Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10692)
2. Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Năm

Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp


Phật bảo A nan :


- Dù ông ngộ được tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.


A Nan! Như Lai lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông còn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên trong thế gian mà tự nghĩ lầm rằng chứng được tâm Bồ-đề là do hòa hợpphát khởi. Vậy nay tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa hợp hay cùng với tối hòa hợp? Là cùng với thông hòa hợp hay cùng với bít hòa hợp? Nếu hòa hợp với sáng, hiện nay ông thấy sáng thì tánh thấy hòa chỗ nào? Tánh thấy và tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” sẽ ra sao? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng? Nếu tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô lý bằng? Với tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy.


Lại nữa, A Nan! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp với thông hay hợp với bít? Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối? Nếu không hợp với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng. Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được sáng không phải là tối? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy.


Đến đây ông A Nanđại chúng cho dù có thấu hiểu bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu không phải là do nhân duyên, cũng không phải là do tự nhiên mà có, nhưng có phải nó được sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp chăng? Hòa hợp có nghĩa thuận hay nghiêng về một phía nào đó. Nếu hòa hợp phía trái thì không thể hòa hợp phía mặt được. Trong phần kinh này nếu hòa hợp với sáng thì không thể hòa hợp với tối hay ngược lại. Và nếu hòa hợp với tướng thông thì không thể hòa hợp với tướng bít được.


Trước hết, Đức Phật dùng cảnh vật bên ngoài tức là tiền trần để làm đối tượng. Do đó khi ông A Nan nhìn thấy cảnh vật bên ngoài làm phát khởi sự suy tưởng ở trong tâm. Bây giờ nếu ông A Nan dùng những tư tưởng sinh diệt ấy mà tu để mong chứng được đạo quả Bồ-đề thì đây là một quan niệm sai lầm to lớn vì chạy theo vọng thức là sống với thức tâm tức là sống với tâm vô minh phiền não thì làm gì có an lạc được. Vả lại, nếu tánh thấy hòa hợp được với tướng sáng nghĩa là tánh thấy chỉ thấy được ánh sáng ban ngày, như thế khi màn đêm buông xuống ánh sáng không còn lẽ ra không thấy gì cả nhưng tại sao tánh thấy lại thấy được bóng tối. Nếu tánh thấy vừa thấy được ánh sáng và cũng vừa thấy được bóng tối thì làm sao nói hòa hợp hay không hòa hợp cho được. Vậy tánh thấy chắc chắc vượt ra khỏi cái thấy bình thường của con người vì nó thanh tịnh thông suốt cả mười phương thế giới. Muốn thấy được tánh thấy này, chúng sinh phải buông bỏ tất cả những vọng tâm chấp trước, những cái thấy duyên với bên ngoài để tâm dần dần được thanh tịnh mà có được pháp nhãn thanh tịnh thì tánh thấy thường hằng sẽ hiện bày.
A Nan thưa :


-Bạch Thế Tôn! Nay tôi lại nghĩ : Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng?


Phật dạy rằng :


-Nay ông lại nghĩ rằng tánh thấy không hòa hợp? Tánh thấy ông gọi là không hòa hợp, nó không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối? Không hòa hợp với thông hay không hòa hợp với bít? Nếu không hòa hợp với sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh giới. Ông hãy xét kỹ : Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia? A Nan! Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến với nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ không thấy sáng, làm sao lập ra ranh giới? Đối với tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy. Lại nữa, tánh thấy nhiệm mầu không hòa hợp là chẳng hợp với tướng sáng, hay chẳng hợp với tướng tối, chẳng hợp với cái thông hay chẳng hợp với cái bít. Nếu chẳng hợp với tướng sáng thì tánh thấy và tướng sáng có tánh trái nghịch nhau. Ví như lỗ tai và tướng sáng, hoàn toàn không tiếp xúc được nhau. Tánh thấy còn chẳng biết tướng sáng ở đâu thì làm sao phân biệt được nghĩa hợp hay chẳng hợp. Đối với cái tối, cái thông, cái bít kia cũng lại như vậy.


Phần trên khi ông A Nan chấp tánh thấyhòa hợp thì bị Phật bác, trong phần này ông liền chuyển qua không hòa hợp. Trần cảnh và các ý tưởng trong tâm thức đều là vọng thức sinh diệt còn tánh thấy thường hằng bất biến thì làm sao hòa hợp hay không hòa hợp được. Đức Phật lại đưa ra thí dụ rằng nếu tánh thấy và ánh sáng không hòa hợp được thì dĩ nhiên hai bên phải có ranh giới chia đôi nghĩa là tánh thấy và ánh sáng không thể pha trộn lẫn nhau. Nhưng tánh thấychân không, vô hình vô tướng thì làm sao phân chia ranh giới với tướng sáng cho được.


Trong những đoạn kinh trên, Đức Phật bác các thuyết nhân duyên, tự nhiênhòa hợp chớ Ngài không bác lý Duyên khởi. Giáo lý Duyên khởiđạo lý vi diệu thậm thâm của Phật giáo. Bởi vì tất cả mọi sự vật trên thế gian vũ trụ này đều là do hiện tượng trùng trùng duyên khởi mà có. Do duyên khởi mà sự vật có sinh ra (sinh) và cũng do duyên khởi sự vật tiếp tục phát triển tồn tại (trụ). Vì sự vật không có tự tánh nên do duyên khởi phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường mà thay đổi (dị) và sau cùng đi đến tiêu diệt (diệt). Do đó khi nói đến sinh và diệt thì nói đến nhân duyên và khi nói đến trụ và dị thì nói đến hòa hợp. Mặc dù sinh, trụ, dị, diệt đều là duyên khởi, là huyển hóa không thật nên Phật mới bác đi các nghĩa nhân duyên, tự nhiên chớ Phật không bác bỏ đạo lý Duyên khởi. Tại sao? Bởi vì tất cả mọi sự vật duyên khởi như huyễn nên khi sinh không có gì thật sự là sinh nên mới gọi là không phải nhân duyên và sự vật duyên khởi không thật có, vì không có tự tánh, nên mới gọi là không phải tự nhiên. Nhưng cái tánh Duyên khởi như huyển, không có tự tánh này lại là chân tánh, là pháp giới tánh, là tánh chân như nhiệm mầu và là tâm tánh chân thật của tất cả mọi chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16024)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14450)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13665)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13939)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11907)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17599)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12878)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13716)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16390)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13129)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12092)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12774)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12918)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12791)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14121)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16479)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14389)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11328)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13967)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16269)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12681)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12766)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant