LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XXII: QUÁN NHƯ LAI
Hỏi:
Bậc tôn quý nhất trong tất cả thế gian chỉ có Như Lai là
đấng Chánh biến tri, hiệu là Pháp Vương. Lẽ tất nhiên
phải có bậc Nhất thế trí,.
Đáp:
Nay hãy suy nghĩ kỹ, nếu có nên chấp nhận, nếu không thì
nhận cái gì? Tại sao?
Như
Lai,
Không
ấm, chẳng lìa ấm,
Đây
kia không trong nhau.[1]
Như
Lai không có ấm,
Chỗ
nào có Như Lai?[2] [1]
Nếu
Như Lai thật có, thì năm ấm chính là như Lai hay là lìa năm
ấm có Như Lai? Hay trong Như Lai có năm ấm? Hay trong năm ấm
có Như Lai? Hay Như Lai có năm ấm? Điều ấy không đúng. Năm
ấm chẳng phải Như Lai. Tại sao? Vì năm ấm là tướng sanh
diệt. Nếu Như Lai tức là năm ấm; Như Lai tức là tướng
sanh diệt. Nếu là tướng sanh diệt, thì Như Lai tức có những
lỗi vô thường, đoạn diệt v.v.. Lại, thọ giả, thọ pháp
là một. Thọ giả là Như Lai. Thọ pháp là năm ấm. Điều
ấy không đúng. Thế nên, Như Lai chẳng phải tức là năm
ấm.
Lìa
năm ấm cũng không có Như Lai. Nếu lìa năm ấm mà có Như
Lai, thì không nên có tướng sanh diệt. Nếu vậy Như Lai có
những lỗi thường v.v.. Lại, mắt v.v.. các căn không thể
thấy biết Như Lai. Song điều ấy không đúng. Thế nên lìa
năm ấm cũng không Như lai.
Trong
Như Lai cũng không năm ấm, Vì sao? Nếu trong Như Lai có năm
ấm, như trong dĩa có trái cây, hay là trong nước có cá; thế
là có dị biệt. Nếu dị biệt tức có lỗi thường v.v..
như trên. Thế nên, trong Như Lai không năm ấm.
Lại
trong năm ấm cũng không có Như Lai, Vì sao? Nếu trong năm ấm
có Như Lai, như trên giường có người, như trong ly có sữa;
như thế thì có sự cá biệt và dị biệt, mắc lỗi đã nói
như trên. Thế nên trong năm ấm không có Như Lai.
Như
Lai cũng không có năm ấm. Vì sao? Nếu Như Lai có năm ấm,
như người có con, thế là có cá biệt và dị biệt; nếu
vậy, có lỗi như trên. Điều ấy không đúng. Thế nên Như
Lai không có năm ấm. Như thế trong năm, thử tìm kỹ, không
thể được. Vậy, cái gì là Như Lai?
Hỏi:
Bằng những nghĩa như thế mà tìm Như Lai không thể có. Nhưng
năm ấm hòa hiệp có Như Lai được chăng?
Đáp:
Ấm
hiệp[3] có Như Lai,
Thì
không có tự tánh.
Nếu
không có tự tánh,
Làm
sao nhơn tha có?[4] [2]
Nếu
Như Lai do năm ấm hòa hiệp mà có, tức là không tự tánh.
Tại sao? Vì nhơn năm ấm hòa hiệp mà có.
Hỏi:
Như Lai không do tự tánh mà có; nhưng nhơn tha tánh có?
Đáp:
Nếu không có tự tánh, làm thế nào nhơn tha tánh có. Vì sao?
Tha tánh cũng không tự tánh. Lại, vì không có nhân tương
đãi, nên tha tánh không thể. Vì không thể được nên không
gọi là tha.
Lại
nữa:
Pháp
nếu nhân tha tánh,
Ấy
là chẳng phải ngã.
Nếu
pháp không phải ngã,
Làm
gì cóNhư Lai? [3]
Pháp
nếu do các duyên hòa hiệp sanh thì không có ngã. Như nhơn
năm ngón tay mà có nắm tay; nắm tay không có tự thể. Như
thế, nhân năm ấm gọi là ngã. Ngã đó tức là không tự
thể. Ngã có nhiều tên; hoặc là chúng sanh, hoặc gọi Trời,
người, Như Lai v.v… Nếu Như Lai nhân năm ấm mà có, tức
là không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên không có ngã.
Nếu không có ngã; làm thế nào nói là Như Lai? Thế nên trong
bài tụng nói, “Pháp nếu nhân tha sanh, thì chẳng phải có
ngã. Nếu pháp không có ngã, cái gì là như Lai?”
Lại
nữa:
Nếu
không có tự tánh,
Làm
sao có tha tánh?
Lìa
tự tánh, tha tánh,
Đâu
gọi là Như Lai? [4]
Nếu
không có tự tánh, tha tánh cũng không thể có. Vì nhân tự
tánh nên gọi tha tánh; bởi đây không, kia cũng không; thế
nên tự tánh, tha tánh cả hai đều không. Nếu ngoài tự tánh,
tha tánh, cái gì là Như Lai?
Lại
nữa:
Nếu
không nhân năm ấm[5],
Mà
trước có Như Lai;
Thì
nay vì thọ ấm,
Nên
nói là như Lai. [5]
Nay
thật không thọ ấm[6],
Lại
không pháp Như lai.
Nếu
không, vì không thọ,
Nay
làm sao có thọ?[7] [6]
Nếu
kia chưa có thọ,
Sở
thọ không gọi thọ[8] .
Chẳng
có pháp không thọ,
Mà
gọi là như Lai. [7]
Nếu
đối trong nhất, dị[9],
Như
Lai không thể được.
Năm
thứ tìm cũng không,
Làm
sao có trong thọ? [8]
Lại
sở thọ năm ấm,
Không
từ tự tánh có[10].
Nếu
không có tự tánh,
Làm
gì có tha tánh? [9]
Nếu
chưa có thọ (chấp thủ) năm ấm, mà trước có Như Lai ấy;
thì Như Lai ấy nay sau khi thọ năm ấm rồi cũng có thể đã
là Như Lai. Nhưng thật sự khi chưa thọ năm ấm, trước không
có Như lai, nay làm thế nào có thể thọ? Lại không thọ năm
ấm, thì năm ấm không được gọi là thọ; không thể không
có thọ mà gọi là Như Lai. Lại, Như Lai trong nghĩa nhất dị
tìm không thể được; trong năm ấm, bằng năm cách, tìm cũng
chẳng thể; nếu vậy làm thế nào trong năm ấm nói có Như
Lai? Lại, sở thọ năm ấm không từ tự tánh có, làm thế
nào có từ tha tánh. Vì sao? Bởi không có tự tánh thì tha
tánh cũng không.
Lại
nữa:
Bởi
vì nghĩa như thế,
Thọ
không, thọ giả không.
Làm
sao chính do không,
Mà
nói không Như Lai? [10]
Theo
nghĩa đó mà tư duy, thọ và người thọ đều không. Nếu
Thọ không, làm sao do thọ không mà nói Như Lai không?
Hỏi:
Ông nói thọ không, thọ giả không; thế thì quyết định
có cái không chăng?
Đáp:
Không phải vậy. Vì sao?
Không
thì không thể nói,
Chẳng
không cũng không thể.
Không
nói cộng bất cộng,
Chỉ
bằng giả danh nói. [11]
Các
pháp không, thì không thể nói. Các pháp bất không, cũng không
thể nói. Các pháp vừa không vừa bất không cũng không thể
nói. Tại sao? Vì để loại bỏ mâu thuẫn (tương vi), nên
bằng vào giả danh mà nói. Như thế, chánh quán mà tư duy,
trong thật tướng các pháp, không nên dùng các pháp để vấn
nạn. Vì sao?
Trong
tịch diệt không có
Thường,
vô thường vân vân.
Trong
tịch diệt không có
Biên,
vô biên vân vân. [12]
Thật
tướng các pháp là tịch diệt vi diệu như thế. Căn cứ đời
quá khứ khởi bốn thứ tà kiến: Thế gian hữu thường; thế
gian vô thường; thế gian vừa thường vừa vô thường; thế
gian phi thường phi vô thường. Trong tướng tịch diệt đều
không có những cái như vậy. Vì sao? Thật tướng các pháp
cứu kính thanh tịnh, không thể chấp thủ. Không, còn chẳng
thể thọ huống là có bốn thứ kiến chấp đều do thọ phát
sanh. Thật tướng các pháp không có sở nhân bởi thọ. Trong
bốn thứ kiến chấp, đều cho kiến chấp của mình là quí,
còn kiến chấp của kẻ khác là thâp kém. Thật tướng các
pháp không có đây kia. Thế nên nói trong tịch diệt không
có bốn thứ kiến chấp. Cũng như căn cứ đời quá khứ mà
có bốn thứ kiến chấp, cũng như thế: Thế gian hữu biên,
thế gian vô biên; thế gian vừa hữu biên vừa vô biên, thế
gian phi hữu biên phi vô biên.
Hỏi:
Nếu bác bỏ Như Lai như thế, thì không có Như Lai chăng?
Người
tà kiến thâm hậu,
Thì
nói không Như Lai.
Như
Lai tướng tịch diệt,
Phân
biệt có, chẳng phải. [13]
Tà
kiến có hai thứ: 1- Bác bỏ sự an lạc của thế gian. 2- Bác
bỏ đạo Niết-bàn.
Bác
bỏ sự an lạc thế gian là tà kiến thô; nói không tội, không
phước, không có quả báo của tội phước, không có Như Lai
và những bậc hiền, thánh v.v..; khởi các tà kiến, bỏ thiện,
làm ác. Ấy là phá sự an lạc thế gian.
Phá
đạo Niết-bàn, là do tham đắm nơi ngã, phân biệt có, không,
khởi niệm thiện, ác; vì làm thiện thì được sự an lạc
thế gian; bởi phân biệt có và không nên chẳng đắc Niết-bàn.
Thế nên, nếu nói không có Như Lai chính là tà kiến sâu dày
làm mất sự an lạc thế gian huống là Niết-bàn.
Nếu
nói có Như Lai cũng là tà kiến. Vì sao? Như Lai vốn là tướng
tịch diệt nhưng do các thứ phân biệt, thế nên trong tướng
tịch diệt mà phân biệt có Như lai; ấy cũng không đúng.
Như
thế trong tánh không,
Suy
nghĩ cũng không thể.
Như
Lai sau khi diệt,
Phân
biệt thành có không. [14]
Thật
tướng của các pháp là Tánh Không, cho nên không thể tư duy
phân biệt rằng Như Lai sau khi diệt độ hoặc có, hoặc không
hay vừa có vừa không. Như Lai từ trước đến giờ, rốt
ráo là không, huống là sau khi diệt độ.
Như
Lai vượt hí luận.
Mà
người sanh hí luận.
Hí
luận mất tuệ nhãn,
Đều
không thể thấy Phật.[11] [15]
Hí
luận, là do tưởng tượng mà chấp thủ tướng, rồi phân
biệt đây kia. Nói Phật diệt độ hay là không diệt v.v..
người ấy bị hí luận che lấp mất trí tuệ, không thể
thấy Pháp thân Như Lai. Trong chương như Lai này, từ khoảng
đầu khoảng giữa và khoảng cuối, suy nghĩ về Như Lai mà
không thể tìm thấy có tánh quyết dịnh. Thế nên bài tụng
nói:
Như
Lai mà có tánh,
Tức
là tánh thế gian.
Như
Lai không có tánh,
Thế
gian cũng không tánh[12]. [16]
Trong
chương này, tư duy suy tầm về tánh Như Lai cũng tức là tánh
tất cả thế gian.
Hỏi:
Những gì là tánh Như Lai?
Đáp:
Như Lai không có tự tánh cũng đồng thế gian không có tự
tánh.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Hán: bỉ thử bất tương tại. Phạn: nàsmiư skandhà na tewu
sahï, các uẩn không ở trong Như Lai; Như Lai không ở trong
các uẩn.
[2] Như Lai: Như nghĩa là như như bất động, trước sau không
sai khác. Lại nghĩa là đến tam giới, độ sanh không gì chướng
ngại. Thân Như Lai không phải là thân ngũ ấm cũng không phải
hoàn toàn không ngũ ấm. Nó là phi hữu phi vô. Thân ngũ ấm
do nhân duyên hòa hiệp, thân Như Lai không phải từ sự hòa
hiệp của ngũ ấm tứ đại. Do thân Như Lai không phải từ
sự thọ lãnh mà có hoặc không từ sự thọ lãnh mà có. Bởi
vì thân Như Lai là chân không (Sùnya), ngoài bốn tà kiến và
biên kiến.
[3]
Hán: ấm hiệp. Phạn: skandhàn upàdàya, y chỉ trên các uẩn.
[4]
Hán: nhân tha hữu. Phạn: sa parabhàvatahï, từ tha thể (tha
tánh) mà có.
[5]
Hán: nhân ngũ ấm. Phạn: skandhàn upàdàya. Từ Phạn này ở
đây được dùng theo hai nghĩa: y chỉ trên các uẩn; và chấp
thủ các uẩn, mà từ kép thường gặp là upàdàna-skandha,
thủ uẩn, uẩn do chấp thủ.
[6]
Hán: bất thọ ấm. Phạn: skandhàn anupàdàya, không y chỉ trên
các uẩn; từ đó dẫn đến khái niệm anupàdàna-skandhà, phi
thủ uẩn, tức uẩn không do chấp thủ, hay không được chấp
thủ.
[7]
Hán: nhược dĩ bất thọ vô, kim đương vân hà thọ. Phạn:
yaz ca nàsty anupàdàya sa upàdàsyate katham? Cái gì không do y
chỉ (= cái gì có không do chấp thủ), làm sao bị y chỉ (=làm
sao bị chấp thủ)?
[8]
Hán: nhược kỳ vị hữu thọ, sở thọ bất danh thọ. Phạn:
na bhavaty anupàdattam upàdànaư ca kiưcana, nếu không có cái
bị chấp thủ, thì cái chấp thủ cũng không.
[9]
Hán: ư nhất dị trung. Phạn: tatvànyatvena, bằng thật thể
và dị thể
[10]
Phạn: yad apìdam upadànaư tat svabhàvàn na vidyate, thủ không
được tìm thấy từ tự thể.
[11] Hí luận: là chỉ tư tưởng vọng chấp sai lầm tà kiến.
[12]
Phạn: tathàgato yat svabhàvas tat svabhàvaư idaư jagat, tathàgato
nihïsvabhàvo nihïsvabhàvam idaư jagat: tự tánh (hay tự thể)
của Như Lai cũng chính là tự tánh của thế gian này. Như
Lai ly tự tánh, thế gian này cũng là ly tự tánh.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”