Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Phật Bảo Đánh Chuông Để Chứng Nghiệm Tánh Nghe Của Nhĩ Căn Là Thường Còn

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11390)
6. Phật Bảo Đánh Chuông Để Chứng Nghiệm Tánh Nghe Của Nhĩ Căn Là Thường Còn

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

 Chương Thứ Bảy

PHẬT BẢO ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ CHỨNG NGHIỆM TÁNH NGHE CỦA NHĨ CĂN LÀ THƯỜNG CÒN

ÔNG A NAN NGHI NGỜ RẰNG KIẾN, VĂN, GIÁC, TRI KHÔNG CÓ TỰ THỂ.


Bạch Thế Tôn! Ông A Nan thưa. Theo lời Thế Tôn dạy chỗ phát tâm cầu được thường trụ trong lúc tu nhân, cốt yếu cần phải cân xứng với những đức tính trong lúc chứng quả. Bạch Thế Tôn! Như trong quả vị, nào là Bồ-đề, Chân như, Phật tánh, Am ma la thức, Không Như Lai Tạng, Đại viên cảnh trí. Bảy thứ danh hiệu tuy có khác nhau, nhưng thế tánh đều thanh tịnh viên mãn, vững chắc như Kim cương vương, thường trụ như hư không bất hoại.


Bạch Thế Tôn! Cái tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rời các tướng tối, sáng, động, tĩnh, thông, bít, nhạt, mặn, hợp, ly cho đến như tâm niệm tư duy rời tiền trần không có cái nào còn tự thể. Vậy thì lấy cái gì làm nhân tu hành để cầu Vô Thượng Giác rắn chắc như Kim cương vương, thường trú bất hoại như hư không ấy?


Xin Phật rũ lòng đại từ khai thị chỗ mê chấp cho tôi!


Trong đoạn nghĩa quyết định thứ nhất Phật dạy rằng:” Chúng sinh chỉ có thể nương theo cái tâm thường trụ, bất biến, không sinh diệt để làm nhân địa tu hành thì mới thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình”. Trong đoạn nghĩa quyết định thứ hai Phật lại dạy: “Tánh thanh tịnh nhiệm mầu bị dính nơi sáu căn, cần phải mở cái nút ấy ra mới được giác ngộ”. Nói cách khác không thể đem sáu căn còn bị dính mắc, mê lầmtu chứng thành quả vô lậu được. Và sau cùng đoạn kinh trên Phật dạy ông A Nanđại chúng nên chọn một trong sáu căn làm nhân địa tu hành vì một căn dễ tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não mà thấy được chơn tâm, Phật tánh của mình. Nói cách khác chúng sinh chỉ cần chọn cho mình một căn dễ thâm nhập, công dụng dễ thành mà tiến tu để phá trừ chấp ngã, chấp phápđạt được tánh viên thông vô ngại thì những căn còn lại đồng thời đều được thanh tịnh.


Đến đây ông A Nan đã thấu hiểu rằng tuy các quả sở chứng có nhiều, nào là Chơn như, nào là Bồ-đề, nào là Am ma la thức, nào là Không Như Lai Tạng…nhưng tất cả đều có chung thể tánh thanh tịnh viên mãn. Thế nhưng ông lại nghi rằng nếu mà tiền trần tự nó diệt mất thì những tâm niệm của ông cũng bị diệt theo. Do vậy mà tâm ngã và tâm sở cũng không còn tức là tướng của bản ngã và tướng của hình trạng vạn hữu bên ngoài cũng tan biến. Như thế thì lấy cái gì làm nhân căn bản để tu hành mà thành giác ngộ?

KHAI THỊ TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG CÒN


Phật bảo :

- A Nan! Nay tôi đem việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gở mối nghi của ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng;


- A Nan ! Ông có nghe không?

- Có nghe. Ông A Nanđại chúng đồng thưa.


Chuông hết kêu, không còn tiếng, Phật lại hỏi rằng:


- Nay ông có nghe chăng?


- Không nghe. Bạch Thế Tôn.


La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi rằng:


- Ông có nghe chăng A Nan?


- Có nghe. Bạch Thế Tôn.


Phật hỏi :


- Thế nào thì ông có nghe? Còn thế nào thì ông không nghe?
Ông A Nanđại chúng đồng bạch Phật rằng :


- Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa.
Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp:


- Theo ông hiện nay có tiếng không?


- Có tiếng. Bạch Thế Tôn!


Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi:


- Hiện giờ có tiếng không?


- Không tiếng, Bạch Thế Tôn!


Phật bảo :


- Thế nào ông gọi là có tiếng. Còn thế nào thì ông gọi là không tiếng?
Ông A Nanđại chúng đồng thưa :


- Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng, giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng.
Phật bảo :


- Ông A Nanđại chúng rằng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn điên đảo như thế?
Đại chúngA Nan bạch Phật :


- Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo?
Bây giờ Phật mới dạy rằng:


- Tôi hỏi về cái nghe thì các ông nói là nghe! Tôi hỏi về tiếng thì các ông cũng nói là tiếng! Chỉ có cái nghe và tiếng mà các ông trả lời không nhất định, còn không phải lộn xộn điên đảo là gì?


- A Nan! Biết có, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn thì lấy cái gì để biết là không tiếng?


- A Nan! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sinh có diệt, nhưng không phải vì sự sinh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt. Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, thông, bít, …là cái nghe…không còn. Ông nên hiểu rằng: Tánh nghe không những “thường hằng” trong khi thức mà nó “thường hằng” cả trong lúc ông ngủ say sưa!


- Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh theo vọng niệmlưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông xuôi theo dòng sinh diệt. Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sinh diệt, giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục trần, lục thức tiêu vong tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của vọng tưởng và cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng. Cái nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy.


Tuy A Nan đã biết các sự mê lầm dựa theo lời Phật dạy, nhưng chính ông chưa trực nhận được cái mê lầm nầy. Để giải mối nghi ngờ của ông A Nan, bây giờ Phật bảo tôn giả La Hầu La đánh chuông. Khi Phật hỏi có nghe, không nghe thì ông A Nan cũng đáp có nghe, không nghe. Đến khi Phật hỏi có tiếng, không tiếng thì ông A Nan cũng đáp có tiếng, không tiếng. Chính ông A Nanđại chúng đã lầm lẫn cái nghe với cái tiếng tức là không phân biệt rõ ràng cái gì là “căn tánh” và cái gì là “trần cảnh”. Dựa theo A Nan là khi không nghe tiếng thì gọi là không nghe, nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại thì nếu thật không nghe thì làm sao biết được tiếng chuông đã dứt. Còn nếu tánh nghe đã diệt, không còn thì khi tiếng chuông đánh lại, làm sao còn nghe được? Nói cách khác tiếng không, không phải tánh nghe không có. Hoặc tiếng có, không phải tánh nghe mới sinh.

Do vậy nghe có tiếng, hay nghe không có tiếng là do thanh trần khi có, khi không chớ không phải tánh nghe vì thanh trần mà hóa có, hóa không. Vì vậy phải biết rằng tánh nghe thì lúc nào cũng có cho dù có tiếng hay không nên mới gọi là thường còn. Nói cách khác có tiếng thì nghe động, không tiếng thì nghe tĩnh, chớ không phải không tiếng thì tánh nghe không còn. Đây là đức tính “thường”, một trong ba tính ”thường, viên, thông” của nhĩ căn. Bằng chứng là trong khi ngủ, con người cũng có thể nghe được tiếng mặc dù ý thức không khởi. Trong chương kế tiếp, Đức Phật giới thiệu Đức Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông để khai thị rằng trong nhĩ căn của con người có một tánh nghe, thường hằng, không sinh diệt cho dù có tiếng hay không có tiếng. Nếu chúng sinh có thể đi vào được bản tánh nghe của mình thì tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước dần dần sẽ tan biến. Từ đó chơn tâm hiển bày, Phật tánh biểu lộ.


Tiếng nghe là tướng của âm thanh tức là khi có tiếng là âm thanh sinh và không còn tiếng là âm thanh diệt. Vì thế âm thanh là tướng sinh diệt. Vì thế nếu chúng sinh dựa vào âm thanh sắc tướng mà tu tức là tu theo bản tánh sinh diệt của các tướng thì không bao giờ đạt được chơn như thanh tịnh bởi vì những gì có tướng sinh diệt đều là huyễn ảo, giả dối, không thật. Do đó nếu chúng sinh nương theo những huyễn ảo này mà tu thì họ sẽ sống với cái vọng duyên, huyễn cảnh. Cho nên trong kinh Kim Cang, Phật có dạy rằng:


“Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như Lai”.


Nghĩa là nếu chúng sinh còn dựa theo âm thanh sắc tướng của Phật mà tu tức là chưa phá được vọng chấp, vô minh phiền não thì không bao giờ thấy được Phật tâm, Phật tánh tức là không thấy được Như Lai.


Mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng vậy. Khi có mùi thơm thì mũi ngửi biết mùi thơm, khi có mùi xú uế thì ngửi biết mùi hôi tanh. Còn nếu không có mùi thì mũi trở về với tánh vô ký tức là tánh ngửi vẫn còn, nhưng không có mùi vị để tiếp nhận. Khi có vị mặn, nhạt thì lưỡi nếm được những vị này, nhưng nếu không có mùi vị gì thì lưỡi trở lại với tánh vô ký của nó, chớ không phải là không còn tánh nếm. Nói tóm lại ngoài những cái phân biệt thương ghét, vui mừng, buồn giận, phải quấy, hơn thua, tốt xấu của thế gian hay cái tánh thấy nghe, ngửi, nếm, xúc, biết thì vẫn còn một cái lúc nào cũng thường còn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó chính là chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh chớ không phải mất hết như ông A Nan hoài nghi.


Từ vô thỉ, con ngườithói quen chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo cái sinh diệt mà bỏ mất tánh viên thường nên xoay vần mãi trong ô nhiễm chấp trước mà tạo hạnh nghiệp để phải chịu sinh tử khổ đau. Nay nếu biết thoát ly trần cảnh, bỏ cái phân biệt, phát huy tánh chân thường yên lặng sáng suốt thì những vọng tưởng, phân biệt mê chấp biến mất và tâm tánh thường trụ sáng suốt hiện ra để làm nhân địa tu hành đi đến đạo quả thường trụ của Phật.

XEM TIẾP CHƯƠNG 8 QUYỂN HAI...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12096)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10616)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12686)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11952)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant