LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XX: QUÁN NHƠN QUẢ[1]
Hỏi:
Các nhơn duyên hòa hiệp, hiện có quả phát sanh; do đó biết
rằng quả từ chúng duyên hòa hiệp mà có.
Đáp:
Nếu
các duyên hoà hiệp,,
Mà
có quả sanh ấy.
Trong
hòa hiệp đã có,
Đâu
cần hòa hiệp sanh.[2] [1]
Nếu
nói các nhơn duyên hòa hiệp có quả phát sanh; quả ấy tất
trong hòa hiệp đã có, rồi từ hòa hiệp sanh; điều ấy không
đúng. Vì sao? Quả, nếu trước có định thể, không thể
từ hòa hiệp sanh.
Hỏi:
Trong các duyên hòa hiệp, tuy không có quả; mà quả từ các
duyên sanh thì có lỗi gì?
Đáp:
Nếu
các duyên hòa hiệp,
Trong
ấy không có quả.
Làm
sao từ các duyên,
Hòa
hiệp mà sanh quả? [2]
Nếu
từ các duyên hòa hiệp phát sanh quả, mà trong hòa hiệp không
quả nhưng từ hòa hiệp phát sanh, cũng không đúng. Vì sao?
Nếu vật không tự tánh, vật ấy không bao giờ sanh.
Lại
nữa:
Nếu
các duyên hòa hiệp,
Trong
ấy mà có quả.
Trong
hòa hiệp nên có.
Nhưng
thật không thể được. [3]
Nếu
từ các duyên hòa hiệp, trong ấy có quả; nếu là màu sắc,
lẽ ra mắt có thể thấy; hoặc là phi sắc thì ý có thể
biết. Nhưng thật trong hòa hiệp không tìm thấy có quả; cho
nên nói: “Trong hòa hiệp có quả” điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Nếu
các duyên hòa hiệp,
Trong
đó không có quả.
Vậy
nó từ các duyên,
Cùng
phi duyên giống nhau. [4]
Nếu
trong sự hòa hiệp của các duyên không có quả thì nhơn duyên
hay phi nhơn duyên đều như nhau. Như sữa là nhơn duyên của
bơ. Nếu trong sữa không có bơ, mà trong nước cũng không có
bơ. Nếu trong sữa không có bơ thì cũng giống như nước,
không nên nói chỉ từ sữa mới sanh bơ. Thế nên, trong sự
hòa hiệp của các duyên không có quả, ấy thế không đúng.
Hỏi:
Cái nhơn, sau khi làm nhân cho quả rồi thì diệt, mà có nhân
quả phát sanh, như thế không lỗi.
Đáp:
Nhân
làm nhân cho quả,
Làm
nhân rồi thì diệt.
Nhân
ấy có hai thể,
Một
cho và một diệt. [5]
Nếu
nhân sau khi làm nhân cho quả rồi diệt; nhân ấy tất có hai
thể; một, nhân cho; hai, nhân diệt. Ấy không đúng. Vì trong
một pháp có hai thể. Thế nên nhân sau khi làm nhân cho quả
rồi hủy diệt; điều ấy không đúng.
Hỏi:
Nếu nói nhân không làm nhân cho quả rồi hủy diệt mà cũng
có sanh quả, có lỗi gì?
Đáp:
Nếu
nhân không cho quả,
Làm
nhân rồi mà diệt.
Nhân
diệt rồi sanh quả,
Quả
ấy tất không nhân. [6]
Nếu
nhân không làm nhân cho quả xong, rồi hủy diệt; nhân diệt
rồi, phát sanh quả, thì quả đó không nhân. Ấy không đúng.
Vì sao? Hiện thấy tất cả quả chẳng có cái nào không nhân.
Thế nên, ông nói nhân không làm nhân cho quả xong rồi hủy
diệt, cũng có sanh ra quả; điều ấy không đúng.
Hỏi:
Khi các duyên hiệp có quả phát sanh, có lỗi gì?
Đáp:
Các
duyên khi hòa hiệp,
Rồi
có quả sanh ấy.
Năng
sanh và sở sanh,
Là
một thời cùng có. [7]
Nếu
lúc các duyên hòa hiệp có quả sanh thì cái sanh và cái được
sanh một thời đồng có; nhưng điều ấy không đúng. Vì sao?
Như cha và con không thể sanh một lúc; thế nên ông nói khi
các duyên hiệp nhất sanh quả không đúng.
Hỏi:
Nếu trước có quả sanh, sau chúng duyên hòa hiệp, có lỗi
gì?
Đáp:
Nếu
trước có quả sanh,
Rồi
sau các duyên hiệp.
Tức
lìa ngoài nhân duyên,
Gọi
là quả không nhân. [8]
Nếu
các duyên chưa hiệp mà trước có quả sanh; điều ấy không
đúng. Vì quả đó lìa nhân duyên tất gọi quả không có nhân.
Thế nên ông nói khi các duyên chưa hiệp, trước có quả sanh,
điều ấy giải quyết không thể.
Hỏi:
Nhân hủy diệt, biến làm quả có lỗi gì?
Đáp:
Nếu
nhân biến làm quả,
Nhân
tất đi đến quả.
Thì
nhân ấy sanh trước,
Sanh
rồi mà lại sanh. [9]
Nhân
có hai thứ: 1. Sanh trước. 2. Cùng sanh. Nếu nhân diệt biến
làm quả; quả, thì nhân sanh trước, rồi trở lại sanh nữa.
Điều ấy không đúng. Tại sao? Vật đã sanh không nên sanh
nữa. Nếu nói nhân ấy tức biến làm quả cũng không đúng.
Vì sao? Nếu tức là (cái ấy ấy) không gọi là biến; nếu
biến thì không gọi tức là.
Hỏi:
Nhơn không diệt hết, chỉ danh tự diệt, mà thể của nhân
biến làm quả. Như đất sét biến làm chiếc bình, mất tên
đất sét có tên bình.
Đáp:
Đất sét trước diệt mà có bình, không gọi là biến. Lại
thể của đất sét không những làm bình mà có thể làm bồn,
ghè, hũ v.v…; đều từ đất sét phát sanh. Nếu đất sét
chỉ có tên, không thể biến làm bình. Biến, là như sữa
biến thành bơ; thế nên ông nói, tên nhân tuy diệt, nhưng
nhân biến làm quả; ấy không đúng.
Hỏi:
Nhân tuy diệt mất mà hay sanh quả; thế nên có quả, không
có những lỗi như thế.
Đáp:
Làm
sao nhân diệt mất,
Mà
hay sanh ra quả?
Lại,
nếu nhân có quả,
Làm
sao nhân sanh quả? [10]
Nếu
nhân diệt mất rồi, làm thế nào có thể phát hiện quả?
hoặc nhân không diệt mà cùng quả hiệp, làm sao có thể sanh
quả nữa?
Hỏi:
Nhân ấy biến có quả mà sanh quả.
Đáp:
Nếu
nhân biến có quả,
Sanh
ra quả gì nữa.
Thấy
nhân không thấy quả,
Cả
hai đều không sanh. [11]
Nhân
nếu không thấy quả, còn không thể sanh quả, huống là thấy.
Nếu nhân tự nó không thấy quả, không thể sanh quả. Vì
sao? Nếu không thấy quả, quả tất không tùy theo nhân. Lại,
chưa có quả làm thế nào sanh quả? Nếu, nhân trước thấy
quả, không nên sanh quả nữa; vì đã có.
Lại
nữa:
Nếu
trong nhân quá khứ,
Mà
có quả quá khứ;
Quả
vị lai, hiện tại,
Chúng
không bao giờ hiệp. [12]
Nếu
nhân trong vị lai
Mà
có quả vị lai;
Quả
hiện tại, quá khứ,
Chúng
không bao giờ hiệp. [13]
Nếu
nhân trong hiện tại
Mà
có quả hiện tại;
Quả
quá khứ,vị lai
Chúng
không bao giờ hiệp. [14]
Quả
quá khứ, không cùng với nhân hiện tại, vị lai, quá khứ
hòa hiệp. Quả vị lai không cùng với nhân vị lai, hiện tại,
quá khứ hòa hiệp. Quả hiện tại không cùng với nhân hiện
tại, vị lai và quá khứ hòa hiệp. Như thế, ba thứ quả
đều không cùng nhân quá khứ, vị lai và hiện tại hòa hiệp.
Lại
nữa:
Nếu
không hòa hiệp ấy,
Nhân
làm sao sanh quả?
Nếu
có hòa hiệp ấy,
Nhân
làm sao sanh quả? [15]
Nếu
nhân quả không hòa hiệp thì không có quả. Nếu không quả,
làm thế nào nhân phát sanh quả? Nếu nói nhân quả hòa hiệp
thì nhân có thể sanh quả. Ấy cũng không đúng. Vì sao? Nếu
quả ở trong nhân; thì trong nhân đã có quả, cần gì phát
sanh nữa.
Lại
nữa:
Nếu
nhân không, không quả,
Nhân
làm sao sanh quả?
Nhân
chẳng không, có quả,
Nhân
làm sao sanh quả? [16]
Nếu
nhân không có quả, và vì không có quả, nên nhân là không,
làm sao nhân có thể phát sanh quả? Như người không mang thai
làm thế nào sanh con? Nếu nhân, trước có quả, vì đã có
quả, không thể sanh nữa.
Lại
nữa: Nay sẽ nói quả.
Quả
chẳng không chẳng sanh;
Quả
chẳng không chẳng diệt.
Bởi
vì quả chẳng không,
Không
sanh cũng không diệt. [17]
Quả
không nên chẳng sanh,
Quả
không nên chẳng diệt.
Vì
quả ấy là không,
Không
sanh cũng không diệt. [18]
Quả
nếu là bất không, chẳng thể sanh, không thể diệt. Vì sao?
Nếu trong nhân, trước quyết định có quả; quả không thể
sanh nữa. Vì không sanh nên không diệt. Thế nên, do quả là
bất không nên không sanh, không diệt. Nếu nói quả là không
nên có sanh diệt. Ấy cũng không đúng. Tại sao? Quả nếu
là không; không gọi là “không có gì”; làm thế nào có
sanh có diệt? Thế nên, nói quả mà là không, nên không sanh,
không diệt.
Lại
nữa, nay dùng một và khác để phá nhân quả.
Nhân
quả là nhất thể,
Điều
này tất không đúng.
Nhân
quả là dị thể,
Điều
này cũng không đúng. [19]
Nếu
nhân quả nhất thể,
Năng
sanh sở sanh một,
Nếu
nhân quả dị thể,
Nhân
tất đồng phi nhân. [20]
Quả
quyết định có tánh,
Nhân
sẽ sinh cái gì?
Quả
quyết định không tánh,
Nhân
sẽ sinh cái gì? [21]
Nếu
nhơn không sanh quả,
Thì
không có tướng nhân.
Nếu
chẳng có tướng nhân,
Cái
gì có quả ấy. [22]
Nếu
do các nhân duyên,
Mà
có pháp hòa hiệp.
Hòa
hiệp không tự sanh,
Làm
thế nào sanh quả? [23]
Thế
nên quả không từ,
Duyên
hiệp chẳng hiệp sanh.
Nếu
quả mà không có,
Thì
pháp hiệp ở đâu? [24]
Pháp
do các duyên hòa hiệp, không thể sanh ra tự thể. Vì tự thể
không có, làm thế nào sanh ra quả? Thế nên, quả không từ
các duyên hòa hiệp sanh, cũng không từ cái không hòa hiệp
phát sanh. Nếu không có quả thì pháp hòa hiệp sẽ hiện hữu
chỗ nào?
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Tiêu đề theo bản Phạn hiện tại: sàmagrì-parìkwà, quán
hòa hiệp. Danh từ hòa hiệp này có thể tìm thấy trong các
trường hợp sau: “Ngọn đèn là nhân của ánh sáng, hay là
do sự hòa hiệp của các nhân sanh trước mà ngọn đèn vá
ánh sáng cùng sanh khởi?” Câu xá 6 (Phân biệt căn, túng 51).
Ý niệm nhân quả ở đây không phải là từ nhân sanh quả;
mà là từ sự hòa hiệp hay hòa điệu của nhiều yếu tố
và điều kiện để phát sinh ra kết quả. Đối tượng chính
của chướng này, không phải là khảo sát quan hệ nhân quả,
mà chính là quan hệ phối hợp để tác thành luật nhân quả.
TS
[2] Quán nhân quả biện luận cũng giống như chương quán nhân
duyên, tìm hiểu nhân và quả hòa hiệp nảy nở kết quả
như thế nào. Nhân có trước hay quả có trước, nhân ở trong
quả hay quả có sẵn trong nhân, nhân và quả là một thứ
hay không phải, đồng thể hay khác tánh… Nếu quan niệm rằng
nhân sanh ra quả, thử hỏi rằng nhân và quả khác nhau hay
không khác nhau? Nếu nhân khác với quả, thì nhân ấy không
sinh ra quả được. Như hạt đậu không thể sanh cây bắp.
Còn nhân quả không khác nhau, không khác tức là nhân và quả
là một. Là một thì không cần phân biệt đây là nhân kia
là quả hay nói nhân sanh quả. Nếu nói rằng nhân quả khác
nhau, khác nhau mà có sanh quả, thì quả ấy giống như phi nhân,
không nhân mà có quả. Cái lỗi không phải là có hay không,
mà chính nguyên nhân cố chấp quyết định có không, nên thành
có lỗi.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”