Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phần Chánh Tông

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10183)
3. Phần Chánh Tông

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Nhất

PHẦN CHÁNH TÔNG

A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệhối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều mà đạo lực không tự cứu được mình. Ông tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông ba thứ thiền quán : Chỉ (xa ma tha), Quán (tam ma) và Thiền Naphương tiện vi diệu đầu tiên của mười phương chư Phật đã tu tậpthành tựu Bồ-đề, Niết Bàn. Khi ấy có hằng hà sa số Bồ-tát, các vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật trong khắp mười phương đều mong mỏi được nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.


Khi ấy, Thế Tôn giơ tay dịu dàng rờ đầu và nói với A Nan cùng đại chúng rằng :


- Có pháp Tam Ma Đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm và cũng là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phương chư Phật, nay ngươi hãy chú ý nghe.


Trong kinh Viên Giác, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi thỉnh Phật nói nhân địa pháp hạnh thanh tịnh bổn khởi của đức Như Lai nghĩa là Ngài Văn Thù xin Phật chỉ dạy phương pháp nào mà Như Lai trong khi tu nhân địa đã thực hành để thành tựu đạo quả Bồ-đề tức là thành Phật. Còn trong kinh này, ông A Nan cũng thỉnh Phật chỉ dạy phương pháp nào mà đức Phật đã tu chứng để thành Phật. Đó là pháp Tam Ma Đề. Đây chính là ba thứ thiền quánchư Phật mười phương tu thành chánh giác :


1) Tu pháp Xa ma tha tức là tu Chỉ hay cũng được gọi là tu Định.


Nếu chúng sinh biết buông bỏ hết vọng tưởng để tâm được an định thì đây là tu theo “Chỉ”.


2) Tu pháp Tam ma bát đề tức là tu Quán tức là tu Trí Tuệ.


Nếu chúng sinh tu để thấy rõ thân, tâm và cảnh giới là giả, là huyễn hóa, là không chắc thật thì phương pháp nầy là tu theo “Quán”.


3) Tu pháp Thiền Na tức là Chỉ-Quán đồng tu nghĩa là Định-Tuệ song tu. Thiền Na có nghĩa là Tịnh lự. Tịnh là Chỉ tức là Định và Lự là Quán tức là Trí tuệ.


Ba thứ định này là ba giai đoạn trong quá trình tu học. Nói cách khác, Xa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na là những giả đặt danh xưng do mức độ tâm thanh tịnh sai khác. Thí dụ, tâm thanh tịnh của chúng sinh bị nhiễm ô mười phần mà hóa giải được ba phần thì gọi là Xa ma tha, trừ được sáu bảy phần gọi là Tam ma bát đề và nếu trừ được tám chín phần gọi là Thiền na. Đến khi chúng sinh trừ sạch cả mười phần gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Tâm đạt được một phần thanh tịnh, chúng sinh có được một phần công đức, cho đến khi rốt ráo viên mãn thì chính là “Thủ Lăng Nghiêm rốt ráo kiên cố”.


Bây giờ nếu chúng sinh mà bên trong buông xả tất cả vọng tưởng và bên ngoài không dính mắc ngoại trần thì đây là tu theo “Thiền Na” tức là trở về sống với Chơn tâm thường trú và Thể Tánh tịnh minh tức là Tánh Giác của mình. Như vậy pháp Tam ma đề chính là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm giúp chư Phật mười phương ba đời thành tựu đạo quả Bồ-đề. Đây là pháp môn vi diệu, thù thắng đưa đến giải thoát giác ngộ.


A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy.


Đức Phật bảo A Nan :


- Ông với Như Lai là anh em cùng một dòng họ, khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng thế gian để xuất gia?
A Nan bạch với Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Do con thấy ba mươi tướng tốt thù thắng vi diệu tuyệt đẹp của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc lưu ly. Con thường luôn nghĩ những tướng tốt này không phải sanh ra do ái dục. Tại sao vậy? Bởi vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh thể hỗn tạp. Từ đó, không thể sinh ra một thân thể thù thắng, thanh tịnh, sáng rỡ vi diệu như khối vàng tía nầy. Do đó mà con đem lòng khát ngưỡng, theo Phật xuất gia.


Đức Phật nói :


Lành thay! A Nan, các ông nên biết, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, sinh tử liên tục, chỉ vì chẳng biết chơn tâm thường trụ, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, lại nương theo vọng tưởngvọng tưởng chẳng thật nên có luân hồi. Mười phương chư Phật cùng một đạo lìa khỏi sanh tử đều do trực tâm, vì tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối, cho đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.


Cứu cánh vào đạo là yếu tố quan trọng nhất của người phát tâm Bồ-đề để đi đến giải thoát giác ngộ. Dựa theo Phật giáo, xuất gia có những trường hợp như sau :


1) Thân xuất gia, tâm xuất gia. Đây là những bậc xuất gia pháp khí, rất đáng kính trọng, là thầy của Trời, người, ba cõi. Tâm hằng thanh tịnh, trong sáng như pha lê, chiếu suốt mười phương thế giới. Họ là tấm gương sáng chói cho hàng xuất giachúng tại gia.


2) Thân xuất gia, tâm không xuất gia nghĩa là những vị tu hành tuy thân đã vào đạo mà tâm vẫn còn đắm nhiễm thế tục, thích việc hý luận thế gian vì thế nơi nào có danh văn lợi dưỡng là có mặt vị này. Vì thế những vị tu hành mà không tu theo Thiền na, nghĩa là họ không nhập định được thì tâm vọng động sẽ nổi lên mà nhà Phật gọi là “thối đọa” nghĩa là tu lâu mà không đạt được gì cả. Lúc đó họ sẽ sinh tâm ham danh lợi, thích tham gia hoạt động chính trị thay vì tu tâm cầu giải thoát. Tại sao? Bởi vì danh lợi, tài sắc lúc nào cũng núp ở trong tâm của con người, nó chỉ đợi có cơ hội để phát hiện cho nên nếu người không nhập vào đại định để có đủ trí tuệtiêu diệt nó thì sự xuất hiện của tham-sân-si chỉ còn là vấn đề thời gian trước hay sau, mau hay chậm mà thôi. Định không thể diệt được tham-sân-si mà chỉ có thể đè nén nó xuống cũng như cục đá lớn đè lên cỏ làm cỏ không lớn được, nhưng cỏ đâu có chết. Nhưng khi tâm đã định thì trí tuệ lúc bấy giờ sẽ phát sinh làm hành giả trực nhận rất rõ ràng bản chất thật của tham-sân-si mà đối trịtiêu diệt nó. Nói tóm lại, vị tu hành nào mà còn ham chính trị, còn chạy theo những tham vọng thế tục thì chắc chắn đây là tâm bất định, tâm bất giác, bất an.


3) Thân không xuất gia, tâm xuất gia tức là những người tâm đã thấu suốt pháp giới tánh, trực ngộ chân lý, nhưng muốn hòa mình với thế gian để tùy duyênhóa độ chúng sinh. Họ có gia đình, con cái, địa vị trong xã hội, làm ăn buôn bán nhưng không đắm nhiễm bụi trần, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ở Ấn Độcư sĩ Duy Ma Cật, ở Việt NamTuệ Trung Thượng sĩ, ở Trung Hoa vào thời Mã Tổ có Bàng Uẩn…cũng nguyện làm thân cư sĩ để độ chúng sinh…


4) Thân không xuất gia, tâm không xuất gia là những người chìm đắm trong ái dục, chạy theo lục dục thất tình nên trôi nổi trầm luân trong lục đạo luân hồi, đời này tan, đời khác đến không tìm ra lối thoát. Họ đâu biết rằng nụ cười thì ít mà nước mắt thì nhiều cho nên Phật mới dạy rằng : ”Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Chúng sinh lặn hụp trong ba cõi, lên xuống trong sáu đường, sinh sinh diệt diệt cho nên Đức Phật cũng dạy rằng : ”Xương chúng sinh chất còn cao hơn núi Tu Di” là vậy.


Khi A Nan thỉnh Phật chỉ dạy về pháp tu Tam ma đề thì Phật không trả lời ngay mà Ngài quay lại gạn hỏi nguyên nhân nào khiến A Nan xuất gia. Phật là bậc y vương cho nên trước khi bốc thuốc cho con bệnh, phải xem xét căn bịnh phát xuất từ đâu bởi vì nếu không hiểu bịnh thì làm sao chữa được bịnh. Nhưng trước khi gạn hỏi A Nan, Phật muốn ông A Nan phải dùng trực tâm tức là tâm thành thật, ngay thẳng, không quanh co dối trátrả lời. A Nan vì thấy ba mươi hai tướng tốt của Như Lai, thù thắng vi diệu nên đem lòng khát ngưỡngphát tâm xuất gia. Rõ ràng A Nan phát nguyện xuất gia với tâm không chân chính vì thấy sắc tướngái mộthương yêu thì đây chính là tâm vọng tưởng.

A Nan tuy thân xuất gia mà tâm chưa vào đạo vì tâm của A Nan còn ham học rộng thích nghe nhiều mà không chịu tu chứng thánh quả A La hán nên tâm A Nan không bao giờ trụ được trong Thiền Na. Tâm không định thì còn bị thế trần cám dỗ cho nên nạn Ma đăng già làm sao A Nan tránh khỏi. Đối với các vị A la hán, tâm hằng thanh tịnh, không còn sắc nhiễm vì các Ngài đã vượt qua dục giới, sắc giớivô sắc giới nên tà chú Saticala hay sắc đẹp nàng Ma đăng già không thể nào lay chuyển định lực kiên cố của các Ngài. Cứu cánh của kẻ xuất giagiải thoát giác ngộ, tự độ rồi độ tha chớ không phải chạy theo hình sắc. Vì thế trong kinh Kim Cang, Phật dạy rằng : ”Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai” nghĩa là : ”Nếu thấy ta bằng sắc tướng, nghe ta bằng âm thanh, người nầy đi đường tà, không thấy được Như Lai”. Ý Phật dạy rằng :

Nếu có người cho rằng thấy sắc thân của Phật có 32 tướng tốt, là thấy được Phật, thì ông Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt , hoặc ma nó hiện ra sắc thân Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao? Hay nghe tiếng nói pháp thanh tao của Phật mà cho là nghe được tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất thanh tao lảnh lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao? Những người tin tưởng như vậy, là theo tà đạo, không bao giờ thấy được Phật tâm, Phật tánh của mình. Thí dụ như chúng sinh hằng ngày tụng kinh, niệm Phật tức là nương theo âm thanh sắc tướng của Phật để tu, nhưng âm thanh sắc tướng ngay cả của Phật đi chăng nữa cũng là sinh diệt cho nên nếu con người dựa vào thức tâm làm nhân địa tu hành thì làm sao thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình tức là không thấy được Như Lai vậy.

Đức Thế Tôn muốn chúng sinh tư duy quán chiếuthực hành lời Phật dạy để thanh lọc những ô nhiễm tham-sân-si mà có thể loại trừ những vẩn đục phiền não chướngtri kiến chướng. Có hồi quang phản chiếu, có hồi đầu thị ngạn thì mới thấy được bản thể chân như của mình. Vì thế trong tịnh độ, khi chúng sinh niệm Phật đến chỗ “Lục tự Di Đà vô biệt niệm” thì mới có “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Niệm Phật đến chỗ không còn biết mình niệm, tức là vô niệm vô biệt niệm thì âm thanh sắc tướng tan biến đâu còn và Phật tánh Di Đà mới hiện bày. Đó là chứng được Nhất tâm bất loạn hay thành A la hán rồi vậy. Đoạn kinh trên chứng minh rằng cho dù Phật thuyết trong kinh Kim Cang hay kinh A Di Đà thì cũng cùng một ý nghĩa, không sai khác.

Nói cách khác tu hành là dùng tâm chuyển vật nghĩa là chúng sinh điều khiển âm thanh sắc tướng mà có giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu vật chuyển tâm nghĩa là âm thanh sắc tướng điều khiển tâm mình thì suốt đời vẫn là phàm phu tức là thức tâm của mình không tịnh, luyến ái theo sắc pháp bên ngoài, thấy đẹp thì thương nghe hương thì thích, chạy theo lục dục thất tình. A Nan chỉ thấy sắc tướng sinh diệt của Phật nên đem lòng kính yêu mà xuất gia, nhưng thật ra cho dù Đức Phậtba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp thì luật vô thường sanh lão bệnh tửthương xót, bảo tồn những tướng tốt và vẻ đẹp của Ngài mãi mãi được đâu. Một ngày nào đó thì ứng thân của Phật cũng mỏi mòn, già yếu và chết. Chỉ có Pháp thân Phật mới vĩnh viễn trường tồn bất biến và một khi chúng sinh có được chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì Pháp thân nầy sẽ hiển hiện trong tất cả mọi chúng sinh chớ không phải chỉ dành riêng cho chư Phật. Ông A Nan vì sống với tâm vọng tưởng cho nên nếu ông đã kính yêu sắc tướng Như Lai được thì sẽ đam mê sắc tướng nàng Ma đăng già. Vì ông A Nan nhân địa phát tâm không ngay thẳng, không chân chính, theo Phật bằng tâm sinh tử nên mới vướng phải nạn Ma đăng già, rơi vào đường đọa lạc. Thật ra, A Nan chỉ là một thí dụ điển hình cho tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay luôn chạy theo tâm vọng tưởng mà sống trong điên đảo khổ đau.


Phật dạy tiếp :


- A Nan! nay tôi hỏi ông : “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì?


A Nan bạch Phật rằng :


- Bạch Đức Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do mắt và do tâm của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thíchphát tâm nguyện xả bỏ sanh tử.


Phật bảo A Nan :


- Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và con mắt, nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì làm sao hàng phục được trần lao. Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiếm nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp thì cần phải biết giặc trú ngụ nơi nào. Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị luân hồi. Nay tôi hỏi ông, tâm và mắt của ông hiện đang ở đâu?


A Nan vì thấy Phật có 32 tướng tốt, hào quang sáng chói, trang nghiêm thanh tịnh nên đem lòng kính yêu mà xuất gia theo Phật. Cổ nhân có câu : ”Tâm sanh tướng” cho nên người có tâm thanh tịnh như các vị A la hán, chư Bồ-tát, chư Phật thì tướng mạo hiền hòa, phúc hậu, ai cũng kính yêu. Ngược lại, người hung ác, khó chịu thì tướng diện khô khan, cằn cỗi, đằng đằng sát khí. Vì mắt A Nan thấy vẻ đẹp nên tâm sanh yêu thích cho nên mắt và tâm chính là mấu chốt phát sinh vọng tưởng. Tư tưởng Tây phương cũng có câu : ”Ánh mắt là cửa sổ của tâm hồn” là cùng một lối nhìn và nhận thức về vọng tâm giống như ông A Nan. Vậy mắt là căn tiếp xúc với trần tức là ứng thân Phật rồi phát sinh ra vọng thức tức là vọng kiến tình thức trong tâm. Mà vọng kiến tình thức gồm có đủ : yêu, thương, ghét, giận, hờn, có, không và nó chính là nguyên nhân của sinh tử luân hồi.

Thật ra, trong tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn chơn tâm thường trú không sanh không diệt giống như chư Phật, nhưng chúng sinh từ vô thỉ đến nay luôn chạy theo phiền não vô minh làm che lấp chơn tâm mà sống với vọng thức điên đảo, tức là vọng tâm nên cuộc sống đầy hệ lụy khổ đau. Nếu con người còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ưa, còn thích, còn ham, còn muốn…thì họ còn đang sống với vọng tâm điên đảo. Nên biết rằng vọng tâmkhách trần, nó đến rồi đi. Còn chơn tâm thì luôn luôn thanh tịnh, luôn ở mãi với chúng sinh, không bao giờ mất, chỉ bị vô minh che lấp. Chơn tâm thì không bao giờ có hờn, giận, tham, muốn, thương, ghét, tốt, xấu mà lúc nào cũng thanh tịnh, không biến đổi theo thời giankhông gian.

Mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây tâm trí con người luôn thay đổi từ buồn giận, thương yêu, ham muốn…thì cái tâm cuồng loạn này luân chuyển theo thời giankhông gian nên gọi là vọng tâm. Những gì làm thỏa mãn bản ngã thì tâm chúng sinh vui, hạnh phúc. Còn những gì đi ngược lại bản ngã thì họ buồn, đau khổ. Cái tâm vui, tâm buồn là vọng tâm còn chơn tâm thì như như bất động, không thay đổi. Vì thế Khế Kinh mới có câu : ”Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới” nghĩa là không có pháp nào chẳng lưu xuất từ tâm và cũng chẳng có một pháp nào chẳng trở về tâm nầy. Thật vậy, có Phật, có Thánh hiền cũng phát xuất từ tâm, mà tạo ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng bởi từ tâm. Do đó, nếu biết dập tắt tâm si mê cuồng loạn thì có thanh tịnh Niết bàn tức là sống với chơn tâm thường trụ của mình. Còn chạy theo lục dục thất tình thì chơn tâm biến mất và vọng tâm sẽ dẫn dắt con người vào chốn trầm luân đau khổ.


Vậy vọng tâm phiền nãocăn bản của sinh tử luân hồichơn tâm thanh tịnhcăn bản của Bồ-đề Niết bàn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11948)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11341)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10763)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9945)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15360)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12402)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14836)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16568)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13519)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11630)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12763)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13623)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12893)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9861)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11162)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14266)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14148)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant