LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XIII: QUÁN HÀNH
Hỏi:
154)Như
kinh Phật có nói,
Pháp
bị cướp[1] là dối.
Các
hành bị cướp đoạt,
Cho
nên là hư dối. [1]
Trong
kinh Phật có nói: “Pháp bị (vô thường) cướp đoạt, là
hư dối.” Pháp chân thật đệ nhất được gọi là Niết-bàn,
không phải là pháp bị (vô thường) cướp đoạt. Vì kinh
có nói như vậy, cho nên biết rằng có các hành, vốn là pháp
hư dối, vì bị vô thường cướp đoạt.
Đáp:
155)Hư
dối, bị cướp đoạt;
Cái
gì bị cướp đoạt?
Phật
dạy việc như thế,
Muốn
chỉ bày nghĩa không. [2]
Nếu
pháp bị cướp đoạt là hư dối, thì trong các hành ấy cái
gì bị cướp đoạt? Phật nói điều đó nên biết, đó là
nói về tánh Không.
Hỏi:
Làm thế nào biết tất cả các “hành” đều là tánh “không”.
Đáp:
Vì tất cả các hành có tính chất hư đối, cho nên không.
Các hành sanh diệt không dừng nghỉ, không tự tánh nên không.
Các hành là năm ấm. Từ hành sanh ra, nên năm ấm được gọi
là hành. Năm ấm đó đều hư dối, không có tướng quyết
định. Vì sao?
Như
sắc của đức bé khi là hài nhi không phải như sắc đứa
bé lúc biết bò; sắc đứa bé lúc biết bò chẳng phải như
sắc đứa trẻ khi biết đi; sắc của đứa trẻ lúc biết
đi không phải như sắc của trẻ thiếu niên; sắc tướng
của trẻ khi thiếu niên không phải như sắc lúc tráng niên;
sắc tướng của người lúc tráng niên không phải như sắc
tướng của người già nua. Như thế sắc từng sát na không
đình trụ, do đó khi phân tích, không thể tìm thấy tính chất
quyết định. Sắc của đứa hài nhi chính là sắc của đứa
bé biết bò, cho đến sắc lão niên, hay là khác? Cả hai đều
có lỗi. Vì sao? Nếu sắc của hài nhi tức là sắc biết bò
cho đến sắc lão niên, như thế chỉ có một sắc đều là
hài nhi, không có sắc khi biết bò cho đến lão niên. Lại
như đất sét chỉ là đất sét thì không bao giờ thành cái
bình. Tại sao? Vì sắc luôn luôn cố định. Nếu sắc khi hài
nhi khác với sắc khi biết bò thì hài nhi không thể trở thành
bé biết bò, biết bò không thể làm nên hài nhi. Tại sao?
Vì hai sắc khác nhau. Như thế sắc của đồng tử thiếu niên,
tráng niên cho đến lão niên, không thể tương tục, sẽ sai
lầm ở chỗ mất pháp thân thuộc; Không cha, không con. Nếu
thế chỉ có hài nhi mới có cha, ngoài ra, từ biết bò cho
đến già đều không thể có phần. Thế nên cả hai đều
có lỗi.
Hỏi:
Sắc tuy không quyết định, nhưng sắc của hài nhi diệt rồi
tương tục tái sanh khởi; cho đến tái sanh khởi sắc khi lão
niên; như vậy không có lỗi như trên.
Đáp:
Sắc của hài nhi nếu tương tục sanh khởi; là hủy diệt
rồi tương tục sanh, hay là không diệt mà tương tục sanh?
Nếu sắc hài nhi hủy diệt, làm thế nào có tương tục? Bởi
vì không nhơn. Ví như, tuy có củi bị đốt nhưng lửa đã
diệt nên không có tương tục. Nếu mà hài nhi không hủy diệt
mà tương tục thì sắc hài nhi không diệt là thường trú
bổn tướng cũng không tương tục.
Hỏi:
Đây tôi không nói do hủy diệt hay không hủy diệt mà tương
tục phát sanh; tôi chỉ nói nó không định trụ, mà sanh khởi
theo tính chất tương tợ cho nên nó đã tương tục sanh khởi.
Đáp:
Nếu ông nói thế ấy thì đã có sắc xác định rồi lại
phát sanh nữa, như thế sẽ có nghĩa là có muôn vạn thứ
sắc sanh ra, song điều ấy không đúng. Thế là cũng không
có tương tục. Như thế, trong tất cả mọi trường hợp,
tìm kỹ các sắc, không có tướng quyết định; chỉ vì do
ngôn ngữ thế tục mà có thôi. Như nơi cây chuối, tìm lõi
thật không thể có, chỉ có bẹ lá. Như thế, người trí
suy nghiệm về sắc tướng, mỗi niệm mỗi niệm hoại diệt, không có thật sắc nào có thể có được. Sắc hình sắc
tướng không định trụ, tương tợ tiếp nối phát sanh; khó
có thể phân biệt. Như nơi ánh lửa, phân biệt sắc quyết
định của nó chẳng thể được. Thế nên, sắc do không có
tự tánh, nên không, chỉ do ngôn ngữ thế tục mà nói có.
Thọ
v.v.. cũng như thế. Người trí quán sát bằng mọi cách, thấy
rằng vì nó tiếp nối tương tợ nên sanh và diệt; khó có
thể phân biệt mà biết. Như dòng nước tương tục chảy.
Chỉ do sự giác tri mà nói có ba thứ thọ ở thân. Thế nên,
phải biết thọ cũng được nói như sắc.
Tưởng,
do bởi danh tướng mà phát sanh, nếu lìa danh tướng thì không
sanh. Thế nên Phật dạy, “Phân biệt, biết danh tự tướng
nên gọi là tưởng.” Nó không phải quyết định có trước.
Từ các duyên phát sanh nên không có tánh quyết định. Vì
không có định tánh, như bóng theo hình; nhân hình có bóng;
không hình thì không bóng. Bóng không có tánh cố định. Nếu
quyết định có, thì lìa hình, nên có bóng; mà thật không
như thế. Thế nên từ các duyên phát sanh vì không tự tánh
nên không thể hiện hữu. Tưởng cũng như thế, chỉ nhân
danh tướng bên ngoài, do ngôn ngữ thế tục mà có.
Thức
do bởi sắc, thanh, hương, vị, xúc; và mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân mà phát sanh. Vì các căn mắt v.v.. riêng biệt, nên thức
nó có sự riêng biệt. Thức ấy ở mắt hay là ở nơi sắc,
hay là ở khoảng giữa? Không có quyết định, chỉ có phát
sanh rồi mới nhận thức trần cảnh, nhận thức người này,
nhận thức người kia. Cái nhận thức về người này chính
là cái nhận thức với người kia, hay hai cái khác nhau, cả
hai đều khó có thể phân biệt. Như cái nào là thức con mắt,
cái nào là thức lỗ tai cũng khó phân biệt. Do vì khó phân
biệt, nên dù có một, hay nói khác đều không có sự phân
biệt quyết định. Vì nó từ các duyên mà phát sanh. Mắt
v.v.. do phân biệt nên không có tự tánh. Như con hát ngậm
hạt châu, sau khi nhả ra, rồi lại cho người khác thấy, người
ta sẽ nghi ngờ, đó có phải là hạt châu cũ không, hay là
hạt khác? Thức cũng như thế. Sanh rồi lại sanh; thức ấy
vốn là cái thức gốc hay là cái thức nào khác? Thế nên
biết, thức không đình trú nên không có tự tánh, hư dối
như huyễn.
Các
hành cũng như thế. Các hành là thân, khẩu, ý. Hành có hai
thứ; tịnh và bất tịnh. Những gì là bất tịnh? Những sự
tham trước gây tổn hại cho chúng sanh gọi là bất tịnh.
Làm các việc gì chẳng não hại chúng sanh; nói lời chân thật,
không tham trước v.v.. gọi là tịnh. Hành có tăng, có giảm;
Hành thuần tịnh sẽ sanh trong cõi người và các cõi trời,
Dục, Sắc, Vô sắc; thọ quả báo rồi thì giảm, lại tạo
nữa gọi là tăng. Hành bất tịnh cũng như thế. Ở trong địa
ngục, ngạ qủy, súc sanh, A tu la thọ quả báo rồi thì giảm;
trở lại tạo nên gọi là tăng. Thế nên, các hành vi có tăng
có giảm, do đó không dừng trụ. Như người có bịnh, tùy
trường hợp chữa trị thích hợp thì bịnh được lành, nếu
không thích hợp, bịnh sẽ trở lại. Các hành cũng như thế,
có tăng có giảm nên không cố định; chỉ do ngôn thuyết
của thế tục mà có. Nhơn thế tục đế mà thấy được
đệ nhất nghĩa đế. Đó là, duyên vô minh có các hành, từ
các hành mà có thức kết sanh, do thức kết sanh nên có danh
sắc, từ danh sắc có sáu nhập, từ sáu nhập có xúc, từ
xúc có thọ, từ thọ có ái, từ ái có thủ, từ thủ có
hữu, từ hữu có sanh, từ sanh có lão tử, ưu bi khổ não,
ân ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ v.v. Như thế các khổ
đều do hành làm gốc. Đức Thế Tôn theo thế tục đế mà
nói. Nếu chứng đắc đệ nhất nghĩa đế, phát sanh trí huệ
chân thật, thì dứt được vô minh. Vô minh dứt, các hành
cũng không tập khởi. Các hành không tập khởi thì các phiền
não bị đọan trừ ở kiến đạo như thân kiến, nghi, giới
cấm thủ v.v.. cũng bị đoạn trừ, và các phiền não bị
đoạn trừ bởi tư duy (tu đạo) như tham, nhuế, sắc ái, vô
sắc ái, vô minh cũng đoạn. Do sự đoạn trừ như vậy mà
từng phần một bị hủy diệt. Tức là vô minh, các hành,
thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử, ưu bi khổ não, ân ái biệt ly, oán tăng hội khổ
v.v. đều diệt. Do sự diệt trừ như vậy mà thân năm ấm
hoàn toàn bị diệt không còn nữa, duy chỉ có tánh không.
Thế nên, đức Phật vì muốn chỉ bày nghĩa không, nên Ngài nói các hành là hư dối.
Lại
nữa, vì các pháp không tự tánh nên hư vọng, vì hư vọng
nên không. Như bài tụng nói:
156)Các
pháp vì dị biệt,
Nên
biết không tự tánh.
Pháp
không tánh cũng không,
Vì
tất cả Pháp không.[2] [3]
Các
pháp không có tánh. Vì sao? Các pháp tuy sanh khởi, nhưng không
trú tự tánh, thế nên Không tánh. Như đứa hài nhi nếu quyết
định thường trú tự tánh sẽ không bao giờ trở nên đứa
bé biết bò cho đến lão niên. Nhưng đứa hài nhi theo sự
tương tục tiếp nối có xuất hiện tướng dị biệt từ
biết bò cho đến lão niên. Thế nên nói, vì thấy tướng
dị biệt của các pháp nên biết không tự tánh.
Hỏi:
Nếu các pháp do tướng dị biệt nên không có tự tánh; vậy
thì có pháp vốn vô tánh, điều ấy có lỗi gì?
Đáp:
Nếu không tự tánh làm thế nào có pháp? Làm gì có tướng.
Vì sao? Vì không cội gốc, mà chỉ do phá tánh nên nói không
có tánh. Pháp vô tánh nếu có thì không nói rằng tất cả
pháp đều không, nếu tất cả pháp đều không, làm thế nào
có pháp vô tánh?
Hỏi:
157)Các
pháp nếu vô tánh,
Làm
sao nói hài nhi.
Cho
đến lúc lão niên,
Có
rất nhiều dị biệt? [4]
Các
pháp nếu không tự tánh thì không có tướng dị biệt; mà
ông nói có tướng dị biệt nên mới có tánh của các pháp.
Nếu không có tự tánh của các pháp làm sao có tướng dị
biệt?
Đáp:
158)Nếu
các pháp có tánh,
Làm
sao có dị biệt?
Nếu
các pháp vô tánh,
Làm
sao có dị biệt? [5]
Nếu
các Pháp quyết định có tánh, làm thế nào có thể có tánh
dị biệt? tánh nghĩa là hiện hữu cố định, không thể biến
đổi. Như vàng ròng chẳng thể biến đổi. Lại như tánh
tối không thể biến đổi thành sáng, tánh sáng chẳng thể
biến thành tối.
Lại
nữa:
159)Pháp
này không dị biệt,
Pháp
khác cũng không dị.
Như
trẻ không thành gia,
Già
cũng chẳng thành trẻ. [6]
Nếu
pháp có dị biệt, tất phải có tướng dị biệt. Vậy chính
pháp ấy dị biệt, hay pháp khác dị biệt? Cả hai đều không
đúng. Nếu chính pháp ấy là dị biệt, thì sự già mới trở
thành già. Nhưng thật ra sự già không trở thành già. Nếu
pháp khác là dị biệt thì già và trẻ khác nhau mới có thể
trẻ trở thành già. Nhưng thật ra, trẻ không trở thành già.
Cả hai đều có lỗi.
Hỏi:
Nếu chính Pháp ấy là dị biệt, có lỗi gì? Như ngày nay
mắt thấy, thiếu niên trải qua bao nhiêu ngày, tháng, năm thành
già.
Đáp:
160)Nếu
chính pháp ấy dị, cộng
Sữa
phải chính là bơ.
Lìa
sữa có pháp gì,
Có
thể trở thành bơ. [7]
Nếu
chính pháp ấy là dị biệt, thì sữa lẽ ra phải là bơ, chứ
không cần nhân duyên; điều ấy không đúng. Vì sao? Về sữa
và bơ có nhiều sự sai khác nhau, nên sữa không thể chính
là bơ. Thế nên, chính pháp đó không phải là dị biệt. Nếu
cho rằng, pháp khác là dị biệt, cũng không đúng. Vì lìa
sữa chẳng có vật gì thành ra bơ. Như thế suy nghĩ chính
pháp đó không phải là dị biệt. Nếu cho rằng pháp khác
là dị biệt, cũng không đúng. Vìa lìa sữa chẳng có vật
gì thành ra bơ. Như thế suy nghĩ chính pháp đó không dị biệt,
pháp khác cũng không dị biệt. Do đó, không nên có sở chấp
phiến diện.
Hỏi:
Dù bác bỏ không phải chính cái đó hay cái khác, vẫn còn
có tánh không. Tánh không chính là pháp?
Đáp:
161)Nếu
có pháp bất không,
Thì
mới có pháp không.
Thật
không pháp bất không,
Làm
sao có pháp không? [8]
Nếu
có pháp bất không, do quan hệ nhau, có thể có pháp không.
Mà từ trước đến nay đã dùng mọi cách phá pháp bất không.
Không có pháp bất không, thì không có sự đối đãi nhau;
do không có sự đối đãi nhau, làm thế nào có pháp không?
Hỏi:
Ông nói vì pháp bất không không có nên pháp không cũng không
có. Nếu thế, đó chính là nói về không. Nhưng vì không có
sự quan hệ đối đãi, cho nên không nên có chấp trước.
Nếu có sự tương đối thì phải có quan hệ đối đãi. Nếu
không có tương đối, thì không quan hệ đối đãi. Không có
quan hệ đối đãi nên không có tướng, vì không có tướng,
nên không có chấp. Như thế chính là chủ trương có tánh
không.
Đáp:
162)Đại
thánh nói pháp không,
Vì
để lìa kiến chấp.
Nếu
lại thấy có không,
Chư
Phật khó hóa độ. [9]
Đức
Đại Thánh vì phá 62 thứ kiến chấp và các phiền não như
vô minh, tham ái v.v… nên nói tánh không. Nếu người đối
với tánh không lại phát sanh kiến chấp, người ấy không
thể hóa độ. Thí như, người có bịnh cần uống thuốc để
điều trị, nếu thuốc lại thành bịnh thì không thể điều
trị. Như lửa từ củi phát xuất, dùng nước tưới có thể
mát; nếu nó từ nước phát sanh lửa thì dùng gì để dập
tắt? Như tánh không là nước, hay hủy diệt được các lửa
phiền não. Có người tội nặng, tâm tham lam chấp trước
sâu dày, trí tuệ cạn cợt, nên đối với tánh không phát
sanh kiến chấp, hoặc nói, có tánh không, hay nói không có
tánh không. Nhơn nơi có, không trở lại sinh khởi phiền não.
Nếu dùng không mà hóa độ người này, thì họ nói rằng,
“Tôi lâu nay đã biết không ấy.” Nếu lìa không, chẳng
có đại Niết-bàn. Như kinh dạy, “Lìa ba môn không, vô tướng
và vô tác mà có thể giải thoát, ấy chỉ là nói suông.”
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Hán: vọng thủ tướng, tướng của sự chấp thủ một cách
sai lầm. Bản Phạn nói: mowa-dharma: pháp hư vọng, cũng có
nghĩa pháp bị cướp đoạt. Luận Câu-xá phẩm 1 tụng 7 nói:
“các pháp bị vô thường nuốt chững.”
[2] Quán hành là quán tưởng các hành nghiệp hư ảo vô minh. Trong
kinh đức Phật thường diễn bày, những thứ vọng tưởng
và các thứ thủ chấp mê hoặc. Và Ngài cũng chỉ bày phương
pháp các hạnh tu hành chỉ quán, để dẹp trừ các hư vọng
thủ chấp. Việc làm của đức Phật là tùy theo phương tiện,
cơ duyên, khi nói có, khi nói không. Nói có để dẹp thành
kiến chấp không; nói không để gạt bỏ quan niệm thủ hữu.
Sự thật tất cả đều vô tánh. Vô tánh nên không có cái
gì gọi là thật có thủ chấp hư vọng. Nhưng nếu lại chấp
có cái không tánh, đó cũng là rơi vào hư vọng, mê chấp.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”