Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Chỉ Rõ Chỗ Hư Vọng Của Sáu Căn

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10579)
5. Chỉ Rõ Chỗ Hư Vọng Của Sáu Căn

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

 Chương Thứ Bảy

CHỈ RÕ CHỖ HƯ VỌNG CỦA SÁU CĂN

Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Vì sao đi sâu vào một căn lại có thể khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?


Phật dạy rằng:


-A Nan! Ông được quả Tu Đà Hoàn, song tập khí vô thỉ còn thiếu, chưa thể một lúc tháo gở những lớp vô minh: sinh, trụ, dị, diệt.


-Ông hãy xét kỹ, sáu căn hiện tiền là một hay là sáu? Nếu bảo là một thì lỗ tai sao không thấy, con mắt sao không nghe, đầu sao không đi, chân sao không nói? Còn nếu quyết định cho là sáu thì hiện tôi đang dạy cho ông pháp môn tu hành, vậy trong sáu căn của ông, căn nào tiếp thu, căn nào lãnh thọ?


Ông A Nan thưa:


-Tôi dùng lỗ tai nghe lời Phật dạy.


Phật bảo:


-Ông dùng lỗ tai nghe, vậy thì lỗ tai ông tự nghe nào dính dáng gì đến thân và miệng. Mà miệng ông thì hỏi nghĩa, thân ông thì đứng dậy tỏ vẻ kính vâng? Lấy đó mà suy nghĩ thì căn không phải một cũng không phải sáu. Mà cũng một cũng sáu. Tại vì sự chấp mê điên đảo vô thỉ cho nên cái thể viên minh kia lại sanh ra một, sanh ra sáu. Ví như hư không không tham hợp với các vật. Lu, bình, lọ, cốc do hình trạng đồ vật khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Trừ bỏ đồ vật ấy đi thì người ta gọi hư không là một. Sự thật, hư không kia không vì ông mà thành đồng hay khác; huống nữa lại gọi là một hay không phải là một.


-Sáu căn hay biết của ông cũng vậy. Do hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau, cái tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là thấy. Cái thấy phản ánh ra gọi là sắc. Cơ quan tiếp thu sắc được gọi là nhãn căn. Nhãn căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như trái nho.


-Do hai thứ động và tĩnh đối chọi nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nghe. Cái nghe phản ánh ra gọi là tiếng (thanh trần). Cơ quan tiếp thu tiếng được gọi là nhĩ căn. Nhĩ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình dáng trông như cái lá sen non.


-Do hai thứ thông và bít phát hiện lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên, phát ra cái gọi là ngửi. Cái ngửi phản ánh ra gọi là hương. Cơ quan thu nạp hương được gọi là tỷ căn. Tỷ căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như hai ngón tay duỗi xuống.


- Do hai thứ lạt và vị xâm lấn lẫn nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là nếm. Cái nếm phản ánh ra gọi là vị. Cơ quan nhận thức vị được gọi là thiệt căn. Thiệt căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành hình dáng trông như nửa vành trăng.


- Do hai thứ hợp và ly cọ xát nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng vào bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là xúc. Cơ quan nhận biết xúc được gọi là thân căn. Thân căn do tứ đại thanh tịnh hợp thành, hình thể trong như cái trống cơm.

Do hai thứ sinh và diệt tiếp nối nhau, tánh giác nhiệm mầu tác dụng với bản thể trạm nhiên phát ra cái gọi là biết. Cái biết phản ánh ra gọi là pháp. Cơ quan tiếp thụ pháp được gọi là ý căn. Ý căn vốn là tứ đại thanh tịnh, biểu hiện qua khái niệm và tư duy, tựa hồ như chất đậu hủ non (bộ óc).


Ông A Nan vẫn còn thắc mắc vì sao chỉ tháo gở một căn mà sáu căn đồng thời được thanh tịnh. Ở đây, ông A Nan chỉ chứng được quả Tu Đà Hoàn nghĩa là ông đã đoạn được hết thân kiến, biện kiến, kiến thủ, giới thủtà kiến. Nếu có thể đoạn hết tham, sân, si, mạn, nghi thì chứng quả A la hán. Tuy các vị trong hàng Thanh Văn, Nhị thừa đã phá được phiền não chướng tức là các Ngài đã loại được phần chấp ngã, nhưng về phần sở tri chướng tức là chấp pháp thì các Ngài chưa phá được.


Sở tri chướng là nói về vô minhvô minh là sự mê mờ tâm thức chẳng khác nào màn mây đen hút che đây ánh sáng mặt trời để dẫn đắt con người từ chỗ mê lầm này đến sự đam mê khác. Vô minh có hai loại là “diệt tướng vô minh” tức là cái vô minh thô và “trụ tướng vô minh” tức là vi tế vô minh. Thí dụ hai người vì bất đồng ý kiến nên cải cọ và sau cùng sinh ra ấu đả, đánh đấm nhau. Đây là vô minh thô tức là diệt tướng vô minh nghĩa là cái vô minh dễ phát hiện. Ngược lại một người tuy bị chửi, tuy không ấu đả, la hét ồn áo, nhưng tâm rất bực bội, đau khổ vì còn chấp vào lời chửi mắng kia thì cái chấp pháp đó là trụ tướng vô minh tức là cái vô minh vi tế chỉ có mình biết chớ không bạo động như vô minh thô.

Khi phát tâm tu theo đại thừa viên mãn thì mới phá được sở tri chướng để trở về hoàn toàn với tánh giác diệu minh của mình. Vì thế mà các vị Bồ-tát cũng nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa như phàm nhân, nhưng vì các Ngài không còn chấp pháp nên nghe những lời mắng nhiếc kia cũng như gió thoảng, mây bay, không dính dấp gì tâm họ nên họ mới có ung dung tự tại là vậy. Chẳng những thế, khi cần thì Bồ-tát vẫn giúp những người hung ác đó cải tà quy chánh, quay về sống đúng với chánh đạo. Đó là diệt được sanh tướng vô minh để hướng về đạo quả vô thượng Bồ-đề.


Con ngườithói quen là hễ nói gì là tin chắc như vậy mà không chịu tư duy quán chiếu để truy tìm xem lời nói đó là phương tiện hay cứu cánh. Trong Phật giáo, kinh điển dạy trong ta có sáu căn, nhưng thật ra có sáu căn như thế không? Để giải thích, Đức Phật dạy rằng: sáu căn vốn không phải sáu mà nói sáu. Lẽ ra phải nói là một, nhưng một không phải một theo nghĩa thông thường nên Thế Tôn mới tùy thuận chúng sinh mà nói sáu vậy thôi. Thí dụ nếu sáu là sáu thì tại sao khi mắt nhìn thấy đồ ăn thì tay liền gắp và miệng chảy nước miếng? Còn nói là một thì tại sao tai nghe nhạc, miệng hát và tay chân nhảy múa theo hoặc nói là một thì tại sao con mắt không nghe, lỗ tai không thấy?

Vậy căn không phải một cũng không phải sáu mà cũng chính là một và sáu. Đấy tức là sắc tức là không và sắc chẳng khác không nghĩa là bất tức bất ly vậy. Để giải thích Phật lấy thí dụ rằng tâm tánh con người cũng như hư không, bao la vô cùng vô tận, không có gì là một hay là sáu, nhưng khi hư không chứa trong các bình, lu, cốc, lọ khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Nếu bây giờ lấy bỏ hết các đồ dụng kia đi thì hư không vẫn là một. Do đó, hư không là một mà cũng là nhiều vô tận. Tâm tánh nương theo sáu căn cũng như hư không ở trong các đồ dùng vuông, tròn, cao, thấp vốn không có gì là sáu hay là một.


Sáu căn vốn là chơn tâm viên minh thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng cũng bởi do không giác ngộ được cái tâm tánh nhiệm mầu này mà nhận cái minh làm giác nên từ đó mới “có minh” “có sở”. Một khi năng sở được thành hình thì sự phân biệt đối đãi làm sở minh ảnh hưởng đến năng minh và năng minh bị giới hạn trong phạm vi sở minh.


Một khi có hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau thì cái tánh giác diệu minh tác dụng vào bản thể tâm tánh nhiệm mầu để tạo ra cái thấy (năng minh). Cái thấy phải có đối tượng để thấy tức là sắc (sở minh) và sau cùng cơ quan tiếp thu những hình tướng, màu sắc, cảnh giới bên ngoài thì gọi là nhãn căn. Nhãn căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành vì thế nhãn căn không phải là nguyên nhân gây ra tội lỗi, phiền não, khổ đau. Bằng chứng là Đức Phật, các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác mặc dù đã tu chứngnhãn căn của họ vẫn giống y như tất cả chúng sinh, không thay đổi.

Cái khác nhau duy nhất giữa họ và chúng sinh là họ luôn làm chủ nhãn căn của mình, không để cho nó tha hồ chạy theo sắc trần làm tâm bị mê hoặc mà làm nô lệ cho vô minh phiền não. Nhãn căn là dùng văn tự đối đãi của con người để nói vậy thôi, chớ đúng ra chả có cái gì là thật nhãn căn cả bởi vì nhãn căn là do sự cấu thành của những tế bào, là thịt. Mà đã là thịt thì tại sao chỉ có thịt mắt mới thấy còn thịt đùi, thịt cổ tay lại không thấy? Vì thế Phật tạm gọi nó hình dáng tròn tròn giống như trái nho.


Năm căn còn lại thì cũng thế. Đối với hai thứ động tĩnh tứcthanh trần thì có nhĩ căn. Đối với hai thứ thông và bít tức là hương trần thì có tỷ căn. Đối với hai thứ lạt và vị tức là vị trần thì có thiệt căn. Đối với hai thứ hợp và ly tức là xúc trần thì có thân căn và sau cùng đối với hai thứ sinh và diệt tức là pháp trần thì có ý căn.


Nói tóm lại hình dáng nhãn căn thì tròn giống như trái nho, hình dáng nhĩ căn giống như lá sen non, hình dáng của tỷ căn trông giống như hai ngón tay duỗi xuống, hình dáng thiệt căn trông như nữa vành trăng, hình dáng thân căn giống như cái trống cơm và hình dáng ý căn gống như chất đậu hủ non. Vì lục căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành nên chúng không phải là nguyên nhân của ưu bi, tội lỗi, phiền não, đau thương.


Một ngày kia, có một thiền sư đang tọa thiền trên một tảng đá lớn, thình lình có một người nhảy tới, túm lấy vai sư nói lớn :


- Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu?


Đây là một người đàn ông chân tay khẳng khiu, da nhăn nheo tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khặp khểnh chìa ra ngoài, môi thâm và trề ra giống như quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy, thiền sư hiền từ đáp:


- Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.


Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:


- Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?


Sư chậm rãi đáp :


-Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ khó. Những kẻ giàu có tiền rừng bạc biển nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ người xả thân cứu đời, vô tài nhưng có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu chê bai dè bỉu thành quả của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng hoại xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng an bám xã hội, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Tất cả những người này mới xấu, chứ ông có gì gọi là xấu đâu!


Nghe nói như vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn diện mạo đều khiếp vía. Bởi vì ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đâm thuê chém mướn. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tên cướp hung bạo.

Ông ta cởi trần, ngực xâm những con thủy quái gớm nhiếc. Chưa hết, hai cánh tay ông còn xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn cho nên khi ông đưa tay ra giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông cầm một chiếc móc sắc, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẳn. Giọng ông khàn khàn giống như giọng Ngưu Ma Vương khiến đàn bà, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra rồi hỏi:


- Thầy có thấy tôi đáng sợ không?


Nghe ông hỏi, sư vẫn điềm nhiên đáp:


- Ông chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.


Quá đổi ngạc nhiên, ông vặn hỏi :


- Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy thử nói xem.


Thiền sư vẫn ung dung đáp lại :


- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặt sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện nhân nghĩa, đạo đức để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy kết thành bè đảng Mafia, không chuyện tàn ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.


Ông đáng sợ sau khi nghe nhà sư nói như thế chán nản lui ra. Nhưng khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái tiến lên, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:


Tôi là Hoa Hậu Thế Giới, Sư có thấy tôi đẹp không?


Sư chậm rãi đáp :


- Cô chẳng có chi là đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.
Cô gái nghe nói, bực bội, mở tròn đôi mắt hỏi lại sư:


- Hoa hậu thế giới là người đẹp nhất của thế giới mà thầy nói còn rất nhiều người đẹp hơn tôi, vậy những người đẹp đó hơn tôi ở chỗ nào?
hiền từ đáp :


- Giữ gìn trang nghiêm “giới hạnh” là “thân đẹp”. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là “nết đẹp”. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là “cử chỉ đẹp”. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là “tâm hồn đẹp”. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đở, đó là “ngôn ngữ đẹp”. Không một tà niệm nảy sinh, đó là “ý đẹp”. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là “trí tuệ đẹp”. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui giải thoát, đó là cái đẹp mà trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đoạt, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.

CHỈ RA HƯ VỌNG KHÔNG THẬT. PHÁT MINH CHÂN TÁNH THÌ VIÊN THOÁT


A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy. Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe. Rời thông và bít thì không có tánh ngửi. Không vị không nhạt thì không có cái nếm. Không hợp, không ly thì không có tánh xúc. Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.


Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi. Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết.


Đến lúc không cần có tiền trầntri kiến vẫn phát khởi, bấy giờ tri kiến giác minh không lệ thuộc nơi căn, chỉ gá vào căn mà phát ra nhận thức trong sáng. Do đó sáu căn bấy giờ có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì trở ngại.


A Nan! Ông có biết chăng! Trong hội này ông A Na Luật Đà không có mắt mà vẫn thấy. Thần nữ Căn Già không có mũi mà nhận biết hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề lưỡi dị tướng (lưỡi trâu) mà biết vị.
A Nan! Nếu các căn của ông đều được giải thoát thì tánh giác tự phát ra. Chừng đó, phù trần cănhiện tượng vạn hữu thế gian đối với ông cũng như băng giá gặp nước sôi. Sự nhận thức của ông bấy giờ trở thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác.


Thế nào là tánh giác minh trở thành minh giác?


Tánh giác minh là tánh thanh tịnh bản nhiên, châu biến khắp mười phương thế giới, là tánh khách quan, không phải của riêng người nào. Nhưng cái tánh giác minh này trở nên bị hạn chế, giới hạn công năng của nó khi nó tác động vào con ngườitrở thành ra minh giác. Do đó minh giác là cái riêng của mình, của ta. Vì thế khi tánh giác minh tác dụng vào ông A Nan thì nó trở thành cái riêng của ông A Nan tức là minh giác. Một khi trở thành ra cái riêng của ông A Nan thì A Nan bây giờ trở thành năng phân biệt tức là năng minh và vạn pháp trở thành đối tượng sở phân biệt tức là sở minh. Thí dụ nhãn căn là năng phân biệt và nhà cửa, xe cộ là sở phân biệt. Nhĩ căn là năng phân biệt và tiếng nói, giọng cười, âm thanh là sở phân biệt.

Cái lưỡi là năng phân biệt còn mặn, nhạt, chua, cay là sở phân biệt. Nói cách khác bản tâm vốn thanh tịnh, thường hằngkhông sinh không diệt, nhưng lục căn duyên theo trần cảnh bên ngoài mà phát sinh ra vọng tưởng hay, biết. Một khi vọng tưởng phát khởi thì tham-sân-si nương theo vọng tưởng mà phát sinh mạnh. Từ đó tâm con người chạy theo lục dục thất tình nên cố bám giữ những thứ mình yêu mình thích và chán ghét những thứ mình không ưa, không muốn. Cũng vì chạy theo chấp ngã, chấp pháp nên con người tạo nên hạnh nghiệp để cột chặt họ vào sinh tử trầm luân đau khổ. Cái tuyệt vời ở đây là Đức Phật nhìn vạn hữu qua tánh bình đẳng khách quan tức là Ngài chỉ có tánh giác minh nên tất cả vạn pháp trong thế gian này như thế nào thì Đức Phật nhìn thấu suốt như thế đó, không thêm không bớt. Đó chính là pháp nhĩ như thị vậy. Ngược lại chúng sinh thì nhìn vạn pháp xuyên qua thấu kinh chủ quan nên “tánh giác minh” biến mất mà thay bằng “minh giác” nên thấy biết lầm lẫn, không thật.


Vì thế Phật mới dạy rằng :
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”.


Là người đệ tử Phật chúng sinh nên thấu hiểu rằng: Hiểu biết mà chồng lên hiểu biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thấy Niết bàn. Nói cách khác người đệ tử Phật phải biết cái gì là gút để phải vướng mắt mãi mãi trong sinh tử luân hồi hoặc làm sao mở gút để không còn ràng buộc trói trăn mà bước đi thong dong tự tại.


Khi tánh giác minh trở thành minh giác thì sáu căn của con người bị hạn chế, không còn bao la vô cùng vô tận trong pháp giới bởi vì tánh giác minh bây giờ đã mất hết tánh chất trong sáng bản nhiên nên bị giới hạn trong cái hay, biết tầm thường. Vì thế sáu căn bây giờ tùy thuộc hoàn toàn vào sáu trần cho nên nếu không có sáng tối thì không có cái thấy, không có động và tĩnh thì không có tánh nghe, không mặn, không nhạt thì không có tánh nếm, không ly không hợp thì không có tánh xúc, không sinh không diệt thì không có tánh biết. Ngược lại người tu chứng thì họ không tùy thuộc vào ngoại trần, không cần sáng tối mà vẫn thấy, không cần động tĩnh mà vẫn nghe…Họ không cần sự phân biệt đối đãi của căn và trần (năng, sở) mà vẫn có tri kiến giác minh sáng suốt thanh tịnh. Khi đã làm chủ được sáu căn nghĩa là đóng bít sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tri kiến bây giờ trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là sống với cái bản lai diện mục của mình. Hằng ngày con người sống với vọng tâm, sống xa dần với chơn tánh của mình nên mới nếm mùi phiền não khổ đau. Nếu bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, biết tránh xa những nhận thức mê lầm thì cái thế giới mình đang sống này sẽ trở thành thiên đường cực lạc. Vì thế mà kinh Duy Ma Cật có dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” là vậy.


Một lần nữa kinh Lăng Nghiêm xác định rằng một khi con người làm chủ được sáu căn của mình thì tuy hiện tượng vạn hữu trong thế gian này vẫn sờ sờ ra đó, nhưng đối với họ tuy có mà vẫn như không. Nói cách khác mặc dù thế gian vẫn có trước mắt, nhưng chúng sinh đừng chấp cái có của nó, đừng để tâm tham mê luyến ái nó thì tuy là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe. Lục căn đối với người giác ngộ thì tuy có mà vẫn như không. Các Ngài cũng có đầy đủ sáu căn như tất cả chúng sinh, nhưng sáu căn không còn tác động, chạy theo sáu trần. Họ nhìn vạn pháp một cách thấu triệt tận gốc của nó rằng : “Vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” nên tâm không hề lưu luyến, tham ái. Đây chính là cái nhìn hiện tượng vạn pháp qua thấu kính “tri kiến vô kiến” vậy.


Khi nói sáu căn chớ thật sự không phải là sáu mà chỉ nói sáu vậy thôi. Nhưng nếu không nói là sáu thì phải chăng nó là một? Cũng không được gọi là một mà chính là một. Nói cách khác công dụng của sáu căn là một và một cũng là sáu. Vì sao? Bởi vì sáu căn phát xuất từ tánh giác minh thanh tịnh bản nhiêntác dụng vào sáu căn nên có công dụng khác nhau mà có tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết. Nói cách khác sáu tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, nếm, xúc, biết đều phát xuất từ một tánh giác minh nên nói một tức là sáu, nhưng nếu con người bây giờ biết làm chủ sáu căn của mình để quay về với tự tánh thanh tịnh của mình thì sáu trở thành một nghĩa là sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì ngăn ngại cả. Phù trần căn là những căn thô, hiển lộ ra hình tướng chẳng hạn như con mắt thì tròn giống như trái nho, lỗ tai thì hình dáng giống như cái là sen non…Còn những căn rất vi tế bên trong gọi là tịnh sắc căn. Tuy rất vi tế, nhưng nó vẫn là vật chất, như luồng điện. Con người thường nghĩ rằng ý căn thuộc về tư tưởng nên nó không phải là vật chất, nhưng ở đây Phật chỉ rõ rằng ý căn thuộc về tâm nên không có hình tướng. Tuy ý căn là vô hình, nhưng vì phát xuất từ tứ đại thanh tịnh nên nó cũng có phù trần căntịnh sắc căn như tất cả các căn khác. Phù trần căn là khối thần kinh dùng để lưu chuyển những tín hiệu (dòng điện) từ các căn khác về hệ thần kinh trung ương.


Trong đoạn kinh trên Đức Phật dạy ông A Nanđại chúng nếu muốn trở về với bản tâm thanh tịnh để có giải thoát giác ngộ, an vui tự tại thì chỉ cần hàng phục “một trong sáu căn” để cho nó không còn dính mắc nơi trần cảnh nghĩa là tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não và xoay tánh giác minh trở về với trạng thái sáng suốt, minh diệu như thủa ban đầu. Một khi trí sáng suốt hiển hiện thì chấp ngã, chấp pháp dần theo thời gian mà tan biến và sau cùng chơn tâm hiện bày, Phật tánh hiễn lộ và chúng sinh sẽ có an lạc, thanh tịnhtự tại.


Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật có dạy rằng :


“Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước che lấp nên không nhận ra. Nếu con người có thể lìa được vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí hiển bày”.


Nói tóm lại, chúng sinh do căn-trần đối đãi mà có năng-sở phân biệt cho nên khi không có căn-trần thì mờ mịt, lầm lẫn. Đến khi chứng được tánh sáng suốt nghĩa là xoay cái minh giác trở thành tánh giác minh thì sáu căn trở thành tự tạitrở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên sáu căn có thể hòa nhập, không còn ngăn ngại. Đó là tại sao các vị A la hán, Duyên giác hay Bồ-tát một khi đã hoàn toàn sống với tánh giác minh của họ thì người nào cũng có thần thông tự tại, biến hóa khôn lường. Sáu căn không còn ngăn ngại nên mặc dầu nhắm mắt mà họ vẫn thấy, bịt tai mà vẫn nghe. Bằng chứng là tôn giả A Na Luật tuy mắt bị mù, nhưng nhờ có được thiên nhãn thông mà có thể thấy được tam thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay. Thần nữ Căn Già tuy không có mũi mà vẫn biết mùi hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề đời trước chê bai những vị tăng tiếng tụng kinh như tiếng chó sủa nên sang đến đời này cái lưỡi rất to và cong lại như lưỡi trâu. Tuy thế ông vẫn biết đủ mùi vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11097)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10755)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10164)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13484)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11458)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14257)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19677)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant