LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XXI: QUÁN THÀNH, HOẠI[1]
Hỏi:
Tất cả sự kiện thế gian, chính có hiện tướng hoại diệt,
thế nên có hoại.
Đáp:
Lìa
thành và cọng thành,
Trong
ấy không có hoại.[2]
Lìa
hoại và cọng hoại,
Trong
đó cũng không thành.[3] [1]
Hoặc
có thành hay không có thành, vẫn không hoại. Hoặc có hoại
hay không hoại, đều không có thành. Vì sao?
Nếu
lìa thành ấy ra,
Làm
thế nào có hoại?
Như
lìa sanh có tử,
Điều
ấy tất không đúng. [2]
Thành,
hoại cùng có chung,
làm
sao có thành hoại?
Như
thế gian sanh tử,
Đồng
thời thì không đúng. [3]
Nếu
lìa hoại ấy ra,
Làm
thế nào có thành?
Không
bao giờ vô thường,
Không
ở nơi các pháp. [4]
Nếu
lìa thành, hoại không có thể có. Vì sao? Nếu lìa thành mà
có hoại thì không nhân nơi thành mà có hoại, hoại ấy tất
không nhân. Lại nữa, không có pháp thành mà có thể hoại.
Thành, là các duyên phối hiệp. Hoại, là chúng duyên ly tán.
Nếu lìa thành mà có hoại; không có tựu thành, cái gì hoại
diệt? Như không có cái bình, chẳng được nói chiếc bình
hủy hoại. Thế nên là thành không có hoại. Nếu nói cùng
với thành mà có hoại, cũng không đúng. Vì sao? Sự vật trước
tựu thành riêng sau mới có hiệp. Pháp hiệp không thể không
có tính cách dị biệt. Nếu hoại mà không có tính cách dị
biệt thì hoại ấy không nhân. Thế nên, cùng với thành cũng
không hoại. Nói rằng lìa hoại hay cùng với hoại không có
thành, nghĩa là nếu lìa hoại có thành tất thành đó thường;
thường là tướng không hoại diệt. Nhưng sự thật chẳng
thấy có pháp thường hằng tướng hoại diệt, thế nên lìa
hoại không có thành. Nếu nói rằng cùng với hoại mà có
thành cũng không đúng. Vì sao? Thành và hoại nó trái nhau,
làm thế nào trong một lúc có cả thành và hoại. Như người
không thể cùng một lúc vừa có tóc vừa không tóc; thành
hoại cũng vậy. Thế nên, cùng với hoại mà có thành, điều
ấy không đúng. Vì sao? Nếu bảo phân biệt pháp, nói trong
thành thường có hoại, điều ấy không đúng. Vì sao? Nếu
trong thành thường có hoại thì không thể có pháp đình trú.
Nhưng thật có pháp trú. Thế nên lìa hoại hay cùng hoại không
thể có thành.
Lại
nữa:
Thành
hoại chung, không thành;
lìa
cũng không có thành.
Hai
cái đều không thể,
Làm
thế nào có thành? [5]
Nếu
thành hoại chung, không có thành. Lìa cũng chẳng có thành.
Nếu chung thành thì hai pháp trái nhau, làm thế nào đồng thời
có? Nếu lìa thì không có nhơn, cả hai đều không tựu thành,
làm sao sẽ có thành? Nếu có thì hãy nói thử.
Hỏi:
Hiện có pháp có tướng tận diệt. Pháp vốn là tướng diệt
tận ấy. Nói là tận cũng nói là bất tận. Như thế, tất
có thành hoại.
Đáp:
Tận
thì không có thành;
Không
tận cũng chẳng thành.
Tận
thì không có hoại;
Không
tận cũng chẳng hoại. [6]
Các
pháp trong ngày đêm mỗi niệm mỗi niệm thường diệt tận
quá khứ; như dòng nước chảy mãi không ngừng nên gọi là
tận diệt. Cái ấy không thể chấp thủ, không thể nói. Như
bóng ngựa đồng[4] không thể tìm thấy tánh quyết định.
Cũng thế, diệt tận không có tánh quyết định để có thể
nắm được; làm thế nào có thể phán biệt mà nói thành?
Thế nên, nói tận cũng không thành. Vì thành không, nên cũng
chẳng có hoại. Thế nên nói tận cũng không có hoại. Lại,
niệm niệm sanh diệt tương tục không dứt, nên gọi bất
tận. Như thế pháp quyết định thường trụ không đọan;
làm sao phân biệt được rằng hiện nay là thành? Thế nên
nói không có diệt tận cũng không thành. Vì thành không, nên
không hoại. Thế nên nói bất tận cũng không hoại. Như thế,
tìm xét kỹ sự thật không thể được, nên không thành không
hoại.
Hỏi:
Hãy gác lại việc thành hoại đi, chỉ cho hiện nay có pháp
có, có lỗi gì?
Đáp:
Nếu
lìa thành hoại ra,
Thì
không có pháp có.
Nếu
lìa các pháp ra,
Cũng
không có thành hoại.[5] [7]
Lìa
thành và hoại, không có pháp. Nghĩa là nếu pháp không có
thành, hoại; pháp ấy phải hoặc là không, hoặc là thường.
Nhưng thế gian này không có pháp nào thường. Ông nói lìa
thành hoại có pháp, điều ấy không đúng.
Hỏi:
Nếu lìa pháp chỉ có thành hoại, có lỗi gì?
Đáp:
Lìa pháp, có thành hoại cũng không đúng. Vì sao? Nếu lìa
pháp, cái gì thành, cái nào hoại? Thế nên, lìa pháp có thành,
hoại, điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Nếu
pháp tánh là không,
cái
gì có thành, hoại.
Pháp
tánh nếu bất không,
Cũng
chẳng có thành hoại. [8]
Nếu
pháp tánh là không; không, thì nào có thành hoại. Nếu các
pháp tánh bất không; bất không tức là quyết định có, cũng
không thể có thành hoại.
Lại
nữa:
Thành
hoại nếu nhất thể,
Điều
ấy thì không đúng.
Thành
hoại nếu dị thể,
Điều
ấy cũng không đúng. [9]
Tìm
xét kỹ thành, hoại là một không thể được. Tại sao? Bởi
tướng khác, vì nhiều khía cạnh phân biệt. Lại thành và
hoại là khác, cũng không thể. Tại sao? Vì không có riêng
khác, và cũng không có nhân.
Lại
nữa:
Nếu
nói cho mắt thấy,
Có
những pháp sanh diệt.
Thì
đó do vọng si,
Nên
thấy có sanh diệt. [10]
Nếu
nói do mắt nhìn thấy có sanh diệt, vì sao dùng ngôn ngữ để
phá? Điều ấy không đúng. Tại sao? Mắt thấy sanh diệt là
vì kẻ ngu si điên đảo. Thấy các pháp tánh không, không có
quyết định, như huyễn như mộng. Chỉ những kẻ phàm phu
bởi nhơn duyên điên đảo đời trước mà có được con mắt
này; vì đời này do nhơn duyên nhớ nghĩ phân biệt, nói mắt
thấy sanh diệt. Trong đệ nhất nghĩa thật không có sanh diệt;
điều ấy đã nói rộng trong chương phá tướng[6].
Lại
nữa:
Từ
pháp không sanh pháp[7],
Cũng
không sanh phi pháp.
Từ
phi pháp không sanh,
Pháp
và cả phi pháp. [11]
Từ
pháp không sanh pháp là, hoặc “đến” (đến: từ cái này
sanh cái kia); hoặc “mất” (hoại mất cái này thành cái
kia) cả hai đều không đúng.
Từ
pháp sanh pháp là, hoặc đến, hoặc mất đều là vô nhân.
Vô nhân thì rơi vào thường kiến, đoạn kiến. Nếu đã đến,
từ pháp sanh pháp; pháp ấy đã đến mà gọi là sanh, tức
là thường. Lại, sanh rồi sanh nữa và cũng là vô nhân mà
phát sanh; điều ấy không đúng. Nếu do mắt mà từ pháp sanh
pháp tức là mất nhân, sanh ấy vô nhân. Thế là từ cái đã
mất cũng không sanh pháp.
Từ
pháp không sanh phi pháp; phi pháp[8] là không có gì cả. Pháp
là có, làm thế nào từ tướng có phát sanh tướng không?
Thế nên, từ pháp không sanh phi pháp.
Từ
phi pháp không sanh pháp; phi pháp là không. Không làm thế nào
sanh có? Nếu từ không phát hiện có, tức là vô nhân. Không
nhân có lỗi rất lớn. Thế nên, không từ phi pháp sanh pháp.
Không
từ phi pháp sanh phi pháp; phi pháp gọi là không, làm thế nào
từ không có mà sanh không? Như sừng con thỏ không sanh lông
rùa. Thế nên không từ phi pháp sanh phi pháp.
Hỏi:
Pháp và phi pháp, được phân biết dưới nhiều hình thức
nên không sanh. Nhưng theo lẽ, pháp sanh pháp.
Đáp:
Pháp
không từ tự sanh,
Cũng
không từ tha sanh.
Không
từ tự, tha sanh,
Làm
thế nào có sanh. [12]
Sự
vật lúc chưa phát sanh là không có gì cả. Vả lại, tự nó
không sanh nó. Thế nên pháp không tự sanh. Nếu pháp chưa sanh
thì cũng không có cái khác. Vì cái khác không có, chẳng được
nói từ cái khác sanh. Lại, chưa sanh thì không có tự. Không
tự đâu có tha? Cộng[9] cũng không sanh. Nếu trong cả ba trường
hợp đều không sanh; làm thế nào có từ pháp sanh pháp?
Lại
nữa:
Nếu
có pháp chấp nhận[10],
Tức
rơi vào đoạn thường.
Phải
biết pháp chấp nhận,
Hoặc
thường hoặc vô thường. [13]
Pháp
chấp nhận, nghĩa là phân biệt thiện, bất thiện, thường,
vô thường v.v.. Người ấy, tất rơi vào hoặc thường kiến
hay đoạn kiến. Tại sao? Pháp được chấp nhận có hai thứ,
hoặc thường hoặc vô thường. Cả hai đều không đúng. Vì
sao? Nếu thường tức rơi bên thường kiến, nếu vô thường
là rơi bên đoạn kiến.
Hỏi:
Những
gì được chấp nhận,
Không
rơi vào đoạn thường.
Vì
nhân quả tương tục,
Không
đoạn cũng không thường. [14]
Có
người tuy tín thọ phân biệt nói các pháp, nhưng không rơi
vào đoạn thường. Như kinh nói, năm ấm là vô thường, khổ,
không, vô ngã mà không đoạn diệt. Tuy nói tội phúc vô lượng
kiếp số không mất, nhưng không phải thường kiến. Tại
sao? Vì pháp ấy, do nhân quả, thường sanh diệt tương tục,
qua lại không chấm dứt. Bởi sanh diệt nên không thường.
Vì tương tục nên không đoạn.
Đáp:
Nếu
nhân quả sanh diệt,
Tương
tục mà không đoạn.
Diệt
rồi không sanh nữa,
Nên
nhơn tức đoạn diệt. [15]
Nếu
ông nói các pháp do nhơn quả tương tục nên không đoạn,
không thường. Nếu pháp diệt rồi, không có sanh nữa; thế
thì nhân đoạn. Nếu nhân đoạn làm thế nào có tương tục;
vì đã diệt rồi không sanh vậy.
Lại
nữa:
Pháp
trú ở tự tánh,
Không
nên có hữu vô.
Niết-bàn
diệt tương tục,
Thì
rơi vào đoạn diệt. [16]
Pháp,
nếu quyết định trong tướng có, lúc bấy giờ chẳng có
tướng không. Như chiếc bình quyết định ở trong tướng
bình, lúc ấy không có tướng hoại diệt. Tùy khi có bình
không có tướng hoại diệt, lúc ấy không bình cũng chẳng
có hoại tướng. Vì sao? Nếu không bình tất không có tướng
để hoại. Do ý nghĩa ấy nên diệt không thể có được.
Vì lìa diệt, nên cũng không sanh. Tại sao? Sanh diệt là nhân
đối đãi. Lại, có lỗi thường v.v.. Thế nên, không thể
trong một pháp mà có cả hữu lẫn vô. Lại, vì trước ông
nói, “Nhân quả do sanh diệt tương tục, tuy thọ các pháp
mà không rơi vào đoạn, thường.” Điều ấy không đúng.
Tại sao? Ông nói, do nhân quả tương tục cho nên có ba cõi
tương tục; hủy diệt tương tục gọi đó Niết-bàn. Nếu
vậy, thì Niết-bàn sẽ rơi vào đoạn diệt. Bởi vì diệt
sự tương tục của ba cõi.
Lại
nữa:
Nếu
thân sơ hữu diệt,
Thì
không có hậu hữu.
Sơ
hữu nếu không diệt,
Cũng
không có hậu hữu. [17]
Sơ
hữu là thân đời hiện tại, hậu hữu là thân đời vị
lai. Nếu thân sơ hữu hủy diệt, kế đó là thân hậu hữu;
thế tức là không nhân. Điều ấy không đúng. Thế nên không
được nói thân ban đầu diệt có thân sau. Nếu sơ hữu không
diệt cũng không nên có hậu hữu. Vì sao? Nếu sơ hữu chưa
diệt mà có hậu hữu tức là đồng thời có hai thân. Điều
ấy không đúng. Thế nên, sơ hữu không diệt cũng không có
hậu hữu.
Hỏi:
hậu hữu không do sơ hữu diệt mà sanh; chẳng do không diệt
mà sanh; chỉ khi đang hủy diệt nó phát sanh, có lỗi gì?
Đáp:
Nếu
sơ hữu hủy diệt,
Mà
hậu hữu phát sanh.
Khi
diệt, một cái hữu.
Lúc
sanh là một hữu. [18]
Nếu
khi diệt sơ hữu, sanh hậu hữu; tức hai thân đồng một thời.
Một thân đang diệt, một thân đang sanh.
Hỏi:
Đang diệt, đang sanh; hai cái đều có thì không đúng. Nhưng
hiện thấy thân sơ hữu hoại diệt, thân hậu hữu phát sanh.
Đáp:
Nếu
nói đối sanh diệt,
Mà
gọi là nhất thời.
Ngay
khi ấm này diệt,
Tức
là ấm kia sanh. [19]
Nếu
đang sanh và đang diệt, cùng một thời không có hai cái hữu,
mà nói rằng lúc sơ hữu diệt, sanh hậu hữu; thì nay phải
ở trong ấm nào mà chết, ngay trong ấm ấy mà sanh; chứ không
thể ở trong ấm khác sanh. Tại sao? Vì chết tức là sanh.
Như thế, pháp sanh tử trái nhau, không thể đồng thời có.
Thế nên, trước ông nói, đang diệt, đang sanh, cùng một lúc
không có hai sự hữu, chỉ hiện thấy khi diệt sơ hữu có
sanh hậu hữu. Điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Trong
ba đời tìm hữu,
Tương
tục không thể được.
Trong
ba đời nếu không,
Đâu
có thân tương tục. [20]
Tam
hữu là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Bởi trong sanh tử
từ vô thỉ, vì không được thật trí, thường có ba cõi
tương tục. Nay đối trong ba đời tìm kỹ không thể. Nếu
trong ba đời không có, sẽ ở chỗ nào có hữu tương tục?
Nên biết rằng, hữu tương tục đều từ ngu si điên đảo
nên có, trong chân thật thì không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Tiêu đề theo bản Phạn hiện tại: sambhava-vibhava-pàrìkwà,
khảo sát về khái niệm sambhava (xuất sanh) và vibhava (phi hữu),
tức là vấn đề xuất hiện và biến mất. Như vậy, hai từ
thành và hoại ở đây không nằm trong ngữ cảnh thành trụ
hoại không như là chu kỳ không đầu không cuối. TS
[2]
Tham chiếu Phạn văn: vinà và saha và nàsti vibhavahï sambhavena
vai, “Tách rời (ly) sự xuất hiện hay câu hữu (cọng) với
sự xuất hiện (thành), đều không có sự biến mất (hoại).”
[3] Quán thành hoại là quán sát các pháp hình thành và hoại diệt.
Vũ trụ quan thì có thành, trụ, hoại và không. Nhân sanh quan
thì có sanh, lão, bịnh và tử. Câu 281, 282, ý nói rằng khi
các pháp cùng nhau hòa hiêp hình thành thì gọi là thành. Khi
không còn hòa hiệp thì gọi đó là hoại diệt. Không có tướng
thành thì không có tướng hoại diệt và ngược lại.
[4]
Xem chú thích 1 trang 61 trên.
[5] Thành và hoại không thể đồng thời có. Như tối và sáng,
không thể một lúc có. câu 286… là nói các pháp trong ngày
đêm. Mỗi niệm mỗi niệm sanh rồi diệt, diệt rồi sanh,
tưởng tượng như nó có tận cùng. Nhưng sự thật sanh diệt
nó tiếp tục mãi mãi, tợ hồ như vô tận. Do đó, nên không
thể chấp đoạn, chấp thường, trụ hay không trụ….
[6]
Tức chướng “Quán Ba tướng.”
[7]
Hán: pháp; bản Phạn: bhàva, cái hữu; thề, tánh; hữu thể,
hữu tánh.
[8]
Hán: phi pháp. Phạn: abhàva, vô thể.
[9]
Các bản Tống-Nguyên-Minh: bất cọng.
[10]
Hán: sở thọ pháp. Phạn: bhàvam abhyupapannasya, (đối với
ai chấp nhận (đồng ý, tin tưởng) hữu. Xem các chú thích
trang trước.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”