LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XVIII: QUÁN PHÁP[1]
Hỏi:
Nếu các pháp đều rốt ráo tánh không, không sanh, không diệt,
đó là thật tướng của các pháp, thì làm thế nào thể nhập?
Đáp:
Hủy diệt sự đắm chấp ngã, ngã sở, chứng đắc tất cả
pháp là không; có trí tuệ vô ngã. Đó gọi là nhập.
Hỏi:
Làm thế nào biết các pháp là vô ngã?
Đáp:
225)Nếu
ngã là năm ấm,
Ngã
ấy là sanh diệt.
Nếu
ngã khác năm ấm,
Tất
không tướng năm ấm.[2] [1]
Nếu
như không có ngã,
Đâu
thể có ngã sở.
Do
diệt ngã, ngã sở,
Gọi
đắc trí vô ngã. [2]
Nếu
được trí vô ngã,
Ấy
gọi là thật quán.
Người
đắc trí vô ngã,
Người
đó là hy hữu. [3]
Trong
ngoài ngã, ngã sở,
Vì
diệt hết không còn;
Các
thọ ấy cũng diệt,
Thọ
diệt tức thân diệt. [4]
Nghiệp
diệt, phiền não diệt,
Gọi
đó là giải thoát.
Nghiệp,
phiền não không thật,
Nhập
không, hí luận diệt. [5]
Chư
Phật hoặc nói ngã;
Hay
nói là vô ngã.
Trong
thật tướng các pháp,
Không
ngã, chẳng phi ngã. [6]
Thật
tướng các pháp đó,
Tâm
hành ngôn ngữ đoạn;
Không
sanh cũng không diệt,
Tịch
diệt như Niết-bàn. [7]
Tất
cả thật, phi thật,
Vừa
thật vừa phi thật,
Không
vừa thật phi thật;
Ấy
gọi chư Phật pháp. [8]
Tự
biết không do ai,
Tịch
diệt, chẳng hí luận.
Không
khác, không phân biệt;
Đó
tất gọi thật tướng. [9]
Nếu
pháp từ duyên sanh,
Không
một, không khác nhơn;.
Thế
nên gọi thật tướng,
Không
đoạn cũng không thường. [10]
Không
nhất, cũng không dị,
Không
thường, cũng không đoạn;
Ấy
là vị cam lồ,
Giáo
hóa của Thế Tôn. [11]
Nếu
Phật không xuất thế,
Phật
pháp đã diệt tận.
Trí
các Bích-chi-Phật,
Từ
nơi xa lìa sanh. [12]
Nếu
có ai chủ trương về thần ngã, thì có hai trường hợp. Hoặc
năm ấm tức là thần ngã. Hoặc lìa năm ấm có thần ngã.
Nếu năm ấm là thần ngã, thần ngã là tướng sanh diệt,
như trong bài tụng nói, “Nếu ngã là năm ấm, ấy là tướng
sanh diệt.” Tại sao? Vì sanh rồi bại hoại. Vì là tướng
sanh diệt, năm ấm là vô thường. Như năm ấm vô thường,
hai pháp sanh diệt cũng vô thường. Vì sao? Sanh diệt cũng sanh
rồi bại hoại, nên vô thường.
Thần
ngã nếu là năm ấm; vì năm ấm vô thường, thần cũng sanh
diệt tướng vô thường. Song điều ấy không đúng. Nếu như
lìa năm ấm có thần, thần ngã chẳng có tướng năm ấm.
Như trong bài tụng nói, “Nếu thần ngã khác năm ấm thì
không phải tướng năm ấm.” Vì lìa năm ấm không có pháp
nào nữa. Nếu lìa năm ấm mà có pháp; bằng tướng gì, bằng
pháp gì mà có?
Nếu
nói rằng thần ngã như hư không, lìa năm ấm mà có, cũng
không đúng. Vì sao? Trong chương “Phá lục chủng” đã hủy
phá hư không; không có pháp gì gọi là hư không.
Nếu
nói do có Tín nên có thần ngã; điều ấy không đúng. Tại
sao? Tín có bốn thứ: 1) Việc hiện có, đáng tin. 2) Do loại
suy nên tin: như thấy khói biết có lửa. 3) Thí dụ có thể
tin: như trong nước không có đồng, dụ đồng như vàng. 4)
Các bậc Hiền Thánh nói ra đáng tin; như nói có “địa ngục,”
có “thiên đường,” có cõi “Uất-đơn-việt.” Không có
người thấy, nhưng tin lời Thánh nhân mà biết. Thần ngã
ấy không được nhận biết trong tất cả Tín. Trong việc
hiện tại cũng không; trong loại suy cũng không. Tại sao? Loại
suy là vì trước thấy, sau so sánh cùng loại mà biết. Như
người thấy trước lửa có khói, sau chỉ thấy khói biết
có lửa. Nghĩa là thần ngã không phải thế, ai có thể trước
thấy thần ngã cùng năm ấm hiệp; sau thấy năm ấm biết
có thần? Nếu nói có ba thứ loại suy: 1) Như cái gốc. 2)
Như cái còn lại.3) Là thấy chung. Như cái gốc, nghĩa là trước
thấy lửa có khói, nay thấy khói như trước biết có lửa.
Như cái còn lại, như là thổi lửa nấu cơm một hạt cơm
chín thì biết bao nhiêu hạt còn lại đều chín. Thấy chung,
như là mắt trông thấy người từ đây đi đến kia và kia
cũng thấy sự đi của nó. Mặt trời cũng như thế, từ phương
đông xuất hiện đến phương tây, tuy không thấy nó đi nhưng
vì tính cách đi của con người nên biết mặt trời cũng có
đi. Cũng thế, khổ, vui, yêu, ghét, giác, tri v.v… cũng phải
có chỗ tựa. Như thấy nhân dân trong nước, biết họ tất
tựa nơi vua. Điều ấy đều không đúng. Vì sao? Trong sự
đi do tướng chung. Trước thấy người cùng sự đi phối hiệp
mà đến phương khác; sau thấy mặt trời đến phương khác
nên biết có sự đi. Nhưng không có trước thấy năm ấm cùng
thần ngã hiệp, để sau thấy năm ấm biết có thần ngã.
Thế nên trong loại suy bằng tướng chung cũng không thần ngã.
Trong lời Thánh nhân nói cũng không thần ngã. Vì sao? Thánh
nhơn nói ra là trước mắt thấy rồi sau nối. Lại các bậc
Thánh nhân nói những điều khác đều đáng tin. Nên biết
nói địa ngục v.v.. cũng đáng tin. Nhưng thần ngã không phải
thế, không có trường hợp trước thấy thần rồi sau nói.
Thế nên trong bốn điều tin, toàn thần ngã không thể được.
Vì tìm thần ngã chẳng thể nên không. Thế nên ngoài năm
ấm không riêng có thần ngã.
Lại
nữa, trong chương “Phá lục căn,” phá cái thấy, người
thấy, cái bị thấy, thần ngã cũng đồng phá. Lại như mắt
nhìn thấy những pháp thô còn không thể nắm bắt được,
huống là ức tưởng v..v… hư dối mà có thần ngã. Thế
nên biết không có ngã.
Nhơn
có ngã nên có ngã sở. Nếu không ngã, không có ngã sở. Tu
tập tám phần thánh đạo là nhơn duyên hủy diệt ngã và
ngã sở, được trí tuệ quyết định về vô ngã, vô ngã
sở. Lại vô ngã, vô ngã sở đối trong đệ nhất nghĩa cũng
không thể nắm bắt được. Người đắc vô ngã, vô ngã sở
có thể nhận thấy các pháp một cách chân thật. Người phàm
phu do ngã và ngã sở ngăn che tuệ nhãn, không thể thấy sự
thật. Nay thánh nhơn vì vô ngã, vô ngã sở nên các phiền
não tiêu diệt. Các phiền não diệt hết, cho nên có thể thấy
tướng thật các pháp. Vì trong, ngoài, ngã, ngã sở hủy diệt
nên các thọ cũng diệt. Vì các thọ diệt, vô lượng thân
sau đều diệt, đó gọi là Vô dư Niết-bàn.
Hỏi:
Hữu dư Niết-bàn như thế nào?
Đáp:
Vì những phiền não và nghiệp hủy diệt nên gọi là tâm
được giải thoát. Các phiền não, nghiệp đều từ ức tưởng
phân biệt, đều từ hí luận phát sanh. Chứng đắc thật
tướng của các pháp rốt ráo không; những hí luận hủy diệt,
thì gọi là Hữu dư Niết-bàn. Thật tướng các pháp là như
thế. Chư Phật dùng Nhất thế trí quán các loài chúng sanh,
tùy nghi giảng thuyết; có lúc nói có ngã, cũng có khi nói
vô ngã. Nếu người tâm chưa thuần thục, chưa có phần Niết-bàn,
chẳng biết sợ tội lỗi; vì những người ấy nói có ngã.
Nếu có người đắc đạo, nhận biết các pháp là không,
chỉ giả danh có ngã; vì những người đó nói hữu ngã cũng
không lỗi. Lại, có người bố thí, trì giới, phúc đức
v.v.. Chán lìa khổ não sanh tử, sợ Niết-bàn là vĩnh viễn
tịch diệt, thế nên đức Phật vì những người ấy nói
vô ngã. Các pháp chỉ là nhân duyên hòa hiệp; khi sanh, chỉ
là cái không sanh; lúc diệt chỉ là cái không diệt. Thế nên
nói vô ngã; chỉ giả danh nói có ngã. Lại, vì người đắc
đạo biết vô ngã, không rơi vào đoạn diệt, nói vô ngã
không lỗi. Thế nên, trong bài tụng nói, “Chư Phật nói có
ngã, cũng có lúc vô ngã. Nếu trong nghĩa chân thật, không
nói ngã hay phi ngã.”
Hỏi:
Nếu vô ngã là thật, chỉ vì thế tục nói có ngã có lỗi
gì?
Đáp:
Nhơn phá hủy pháp ngã nên có vô ngã. Ngã quyết định không
thế được, huống là vô ngã. Nếu quyết định có vô ngã,
tất là đoạn diệt; sẽ sanh sự tham đắm. Như trong kinh Bát-nhã
nói, “Những vị Bồ-tát có ngã cũng chẳng phải là hành
Bát-nhã; vô ngã cũng chẳng phải hành (Bát-nhã).”
Hỏi:
Nếu không nói ngã, phi ngã, không, bất không, thì trong Phật
Pháp nói cái gì?
Đáp:
Đức Phật nói về thật tướng các pháp. Trong thật tướng
không đường ngôn ngữ, diệt các tâm hành. Tâm do duyên sự
chấp thủ tướng mà sanh, vì nghiệp quả báo bao đời trước
nên có, không thể thấy thật các pháp, thế nên nói tâm hành
diệt.
Hỏi:
Nếu tâm của các phàm phu không thể thấy chân thật, nhưng
tâm thánh nhân lẽ ra thấy chân thật. Tại sao? Vì tất cả
tâm hành đều diệt.
Đáp:
Thật tướng các pháp tức là Niết-bàn; Niết-bàn gọi là
diệt. Diệt là hướng về Niết-bàn nên cũng gọi diệt. Nếu
tâm ấy thật, cần gì ba giải thoát môn, Không, vô tướng,
vô nguyện; và trong các thiền định tại sao lấy Diệt tận
định làm bậc nhất? Lại, cũng chung qui về Vô dư Niết-bàn.
Thế nên phải biết, tất cả tâm hành đều hư vọng. Vì
hư vọng nên phải hủy diệt. Thật tướng các pháp vượt
ra các tâm sở pháp, không sanh, không diệt, tướng tịch diệt
như Niết-bàn.
Hỏi:
Trong kinh nói: “Các pháp từ trước đến giờ tướng là
tịch diệt”; đấy chính là Niết-bàn; sao lại nói như Niết-bàn?
Đáp:
Bời vì người chấp trước các pháp, phân biệt pháp có hai
thứ, đây là thế gian, kia là Niết-bàn. Nói Niết-bàn là
tịch diệt, không nói thế gian tịch diệt. Trong luận đây
nói, tất cả pháp là tánh không, là tướng tịch diệt. Vì
người chấp pháp, không hiểu rõ, nên lấy Niết-bàn làm tỉ
dụ. Như ông nói, tướng Niết-bàn là không, vô tướng, tịch
diệt, không hí luận. Tất cả pháp thế gian cũng như thế.
Hỏi:
Nếu đức Phật không nói ngã, và phi ngã, các tâm hành diệt,
đường ngôn ngữ chấm dứt; làm thế nào mọi người biết
thật tướng các pháp?
Đáp:
Chư Phật có vô lượng sức phương tiện. Đối các pháp không
có tướng quyết định, vì độ chúng sanh mà hoặc nói, tất
cả là thật; hoặc nói tất cả không thật; hoặc nói tất
cả vừa thật vừa không thật; hay nói tất cả không phải
vừa thật vừa không thật.
Tất
cả thật, là do xét kỹ thật tánh các pháp, thấy đều nhập
vào đệ nhất nghĩa; bình đẳng, nhất tướng, tức là vô
tướng. Như các dòng sông, tuy màu sắc khác, vị khác, nhưng
khi vào biển cả chỉ có một màu, một vị.
Tất
cả không thật, là khi các pháp chưa nhập thật tướng, mỗi
mỗi phân biệt quán sát đều không có thật, chỉ do các duyên
hòa hợp nên có.
Tất
cả vừa thật vừa không thật là chúng sanh có ba hạng, thượng
căn, trung căn và hạ căn. Hàng thượng căn, quán tướng các
pháp, chẳng thật, chẳng phải không thật. Hàng trung căn quán
tướng các pháp, tất cả thật hoặc tất cả không thật.
Hàng hạ căn vì trí lực cạn cợt, quán tướng các pháp,một
ít thật và một ít không thật. Quán Niết-bàn là pháp vô
vi không hoại diệt nên thật; quán sát sanh tử là pháp hữu
vi hư ngụy nên không thật.
Không
vừa thật, vừa không thật, là vì phá hủy cái vừa thật,
vừa không thật nên nói không vừa thật, vừa không thật.
Hỏi:
Đức Phật ở chỗ khác nói: “Lìa phi hữu, phi vô.” Trong
đây sao lại nói “phi hữu, phi vô” bảo đó là lời Phật
dạy?
Đáp:
Những chỗ khác là vì phá bốn sự tham đắm nên nói. Nhưng
trong đây đối với bốn cú không hí luận, nghe Phật dạy
thì đắc đạo; thế nên nói, không thật chẳng phải không
thật.
Hỏi:
Biết rằng Phật nói bằng nhơn duyên tứ cú; nhưng do tướng
nào để có thể biết sự chứng đắc thật tướng của các
pháp, và thật tứơng là gì?
Đáp:
Nếu có thể không do ai khác là. Không do ai khác ấy là, hoặc
ngoại đạo dùng sức thần thông hiển bày nói thế này là
đạo, thế kia chẳng phải đạọ; nhưng tự tin ở tâm mình
chứ không theo kẻ đó. Cho đến biến hóa thân, tuy không[3]
biết chẳng phải là Phật, nhưng khéo rõ thật tướng, tâm
không bị chuyển theo họ. Trong đấy không có pháp đáng thủ,
đáng xả, gọi là tướng tịch diệt. Vì tướng tịch diệt,
không bị hí luận bởi sự hí luận. Hí luận có hai thứ:
1) ái luận. 2) kiến luận. Trong đây không có hai thứ hí luận
này. Vì không có hai thứ hí luận thì không có ức tưởng
phân biệt, không có tướng dị biệt; ấy gọi là thật tướng.
Hỏi:
Nếu các pháp đều không, há không rơi vào đoạn diệt ư?
Lại, không sanh không diệt, hoặc sẽ rơi vào thường chang?
Đáp:
Không đúng. Trước nói thật tướng là không hí luận; tâm
tướng tịch diệt, đường ngôn ngữ chấm dứt. Nay ông tham
đắm chấp tướng, đối trong pháp chân thật mà phạm sai
lầm của kiến chấp đoạn, thường. Người chứng đắc thật
tướng, nói các pháp từ các duyên sanh, chẳng phải đồng
nhất với nhơn cũng không phải là khác với nhơn, thế nên
không đoạn, không thường. Nếu quả khác với nhân tức là
đoạn, nếu quả không khác nhân ấy là thường.
Hỏi:
Nếu hiểu rõ như thế có lợi ích gì?
Đáp:
Nếu người hành đạo, mà có thể thấu suốt ý nghĩa như
thế, thì đối tất cả pháp, không phải một, chẳng phải
khác, không phải đoạn, chẳng phải thường. Nếu có thể
như thế, liền hủy diệt các phiền não hí luận, được
thường lạc Niết-bàn. Thế nên nói, chư Phật dùng vị cam
lồ để giáo hóa. Như người thế gian nói, “Được nước
cam lồ của chư thiên thì không có già, bịnh, chết và chẳng
có các suy não. Pháp thật tướng này giống như vị cam lồ”.
Phật
dạy thật tướng có ba thứ. Nếu chứng đắc thật tướng
các pháp, diệt các phiền não gọi là pháp Thanh văn. Nếu
sanh lòng đại từ bi, phát tâm vô thượng, gọi là Đại thừa.
Nếu Phật không xuất thế, lúc không có Phật pháp, hàng Bích-chi
Phật nhơn sống viễn ly mà phát sanh trí tuệ. Hoặc Phật
độ chúng sanh rồi nhập vô dư Niết-bàn, Pháp Phật lưu truyền
bị diệt hết. Nếu có người đời trước lý đáng đắc
đạo, chỉ do nhơn duyên có thiếu phần quán yểm ly, nay một
mình vào sơn lâm, xa lìa ồn náo đắc đạo, gọi là Bích-chi
Phật.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Tiêu đề chương trong bản Phạn: Àtma-parìkwà, khảo sát về
tự ngã, hay phẩm Quán ngã.
[2] Quán pháp là quán sát ngã pháp do đâu mà có . Thân ta là do
5 ấm hòa hiệp hình thành, nên nó không thật có. Ngã và vật
sở hữu của ngã cũng là giả hữu. Nhận thức như thế thì
không bị đắm nhiễm ngã, pháp và có trí vô ngại. Đức
Thế Tôn nói thật tướng chơn Như, không phải thường, đoạn,
một và khác. Chơn lý Phật như nước cam lồ làm tươi mát
muôn vật sống động an vui, không từ bỏ một chúng sanh nào.
Nhận thức các pháp vô thường vô ngã v.v.. theo kinh Phật
nói có ba hạnh: 1) Hàng Thanh Văn, là do thính pháp văn Kinh
từ pháp âm Phật mà giác ngộ. 2) Bồ tát, là những vị thực
hành Bồ tát hạnh phá đại nguyện độ sanh mà chứng quả.
3) hàng Bích Chi Phật (Duyên Giác) là do tự quán tưởng các
pháp từ nhân duyên sanh mà phát sanh, dù có Phật tại thế
hay không, các vị Bích Chi Phật vẫn chứng quả, do tự mình
quán tưởng, không đắm nhiễm các pháp mà được chứng đắc
đạo quả.
[3]
Bất tri phi Phật: trong các bản chú giải, chữ bất này bị
bỏ.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”