LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
II: QUÁN KHỨ LAI[1]
Hỏi:
Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian, có tác động trong
ba thời, tức là cái đã đi cái chưa đi; và cái đang đi[2].
Vì có tác động nên biết có các Pháp.
Đáp:
1)
Cái đã đi không đi.
Chưa đi cũng không đi.
Ngoài cái đã và chưa,
Đang đi cũng chẳng đi.[3]
Cái
đã đi không đi, vì đã đi. Nếu lìa sự đi mà có tác nghiệp
đi[4] thì không đúng. Cái chưa đi cũng không đi, vì sự kiện
đi[5] chưa có. Cái đang đi có nghĩa một nữa đi, nữa chưa
đi; vì nó không ngoài đã đi và chưa đi.
Hỏi:
2)
Có đi trong cử động[6];
Trong
ấy có đang đi,
Chứ
không phải đã, chưa,
Vậy
đang đi có đi[7].
Tùy
theo chỗ nào có tác nghiệp thì chỗ ấy có sự kiện đi.
Theo cái thấy của con mắt, có tác nghiệp trong khi đang đi.
Trong cái đã đi thì tác nghiệp đã diệt; trong cái chưa đi
thì chưa có tác nghiệp. Thế nên biết trong khi đang đi có
sự đi.
Đáp:
3)
Làm sao khi đang đi,
Mà
có sự kiện đi[8]?
Nếu
lìa sự kiện đi,
Cái
đang đi không thể.
Cái
đang đi có sự kiện đi, điều này không đúng. Vì sao? Lìa
sự kiện đi không có cái đang đi. Nếu lìa sự kiện đi mà
có cái đang đi[9] thì mới có thể nói trong cái đang đi có
sự kiện đi, cũng như trong đĩa kia có trái cây[10].
Lại
nữa:
4)
Nếu nói đang đi đi,
Nói
như vậy là sai.
Lìa
đi, có đang đi,
Đang
đi, đi một mình[11].
Nếu
nói rằng không có sự kiện đi trong cái đã đi và chưa đi,
nhưng cái đang đi thật sự có đi[12]; nói như vậy là sai.
Nếu lìa sự kiện đi mà có cái đang đi thì không cần đến
sự làm nhân cho nhau. Tại sao? Nếu nói cái đang đi có sự
kiện đi, như vậy là có hai sự đi. Nhưng sự thật không
như vậy. Do đó không thể nói lìa sự kiện đi có cái đang
đi.
Lại
nữa:
5)
Nếu đang đi có đi[13];
Thì có hai sự đi:
Một là cái đang đi,
Hai, sự đi đang đi[14]
Nếu
nói cái đang đi có sự đi, nói như vậy là sai lầm ở chỗ
có hai sự đi: một là do sự kiện đi mà có cái đang đi,
hai là trong cái đang đi có sự kiện đi.
Hỏi:
Nếu có hai sự đi có lỗi gì?
Đáp:
6)
Có hai sự kiện đi,
Thì
có hai người đi[15].
Vì
lìa người đi ra,
Sự
đi không thể được.
Nếu
có hai sự kiện đi, tức có hai người đi. Vì sao? Do sự kiện
đi mà có người đi. Một người mà có hai sự kiện đi và
hai người đi thì chẳng đúng. Thế nên cái đang đi cũng không
đi.
Hỏi
: Lìa người đi không có sự kiện đi, thì có thể đúng.
Nhưng nay trong ba thời quyết định có người đi.
Đáp:
7)
Nếu lìa người đi ra,
Sự
đi chẳng thể được.
Vì
chẳng có sự đi;
Làm
gì có người đi?
Nếu
lìa người đi; sự kiện đi chẳng thể được. Nay làm thế
nào trong sự kiện không đi mà nói rằng ba thời quyết định
có người đi?
Lại
nữa:
8)
Người đi thì không đi,
Người
không đi chẳng đi.
Lìa
người đi, chẳng đi,
Không
người đi thứ ba.
Không
có người đi, vì sao? Nếu có người đi thì có hai trường
hợp: hoặc là người đi, hoặc là người không đi. Ngoài
hai người này, chẳng có người thứ ba.
Hỏi:
Nếu người đi có đi thì có lỗi gì?
Đáp:
9)
Nếu nói người đi đi;
Làm
gì có nghĩa này.
Nếu
lìa sự đi ra,
Người
đi, không thể được.
Nếu
nói, quyết định có người đi thực hiện sự kiện đi; nói
thế thì không đúng. Tại sao? Vì lìa sự kiện đi, người
đi không thể được. Nếu lìa người đi mà quyết định
có sự kiện đi thì người đi mới có thể thực hiện sự
kiện đi, nhưng sự thật chẳng phải vậy.
Lại
nữa:
10)
Nếu người đi có đi,
Thì có hai thứ đi
Một là người đi đi,
Hai là cái đi đi.
Nếu
nói người đi thực hiện sự kiện đi thì có hai lỗi, là
trong một người đi mà có hai sự đi: Một là do sự kiện
đi tựu thành người đi, hai do người đi tựu thành sự kiện
đi. Người đi đã tựu thành rồi, sau mới thực hiện sự
đi. Điều ấy không đúng, thế nên trong 3 thời quyết định
có người đi dùng cái đi, chẳng đúng.
Lại
nữa:
11)
Nếu nói người đi đi,
Nói vậy là sai lầm.
Lìa đi có người đi.
Người đi có sự đi.
Nếu
nói người đi thực hiện sự kiện đi thì có lỗi: lìa sự
kiện đi có người đi. Tại sao? Nói rằng người đi thực
hiện sự kiện đi; thế là người đi có trước, sau mới
có sự kiện đi. Nhưng điều đó không hợp lý. Ba thời không
có người đi. Lại nữa, nếu quyết định có sự đi và người
đi thì phải có sự cất bước đầu tiên nhưng trong ba thời
không tìm thấy có sự cất bước. Vì sao?
12)
Đã đi chẳng cất bước[16];
Chưa đi không cất bước;
Đang đi không cất bước;
Cất bước vào lúc nào?
Vì
sao trong ba thời không có sự cất bước?
13)
Trong khi chưa cất bước[17],
Không đang đi, đã đi.
Hai sự ấy mới cất,
Chưa đi đâu cất bước?
14)
Không đã đi, chưa đi,
Cũng là không đang đi,
Tất cả chẳng cất bước,
Vậy sao lại phân biệt.
Nếu
một người chưa cất bước thì không đang đi, cũng không
đã đi. Nếu có sự cất bước, thì chỉ có trong hai trường
hợp: Trong đã đi và đang đi. Nhưng cả hai đều chẳng đúng.
Còn khi chưa đi thì vì chưa có sự cất bước, do đó trong
trường hợp chưa đi làm gì có cất bước, không có sự cất
bước cho nên không có sự đi. Không có sự đi, nên chẳng
có người đi. Vậy làm thế nào có sự đã đi, chưa đi và
đang đi?
Hỏi:
Nếu không có sự đi, không có người đi, thì có sự đứng,
người đứng?
Đáp:
15)
Người đi thì chẳng đứng[18],
Người không đi chẳng đứng.
Ngoài người đi, không đi,
Người thứ ba nào đứng?
Nếu
nói có sự đứng, có người đứng, thì phải nói người
đi ấy đứng hay là người không đi ấy đứng? Lìa hai trường
hợp này ra mà có người thứ ba đứng thì điều đó chẳng
đúng.
Người
đi mà không đứng là vì sự đi chưa chấm dứt. Ngược lại
đi gọi là đứng. Người không đi cũng chẳng đứng. Tại
sao? Nhơn sự kiện đi chấm dứt mới có đứng; không đi thì
chẳng đứng. Lìa cái người đi và cái người không đi, không
có người thứ ba nào đứng. Nếu có người thứ ba nào đứng
thì người ấy chỉ có thể là người đi hay người không
đi. Vì thế, không thể nói người đi nào đó đứng.
Lại
nữa:
16)
Người đi mà là đứng.
Làm gì có nghĩa này;
Nếu lìa sự kiện đi,
Người đi chẳng thể có[19].
Ông
nói rằng: “Người đi ấy đứng” điều này không đúng.
Vì sao? Lìa sự kiện đi, người đi chẳng thể có. Nếu người
đi ở trong tình trạng đi, thì làm thế nào có thể đứng?
Đi và đứng trái hẳn nhau vậy.
Lại
nữa:
17)
Chưa đi thì không đứng;
Đang đi cũng chẳng đứng;
Mọi biến hành, đình chỉ,
Đều cùng nghĩa sự đi.
Nếu
nói người đi có đứng thì người này phải đứng ở trong
ba trường hợp đã đi, chưa đi và đang đi. Nhưng cả ba trường
hợp chẳng có đứng. Thế nên ông nói người đi có đứng
là không đúng. Cũng như sự bác bỏ sự kiện đi và sự kiện
đứng, sự bác bỏ các sự kiện biến hành và đình chỉ
cũng giống như vậy. Sự biến hành là như từ hạt giống
lúa tương tục đến khi nảy mầm đâm chồi, trỗi lá v.v…
Sự đình chỉ chỉ là hạt giống lúa mục rã, thì mầm, nhánh,
lá cũng rã. Sự tương tục là sự biến hành. Sự gián đoạn
là sự đình chỉ.
Lại
như duyên vô minh mà có các hành cho đến lão tử, thì gọi
là hành[20]. Vô minh diệt nên các hành diệt v.v… gọi là
chỉ.
Hỏi:
Ông tuy bằng mọi cách bác bỏ sự đi, người đi; sự đứng,
người đứng. Mà theo cái thấy của con mắt thì vẫn có sự
đi, đứng.
Đáp:
Cái thấy của con mắt thịt chẳng thể tin. Nếu thật có
sự đi, người đi, thì do một pháp thành hay hai pháp thành
tựu? Cả hai đều có lỗi. Vì sao?
18)
Sự đi tức người đi,
Điều ấy thì không đúng.
Sự đi khác người đi,
Điều ấy cũng chẳng đúng.
Nếu
sự kiện đi và người đi là một thì không đúng, mà khác
cũng chẳng đúng.
Hỏi:
Một và khác có lỗi gì?
Đáp:
19)
Nếu nói sự kiện đi,
Cũng
chính là người đi.
Tác
giả và tác nghiệp,
Cả
hai phải là một.
20)
Nếu nói sự kiện đi,
Có khác với người đi.
Lìa người đi có đi,
Lìa đi, có người đi.
Cả
hai trường hợp như vậy đều có lỗi, tại sao? Nếu sự
kiện đi tức là người đi, thế là thác loạn phá hủy nhân
duyên. Do sự đi mà có người đi; nhơn người đi mới có
sự đi. Lại sự đi là pháp, người đi là nhân. Nhân thì
vốn thường, mà pháp thì vốn vô thường. Nếu cả hai là
một thì cả hai hoặc đều là thường, hoặc đều là vô
thường. Nếu cả hai là một thì có những lỗi như thế.
Nếu chúng khác nhau thì sẽ có sự mâu thuẫn, chưa có sự
kiện đi mà lại có người đi, chưa có người đi mà lại
có sự kiện đi. Chúng chẳng có quan hệ nhau. Như vậy, sự
kiện này chấm dứt mà sự kiện kia vẫn tồn tại. Trong trường
hợp chúng khác nhau cũng có lỗi như thế.
Lại
nữa:
21)
Sự đi và người đi,
Dù một hay dù khác,
Cả hai đều bất thành,
Trường hợp nào chứng thành.
Nếu
người đi và sự kiện đi được chứng thành rằng chúng
là một, hay được chứng thành rằng khác. Cả hai trường
hợp đều không thể. Ở trên đã nói chẳng có sự kiện
thứ ba nào được chứng thành. Nếu nói có tựu thành thì
phải nói rằng: Đó chỉ là do nhân duyên. Ở đây cần nói
thêm về không có sự đi và không có người đi.
22)
Nhơn đi biết người đi,
Không cần sự đi đó.
Trước chẳng có sự đi,
Nên không người đi đi.
Với
sự kiện đi nào mà người đi được biết đến thì chính
người đi ấy chẳng thể thực hiện sự đi ấy. Vì sao? Vì
khi mà sự kiện đi chưa có, thì không có người đi, cũng
không có cái đang đi, đã đi và sẽ đi. Ở đây không phải
như trường hợp trước tiên có con người, có thành ấp rồi
mới có sự đi đến. Bởi vì, ở đây người đi được chứng
minh do sự kiện đi, và sự kiện đi được chứng thành do
bởi người đi.
Lại
nữa:
23)
Nhơn đi biết người đi,
(Người đi) không cần sự đi khác.
Vì trong một người đi,
Không có hai sự đi.[21]
Với
sự kiện đi nào mà người đi được biết đến, thì người
đi ấy không thể thực hiện sự đi khác. Tại sao? Trong một
người đi không thể có hai sự kiện đi.
24) Người đi quyết định có,
Không dùng ba sự đi.
Người đi không quyết định,
Cũng không ba sự đi.
25) Sự đi định, không định,
Người đi chẳng dùng ba.
Nên sự đi, người đi,
Chỗ đi đến đều không.
Quyết
định có nghĩa là vốn thật có, chẳng nhơn sự kiện đi
mà phát sanh. Sự kiện đi là sự cử động của thân. Ba sự
đi là cái đã đi, chưa đi và đang đi. Nếu người đi quyết
định có, thì lìa sự kiện đi mà có người đi; chứ không
thể có sự đứng. Do đó, người đi quyết định có, thì
nó không thể thực hiện ba sự đi.
Giả
sử người đi không quyết định có. Không quyết định nghĩa
là vốn thật sự không có. Nhưng nhơn sự kiện đi mà có
thể nói đến người đi. Vì không có sự kiện đi nên người
đi mà không thực có thì không thể thực hiện ba sự đi.
Nhơn sự kiện đi mà có người đi. Nếu trước tiên không
có sự kiện đi thì chẳng có người đi; làm sao có thể nói:
người đi không quyết định có mà có thể thực hiện ba
sự đi? Như trường hợp người đi, sự kiện đi cũng thế.
Nếu trước lìa người đi mà quyết định có sự kiện đi
thì không do người đi mà có sự kiện đi. Thế nên người
đi chẳng thể thực hiện ba sự kiện đi. Nếu quyết định
không có sự kiện đi thì cần gì đến người đi. Như thế,
suy nghĩ quan sát: sự kiện đi, người đi, chỗ đi đến đều
do tương quan mà tựu thành. Nhơn sự kiện đi mà có người
đi, do có người đi nên có sự kiện đi, nhơn hai sự thể
này mà có chỗ đi đến, chứ chẳng thể nói: Quyết định
có hay quyết định không.
Thế
nên, quyết định biết ba pháp hư vọng không thật, chỉ có
giả danh, như huyễn như hóa.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Chương này không dễ nắm bắt với những vị chưa làm quen
với ngữ pháp Sanskrit; vì những phân tích về sự thành lập
các từ ngữ và quan hệ giữa các từ ngữ đều dựa trên
các quy luật ngữ pháp Sanskrit rất phức tạp. Một số chú
thích Skt. sẽ cần thiết. TS
[2]
Hán: dĩ khứ, vị khứ, khứ thời; Skt. gata (quá khứ phân
từ của động GAM: đi); agata (phủ định của gata), gamyamàna
(hiện tại phân từ thụ động của GAM). Ts
[3] Quán khứ lai là thảo luận về thời gian và vị trí di dịch
của sự vật, khứ nghĩa là đi (Skt. gata), chỉ thời gian đi
qua. Lai là đến (Skt. àgata) là nói thời gian đến. Thời gian
chia làm 3 giai đoạn: quá khứ hiện tại và vị lai. Làm thế
nào người ta minh định thật tại môi giới giữa thời gian
quá khứ và thời gian vị lai, nghĩa là ranh giới thời gian
đã qua và thời gian chưa đến (dĩ khứ, vị lai)? Thời gian
khoảng giữa, đã đi (dĩ khứ) và chưa đến (vị lai), phải
chăng đó gọi là hiện tại? Đây là vấn đề được Ngài
Long Thọ đưa ra thảo luận.
Trong
bài tụng 17, 18 và 19, Bồ tát Long Thọ đưa ra những nghi vấn
về dĩ khứ, vị khứ và khứ thời (lúc chuyển động đi).
Dĩ khứ là chỉ động tác đã đi, vị khứ là chỉ động
tác chưa đi, khứ thời là chỉ động tác đang lúc chuyển
động. Nếu đã đi tức là nói đến động tác đã đi rồi
(dĩ khứ). Đi rồi đâu còn gì nữa mà nói có đi (hữu khứ).
Còn chưa đi (vị khứ) là nói chưa có sự động tác di dịch,
thì không thể nói rằng có đi. Ngoài cái đi và chưa đi mà
có cái lúc đi (khứ thời) là không đúng. Vì khứ thời là
chỉ lúc động tác. Dĩ khứ và vị khứ không có thì chính
khứ thời cũng không thể có được. Do đó, từ câu 20, 21
Long Thọ Bồ Tát nhấn mạnh giải bày cái lầm lỗi ấy.
[4]
Hán: khứ nghiệp; Skt. gata-karma, hành động đi (vận chuyển).
TS
[5]
Hán: khứ pháp; Skt. gata-dharma= gati, danh từ được lập
từ động từ GAM để chỉ trang thái. Hán cũng dịch là thú
trong từ lục thú tức sáu nẽo luân hồi. TS
[6]
Hán: động xứ; Skt. cewỉa: sự cử động tay chân; sự vận
động, hành động. TS
[7]
Hán: khứ thời khứ; Skt.: gamyamàne gatis, “có sự đi trong
sự đang đi.” Chủ thể đi được chứng minh bằng hành vi
đang đi. TS
[8]
Hán: khứ pháp ở đây, Skt.: gamana, chỉ tác động đi; không
đồng nhất với khứ pháp trong bài tụng 2 ở trên, mà Skt.
là gati, chỉ trạng thái vận động. TS
[9]
Tham chiếu Skt.: gamyamànam agamanaư, “tác động không đi trong
hiện tại đang đi.” Cấu trúc ngữ pháp của luận lý ở
đây khá tế nhị. Hiện tại phân từ thụ động gamyamàna
(đang đi) và danh từ chỉ hành động agamana đều đồng cách,
cho thấy phát biểu tuy hợp quy tắc theo ngữ pháp nhưng tự
mâu thuẩn trong khái niệm. TS
[10]
Theo thí dụ này thì quan hệ đồng cách (xem cht. 4 trên) được
giải thích là quan hệ môi trường hay sở y (đệ thất chuyển
thanh).TS
[11]
Tham chiếu Skt.: (...) gamyamànaư hi gamyate, phân từ hiện tại
(gamyamànaư) làm chủ từ cho động từ chia ở thể thụ động
(gamyate), thì hiện tại. TS
[12]
Xem cht. 6 trang trước. TS
[13]
Skt.: gamana-dvayaư: hai hành động đi. TS
[14]
Hán: khứ thời khứ. Skt.: atra gamanaư, bản thân hành động
đi. TS
[15]
Skt. gantf, chủ thể (nhân cách) đi. TS
[16]
Hán: dĩ khứ trung vô phát. Cát Tạng giải thích, phát tức
phát túc: dở chân lên; “Thế gian nói, đi nghìn dặm đường,
đều nhân bởi sự phát túc.” Skt. : gate nàrabhyate gantum,
“(nó) không bắt đầu đi trong cái đã đi.” Ở đây dùng
động từ ở thể vô hạn (gantum) để chỉ ý hướng vận
động. TS
[17]
Hán: vị phát. Skt.: pùrvaư gamanàrambhàd, trước khi khởi sự
đi. TS
[18]
Hán: trụ. Skt. tiỉhati, đình trú, đứng hay dừng lại. TS
[19] Thời gian chuyển động liên lĩ vô tận, nó không có hình
tướng môi giới, nên khó phân định ranh giới của thời
gian, động tác quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá khứ không
có thì hiện tại, vị lai cũng không. Quá khứ đã qua, vị
lai chưa đến, hiện tại không an trụ. Sự tương quan tương
duyên giữa động chuyển thời gian, vị trí không gian, là
một thứ triền miên tế nhị. Nếu vọng tâm cố chấp như
thế này, thế khác, đều là sai lầm vọng kiến. Bởi mọi
sự vật một khi có cái này, thì có cái khác. Khó hoặc không
thể nói cái này có trước cái kia. Cái đã đến chính là
cái chưa đến trước kia, cái chưa đến chính là cái đã
rồi sắp đến. Nó xoay vần như bánh xe quay tròn không biết
đâu là đầu mối trước sau, sau trước của thời gian. Chỉ
do khái niệm của con người đặt ra một ngày đêm 24 tiếng
đồng hồ, một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng, bốn mùa xuân
hạ thu đông. Ban ngày là chỉ chỗ nào quả đất xoay đúng
chiều hướng mặt trời rọi sáng, ban đêm là chỉ nơi nào
quả đất chưa xoay qua hướng mặt trời. Như thế trong khi
các nước phương Ðông, như nước V.N chẳng hạn, trời sáng
gọi là ban ngày, thì trong lúc ấy các nước nằm trong khu
vực Tây phương quả đất xoay chưa đến hướng mặt trời
thì gọi là ban đêm. Như thế thời gian ngày đêm sáng tối
là dựa vào quả đất xoay và mặt trời, thời gian tự nó
không phân biệt có sai khác, cũng như xuân nở, thu tàn, hạ
nhiệt, đông hàn, bốn mùa trong một năm, và năm nào cũng
như năm nấy, bằng sự hạn định nhân tạo 365 ngày, 100 năm
là một thế kỷ….
[20]
Hành (Skt. saưskàra) trong 12 nhân duyên đồng âm nhưng không
đồng nghĩa với hành trong biến hành (Skt. sampravftti) ở đây.
[21]
Một người trong lúc di chuyển gọi đó là đi (khứ) trong
lúc đi, chính là lúc nó cũng đang qua, lúc đang, thì không
thể có cái chưa đến; người chưa đi, cũng không có hành
động đi (khứ pháp) thì sự đã đi, đang đi và khi đi (dĩ
khứ, hiện khứ, thời khứ) cũng không căn cứ vào đâu mà
gọi là đi… Chân tánh thật thể bổn lai không có khứ lai
, đông tây nam bắc, mà không chỗ nào không lúc nào, chân
tánh bản thể không hiển hiện, chỉ vì nhơn loại chúng sanh
mê muội vô minh, do đó có phân biệt là một là hai, khác
và không sai khác, đi đến chỗ thiên kiến cố chấp hư vọng;
Cố chấp, là sự trở lực to lớn đối với đạo giải thoát.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”