diệt, kinh điển Phật giáo được chia làm ba tạng: Kinh tạng, Luật tạngLuận tạng. Nếu đứng về phương diện Tam vô lậu học “Giới, Định, Tuệ” thì Kinh tạng thuộc về Định học, Luật tạng thuộc về Giới họcLuận tạng thuộc về Tuệ học. Thế thì kinh Lăng Nghiêm chủ yếu dạy chúng sinh làm thế nào để tu thiền định tuy trong kinh cũng có đề cập đến Giới và Tuệ, nhưng không nhiều lắm. Do vậy, có thể nói rằng kinh Lăng Nghiêm lấy Định học làm gốc cho nên kinh thuộc về Kinh tạng. Vì thế nội dung của kinh vẫn không ngoài tôn chỉ “thị tánh định, khuyến thực chứng”.


Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo. Nhưng chủ yếu của kinh vẫn là nhắm vào thành phần Thanh Văn, Duyên giác, hàng hữu họcđặc biệt là hàng định tánh Thanh văn tức là những vị A la hán không muốn “hồi tiểu hướng đại” nghĩa là họ chỉ muốn an hưởng quả vị A la hán mà không chịu tiến tu chuyển sang đại thừa để hoàn thành Phật quả. Nhưng nếu nói rộng ra thì tất cả chúng sinh trong tam giới đều có thể lãnh hội kinh Lăng Nghiêmchứng nhập Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Vì vậy kinh Lăng Nghiêm có thể nói là “vô cơ bất dị, vô nhân bất độ” nghĩa là không căn cơ nào không được gia bị và không người nào không được cứu độ.

Sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài nói trong thiền định trong 21 ngày về giáo lý tối thượng Đại thừa (Hoa Nghiêm) để đưa các vị Bồ-tát lên quả vị Diệu Giác tức là thành Phật. Đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sinh, chuyển bánh xe pháp cũng không ngoài mục đích muốn chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến tức là thể nghiệm và sống được với chơn tâm của mình. Vì thế Phật mới dạy rằng: ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nhưng nếu chúng sinh đều có Phật tánh thì tại sao đến nay chúng ta vẫn chưa thành Phật? Cũng chỉ vì tâm của chúng sinh chất đầy vọng tưởng, chấp trước. Vậy chúng ta chấp cái gì? Chấp “cái ta” tức là bản ngã và cái “của ta” tức là ngã sở hữu cho nên không buông bỏ được những hưởng thụ vật chất trong thế gian. Con người luôn níu kéo, nắm bắt mãi, càng có thì càng chấp trước thêm và ham thích hưởng thụ nên chưa thể thành Phật.

Cho nên Đức Phật mới dạy rằng : “Do vọng tưởngchấp trước mà tất cả chúng sinh không thể chứng đắc, không thể thành Phật”. Cũng vì tâm chúng sinh chất đầy phiền não vô minh, lấy khổ làm vui, chạy theo tham đắm dục tình cho nên Đức Phật tạm thời trên hội A Hàm chỉ nói về giáo nghĩa thập thiện giúp cho họ thấy con đường sáng mà khỏi bị đọa vào tam ác đạo. Ngài nói các pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô Ngã, chân lý Tứ Diệu Đế và thuyết Thập Nhị Nhân duyên để giúp chúng sinh tạm thời ra khỏi tam giới, xa lìa sinh tửchứng đắc Niết bàn. Nhưng Niết bàn mà họ chứng được chỉ là hóa thành tức là tạm nghĩ chớ chưa phải là bảo sở tức là hoàn toàn, chân thậtan định mãi mãi bởi vì hàng Tiểu thừa không đạt được đạo lý Duy Thức.

Sau đó Phật mới nói kinh Giải Thâm Mật để khai triển tám thức (Lục thức, Mạt na thứcA lại da thức). Kinh nầy giúp con người thấy rõ vọng tướng đều từ duy thức sở biến, nhưng sau cùng cũng trở về với thật tướngkhông tướng tức là tướng không. Kế đến Phật nói thời Bát Nhã để giới thiệu “chân không huyển có” nghĩa là “không” là cái không của chân không diệu tánh, là cội nguồn phát sinh ra thế giới hữu vi. Còn “huyển” nghĩa là cái có tạm bợ, không bền chắc của luật vô thường. Chân không này hoàn toàn khác với cái không của Tiểu thừa là cái không đối với cái có của thế giới hữu vi. Sau cùng đến thời Pháp Hoa, Phật dạy rằng : ”Phật vi nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” nghĩa là Phật chỉ vì một đại sự nhân duyênxuất hiện ở đời. Nhưng Phật muốn nói nhân duyên gì? Đó là “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến” và quy tam thừa thành nhất thừa Phật giáo.


Đức Phật Thích Ca trong suốt bốn mươi chín năm hoằng pháp tế độ chúng sinh. Ngài thuyết trên ba trăm hội và nói trên mười hai bộ đại tạng kinh, nhưng quan trọng nhất vẫn là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Kinh Thủ Lăng Nghiêm được Phật thuyết giảng vào thời kỳ Phương Đẳng (phương là phương tiện rộng khắp và đẳng là bình đẳng) và lúc đó Đức Phật vừa được 62 tuổi. Giáo pháp của Phật thì vô biên vô lượng, nhưng tựu trung có thể chia làm hai phần : bình đẳng là pháp “thật” và pháp môn phương tiện là pháp “quyền”. Pháp “thật’ là chân thật và không bao giờ biến đổi. Còn pháp “quyền” thì không thật, chỉ là phương tiện tạm thời, là những thí dụ cụ thể dùng để xiển dương chân lý. Vì Phật khéo léo dùng những thí dụ, những phương tiện để phô bày những gì ẩn dụ bên trong mà ngôn ngữ con người không thể nào diễn tả được. Có một thí dụ về pháp “quyền” như sau :


Một hôm Đức Phật thấy một đứa bé đang chập chững đi về hướng một cái giếng và chỉ còn một chút xíu nữa là nó rơi xuống nước. Đức Phật biết nếu Ngài gọi đứa bé quay trở lại chưa chắc nó đã nghe lời, mà vẫn cứ đi. Do đó thay vì nói thật thì không có kết quả, Ngài bây giờ nói quyền rằng : “Trong tay Như Lai có cây kẹo, hãy quay lại đây ngay Như Lai sẽ cho con cây kẹo ấy”. Khi đứa bé nghe nói được cho kẹo để ăn, liền quay trở lại. Thật ra Như Lai chả có cái gì trong tay cả. Thế thì Đức Phậtnói dối chăng? Như Laiđánh lừa đứa bé không? Dĩ nhiên là “không” bởi vì nếu Đức Phật không dùng cây kẹo để khuyến dụ đứa bé làm cho nó quay trở lại thì chắc chắn nó sẽ bị rơi xuống giếng và chết đuối ngay. Do đó đứa bé đến với Đức Phật ban đầu chỉ là cây kẹo, nhưng sau đó mới biết được sự lợi ích của lời nói Như Lai. Đây chính là huyền nghĩa của kinh điển Đại thừa, nhưng nếu người đệ tử Phật không thông hiểu thấu suốt mà cho quyền là thật, chấp phương tiệncứu cánh thì chẳng những không có được giải thoát giác ngộ mà còn lún sâu vào mê tín tà kiến biến cuộc sống thành ảo tưởng hoang đường.


Rất nhiều kinh điển được Phật dùng pháp “quyền” để giáo hóa chúng sinhkinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì là một điển hình vậy. Quyền là chẳng có gì thật cả, nhưng Đức Phật lại khéo léo dùng những thí dụ làm phương tiện thiện xảo để xiển dương được giáo lý của Ngài. Đức Phật dạy rằng : “Như Lai có một kho báu, hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên ngọc minh châu vô giá và các thứ trân châu khác…”.Vì chúng sinh còn nhiều tâm tham nên họ liền đến với Như Lai để được món lợi, vì thế Như Lai mới có cơ hội giáo hóa họ được. Khi đã thấu hiểu huyền nghĩa của giáo pháp Như Lai, chúng sinh sẽ không còn quan trọng hay quan tâm đến viên ngọc minh châu vô giá đó nữa vì chúng sinh vốn đã có viên ngọc đó trong họ rồi. Đó là quyền, là phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh.


Kinh Thủ Lăng Nghiêm vừa có pháp bình đẳng (pháp thật) và vừa bao gồm pháp phương tiện (pháp quyền) nên chúng sinh tu theo kinh nầy sẽ thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau, có được sự an vui tự tại và thể nghiệm được chơn tâm, Phật tánh thanh tịnh của chính mình và cuối cùng đạt tới tuệ giác giải thoát.


Vì thế mà chư Tổ ngày xưa đã nói rằng : ”Thành Phật tu Pháp Hoa, Tuệ giác tu Lăng Nghiêm” là vậy. Bởi vì kinh Pháp Hoa xác định là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh như nhau nên ai ai cũng đều có khả năng tu chứng Pháp Hoa Tam Muộithành Phật. Còn tu theo Lăng Nghiêm là chứng đắc được tuệ giác để phá tất cả những vô minh phiền não trần laotrở về sống với Chơn Tâm thường cóThể Tánh thanh tịnh sáng suốt sẵn có trong tất cả chúng sinh. Kinh xác định rõ rằng còn phiền não khách trần là còn sống trong điên đảo khổ đau, lau sạch phiền não khách trần là sống với Chơn Tâm thường cóThể Tánh thanh tịnh sáng suốt của mình tức là có được giải thoát giác ngộ.


Chẳng những kinh Lăng Nghiêmbộ kinh hay nhất, quý nhất và là kim chỉ Nam cho kẻ tu hành, mà kinh còn là chướng ngại lớn nhất cho bọn tà đạo, ma vương. Trong kinh Pháp Diệt Tận xác định rõ ràng rằng : ”Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ bị hoại diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất”.


Tại sao kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hủy diệt trước nhất? Bởi vì kinh diễn tả rất chính xác, chẳng những đúng với chánh pháp mà lại rất phù hợp với đạo lý làm cho bọn tà giáo, ngoại đạo, yêu ma quỷ quái bị lộ nguyên hình ma quái, khó mà lừa gạt phỉnh phờ thế nhân. Chú Lăng Nghiêm có công năng phá tà hiển chánh giúp chúng sinh dũng mãnh tiến bước theo con đường quang minh chánh đại. Nhưng tại sao bọn ma quái lại sợ kinh Lăng Nghiêm? Bởi vì kinh đề cập đến Bốn điều răn dạy về sự thanh tịnh và năm mươi thứ ấm ma làm cho bọn ma quái lộ nguyên hình cũng như đem tấm kính chiếu yêu soi vào mặt họ. Kinh Lăng Nghiêm sẽ lột bày tất cả bản chất yêu quái, những điều sai trái của thiên ma ngoại đạo. Vì thế ngày nào kinh còn lưu hành thì ngày đó chánh pháp còn ở thế gian.


Cũng trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật dạy rằng : “Sau khi Như Lai nhập Niết bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Đây chính là trùng trong thân sư tử lại ăn thịt sư tử. Chúng mặc y phục thế tục, ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau”.


Do đó muốn cho Phật pháp được mãi mãi lưu truyền, người đệ tử Phật có bổn phận xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm bằng cách giới thiệu, truyền bátu học ngỏ hầu thể nghiệm được tinh hoa giáo nghĩa của kinh để sống với Chơn tâm thường trú và Thể Tánh tịnh minh của mình mà đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác ngộ, đưa con người từ phàm phu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11094)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12081)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12645)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13096)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12237)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11930)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15651)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9852)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17995)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9056)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12191)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11453)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19662)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant