LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XXIV: QUÁN TỨ ĐẾ
Hỏi:
Phá được bốn điên đảo, thông đạt bốn Thánh đế, đắc
bốn quả sa môn.
Nếu
tất cả đều không,
Không
sanh cũng không diệt;
Như
thế thì không có,
Pháp
bốn Thánh đế ấy.[1] [1]
Vì
bốn Thánh đế không;
Thấy
khổ cùng đoạn tập,
Chứng
diệt và tu đạo,
Việc
như thế đều không. [2]
Bởi
vì việc ấy không,
Không
có bốn đạo quả.
Vì
không có bốn quả,
Đắc,
hướng[2] ấy cũng không. [3]
Nếu
không Tám Hiền Thánh[3],
Thì
không có Tăng bảo.
Do
vì không Tứ đế,
Cũng
không có Pháp bảo. [4]
Pháp,
Tăng bảo không có,
Cũng
không có Phật bảo.
Nói
nghĩa không như vậy,
Thế
là phá Tam Bảo. [5]
Nếu
tất cả thế gian đều không, không thật có, tức không sanh
không diệt. Bởi vì không sanh, không diệt nên không có pháp
bốn Thánh đế. Vì sao? Từ Tập đế sanh Khổ đế. Tập đế
là nhân, Khổ đế là quả. Diệt “khổ tập đế”0 gọi
là Diệt đế. Có khả năng đưa đến Diệt đế gọi là Đạo
đế. Đạo đế là nhân, Diệt đế là quả. Như thế Tứ
đế có nhân, có quả. Nếu không sanh không diệt thì không
Tứ đế. Vì Tứ đế không có, nên không thấy khổ, đoạn
tập, chứng diệt, tu đạo. Vì bốn sự kiện ấy là không
nên không có bốn Sa môn quả; và không bốn sa môn quả cho
nên không có bốn hướng và bốn đắc. Nếu không có bốn
bậc Hiền Thánh này thì không có Tăng bảo. Lại vì bốnThánh
đế không; Pháp bảo cũng không. Nếu không Pháp bảo và Tăng
bảo, làm sao có Phật bảo? Đắc Pháp gọi là Phật, không
pháp làm thế nào có Phật? Ông nói các pháp đều không thì
phá hoại Tam bảo.
Lại
nữa:
Pháp
Không, hoại nhân quả,
cũng
hoại lý tội phước.
Cũng
là hoại tất cả,
Nhất
thiết pháp thế gian. [6]
Nếu
người chấp nhận pháp không thì phá tội phước và quả
báo tội phước, cũng phá luôn pháp thế tục. Vì có những
lỗi như thế v.v.. nên các pháp chẳng thể không.
Đáp:
Nay
ông thật không thể,
Biết
không, nhân duyên không[4];
Và
chẳng biết nghĩa không;
Thế
nên tự sanh não. [7]
Ông
không hiểu rõ tánh không là gì? vì nhân duyên gì mà nói không?
Cũng chẳng hiểu rõ nghĩa không. Vì không thể biết như thật
nên sanh khởi nghi nạn như thế.
Lại
nữa:
Chư
Phật y hai đế,
Vì
chúng sanh nói pháp.
Một
là thế tục đế.
Hai
đệ nhất nghĩa đế. [8]
Nếu
người không thể biết,
Phân
biệt hai đế này;
Đối
thậm thâm Phật Pháp,
Không
biết nghĩa chân thật. [9]
Thế
tục đế, theo đó, tất cả pháp tánh là không, nhưng vì thế
gian điên đảo sanh khởi pháp hư vọng; đối với thế gian,
nó là thật. Chư Hiền Thánh biết một cách chân thật tánh
nó điên đảo; biết tất cả pháp đều không, không sanh.
Đối với bậc Thánh nhân đệ nhất nghĩa đế đó được
gọi là thật. Chư Phật y trên hai đế vì chúng sanh nói pháp.
Nếu người không thể biết như thật phân biệt hai đế,
đối với pháp thậm thâm của Phật, không thể biết nghĩa
chân thật. Nếu nói, tất cả pháp không sanh là đệ nhất
nghĩa đế mà không cần cái thứ hai là thế tục đế; điều
ấy cũng không đúng. Tại sao?
Không
y thế tục đế,
Không
được đệ nhất nghĩa.
Không
đạt đệ nhất nghĩa,
Thì
không đắc Niết-bàn. [10]
Đệ
nhất nghĩa đều nhơn ngôn thuyết; ngôn thuyết là thế tục.
Thế nên, nếu không y thế tục thì đệ nhất nghĩa không
thể nói. Nếu không được đệ nhất nghĩa, làm thế nào
đạt đến Niết-bàn? Thế nên, các pháp tuy không sanh mà có
hai đế.
Lạinữa:
Không
thể chánh quán không,
Độn
căn tất tự hại.
Như
không khéo chú thuật,
Không
khéo bắt rắn độc. [11]
Nếu
người độn căn không khéo hiểu rõ pháp không; do hiểu sai
lạc Không mà sanh khởi tà kiến. Như người vì ham lợi mà
bắt rắn dộc; không biết khéo bắt, trở lại bị nó làm
hại. Cũng như chú thuật, muốn làm điều gì mà không thể
khéo thành, tất trở lại tự hại. Người độn căn quán
pháp không cũng như thế.
Lại
nữa:
Thế
Tôn biết pháp ấy,
Tướng
thậm thâm vi diệu;
Độn
căn không thể đạt,
Thế
nên chẳng muốn nói. [12]
Đức
Thế Tôn đối với pháp thậm thâm vi diệu, chẳng phải kẻ
độn căn có thể hiểu; thế nên không muốn nói.
Lại
nữa:
Ông
nói tôi chấp Không,
Mà
bảo tôi sai lầm.
Sai
lầm mà ông nói,
Không
có trong Tánh không. [13]
Ông
nói tôi vì chấp Không là tôi có lỗi. Nhưng tánh Không mà
tôi tuyên bố là Không cũng không, nên chẳng có lỗi như thế.
Lại
nữa:
Bởi
vì có nghĩa không,
Tất
cả pháp được thành.
Nếu
không có nghĩa không,
Nhất
thiết pháp không thành. [14]
Vì
có nghĩa không nên tất cả pháp thế gian và Xuất thế gian
đều tựu thành. Nếu không có nghĩa Không thì không tựu thành.
Lại
nữa:
Nay
ông tự có lỗi,
Mà
xoay về cho tôi.
Như
người cỡi lưng ngựa,
Tự
quên mình đang cỡi! [15]
Ông
đối trong pháp Có, có những lỗi lầm không thể tự biết;
mà đối trong pháp Không lại thấy lỗi tôi. Như người cỡi
trên lưng ngựa mà quên con ngựa đang cỡi. Vì sao?
Nếu
ông thấy các pháp,
có
tánh quyết định ấy;
Tức
là thấy các pháp,
Không
nhân cũng không duyên. [16]
Ông
nói các pháp có tánh quyết định; nếu thế, tất thấy các
pháp không nhân, không duyên. Tại sao? Nếu pháp có tánh quyết
định thì lẽ ra không sanh không diệt. Pháp như thế cần
gì đến nhân duyên? Nếu các pháp từ nhân duyên khởi thì
không có tự tánh. Những pháp ấy quyết định có tự tánh
thì không nhân duyên. Nếu nói các pháp quyết định trụ tự
tánh, thế thì không đúng. Vì sao?
Tức
là phá nhân quả,
Tác,
tác giả, tác pháp.
Cũng
là hoại tất cả,
Sanh
diệt của vạn vật. [17]
Các
pháp có tánh cố định thì không có những điều nhân quả
v.v. Như bài tụng nói:
Pháp
do các duyên sanh,
Tôi
nói đó là không,
Cũng
chính là giả danh,
Cũng
là nghĩa Trung đạo. [18]
Chưa
từng có một pháp,
Chẳng
từ nhân duyên sanh.
Thế
nên tất cả pháp,
Không
gì không phải Không. [19]
Pháp
do các duyên sanh, tôi nói tức là không. Vì sao? Các duyên đầy
đủ hòa hiệp phát sanh sự vật. Sự vật ấy thuộc các duyên,
nên không có thể tánh. Vì không tự tánh nên không. Cái Không
đó cũng không, chỉ vì dẫn đạo chúng sanh dùng giả danh
mà nói. Lìa hai bên có và không gọi là Trung đạo. Bởi pháp
ấy không tự tánh không thể nói Có. Vì cũng chẳng có cái
Không nên chẳng được nói không. Nếu pháp có thể tính và
thật tướng thì không đợi các duyên mà có. Nếu không nhờ
các duyên thì không có pháp. Thế nên chẳng có pháp bất không.
Pháp Không mà ông chỉ trích là sai lầm ở trên, sai lầm ấy
nay trở về ông. Vì sao?
Nếu
tất cả bất không,
Thì
không có sanh diệt.
Như
thế là không có,
Pháp
bốn Thánh đế ấy. [20]
Nếu
tất cả pháp mỗi mỗi có thể tính, không phải là không,
thì không có sanh diệt. Vì không sanh, không diệt nên không
có pháp bốn Thánh đế. Vì sao?
Nếu
không từ duyên sanh,
Làm
thế nào có khổ?
Nghĩa
khổ là vô thường,
Định
tánh chẳng vô thường. [21]
Nếu
không từ duyên sanh thì không có khổ. Vì sao? Kinh nói vô thường
là nghĩa khổ. Nếu khổ có tánh quyết định, làm sao có vô
thường, vì nó không bỏ mất tự tánh.
Lại
nữa:
Nếu
khổ có tự tánh,
Làm
sao từ tập sanh?
Thế
nên không có tập,
Bởi
vì phá nghĩa Không. [22]
Nếu
khổ quyết định có tự tánh thì không thể sanh nữa, vì
trước đã có. Nếu vậy, không có Tập đế, vì ông phá hủy
nghĩa không.
Lại
nữa:
Khổ
nếu cố định tánh,
Thì
không nên có diệt.
Ông
chấp tánh cố định,
Tức
phá nghĩa Diệt đế. [23]
Khổ
nếu có tánh cố định thì không thể diệt. Vì sao? Tánh,
tất không hoại diệt.
Lại
nữa:
Nếu
khổ, tánh cố định,
Thì
không có tu Đạo.
Đạo
có thể tu tập,
Thì
tánh không cố định. [24]
Pháp
nếu có tánh cố định thì không có tu đạo. Vì sao? Nếu
pháp thật tức là thường. Thường nên không thể thêm. Nếu
Đạo có thể tu tất không có tánh cố định.
Lại
nữa:
Nếu
không có Khổ đế,
Và
không Tập, Diệt đế.
Thì
Đạo diệt trừ khổ,
Sẽ
đi đến chỗ nào? [25]
Các
Pháp nếu trước có tánh cố định thì không có Khổ, Tập,
Diệt đế. Vậy nay Đạo diệt khổ sẽ dẫn đến chỗ diệt
khổ nào?
Lại
nữa:
Nếu
khổ có định tánh,
Từ
trước giờ không thấy.
Nay
đây làm sao thấy,
Vì
tánh kia không khác. [26]
Nếu
trước kia khi còn là phàm phu, không thể thấy tánh khổ, nay
cũng không thể thấy. Tại sao? Vì không thấy tánh cố định.
Lại
nữa:
Như
thấy Khổ, không đúng,
Đoạn
Tập và chứng Diệt,
Tu
Ðạo và chứng quả,
Cũng
đều là không đúng. [27]
Như
tự tánh trước Khổ đế trước không thể thấy, sau cũng
không nên thấy. Như thế cũng không nên có đoạn Tập, chứng
Diệt, tu Đạo. Vì sao? Tánh của Tập ấy, từ trước tới
giờ không đoạn, nay cũng không thể đoạn. Vì tự tánh thì
không thể bị đoạn. Diệt từ trước đến giờ không chứng,
nay cũng không thể chứng, vì từ trước đến giờ không chứng.
Đạo không thể tu, vì từ trước đến giờ không tu. Thế
nên bốn hành tướng của bốn Thánh đế là kiến, đoạn,
chứng và tu, đều không thể có. Vì bốn hành tướng không,
bốn Đạo Quả cũng không. Vì sao?
Tánh
bốn Đạo Quả ấy,
Trước
giờ không thể đắc.
Nếu
các pháp định tánh,
Nay
làm sao khả đắc? [28]
Nếu
các pháp có tánh cố định, bốn quả Sa môn trước giờ chưa
chứng đắc, nay làm thế nào có thể chứng đắc? Nếu có
thể
chứng đắc, thì tánh không cố định.
Lại
nữa:
Nếu
không có tứ quả,
Thì
không có Đắc, Hướng.
Vì
không có Tám, Thánh,
Nên
không có Tăng bảo. [29]
Vì
không có bốn quả Sa môn nên không có đắc quả, hướng quả.
Vì không có tám bậc Hiền Thánh nên không có Tăng bảo; mà
kinh nói tám bậc Hiền Thánh là Tăng bảo.
Lại
nữa:
Vì
không bốn Thánh đế,
Cũng
không có Pháp bảo.
Không
Pháp bảo,Tăng bảo,
Làm
sao có Phật bảo.[30]
Tu
hành bốn Thánh đế đắc pháp Niết-bàn. Nếu không có bốn
Thánh đế thì không có Pháp bảo. Không có hai bảo, làm thế
nào có Phật bảo? Ông bằng nhơn duyên như thế mà nói các
pháp có tánh cố định, tất là phá hoại Tam bảo:
Hỏi:
Ông tuy phá các pháp, nhưng cứu cánh đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác nên có, vì nhơn Đạo ấy mà gọi là Phật.
Đáp:
Nói
thế thì, chẳng phải
Nhơn
Bồ đề có Phật.
Cũng
không phải nhơn Phật
Mà
có đạo Bồ đề. [31]
Ông
nói các pháp có tánh cố định thì không nên nhơn Bồ đề
mà có Phật; nhơn Phật[5] có Bồ đề; vì hai tánh ấy thường
quyết định.
Lại
nữa;
Tuy
là cần tinh tấn,
Tu
hành đạo Bồ đề.
Nếu
trước không Phật tính,
Chẳng
thể đắc Phật quả. [32]
Do
vì trước không có tánh, như sắt không có tánh chất của
vàng, tuy được luyện lọc theo nhiều cách, nhưng không thể
thành vàng.
Lại
nữa:
Nếu
các pháp bất không,
Không
người tạo tội phước.
Bất
không tác dụng gì?
Bởi
vì kia định tánh. [33]
Nếu
các pháp Bất không, thì không bao giờ có người tạo tội,
tu phước. Tại sao? Vì tánh tội phước trước đã cố định,
lại do không có tác, tác giả.
Lại
nữa:
Ông
cho trong tội phước,
Không
sanh quả báo ấy.
Thế
thì lìa tội phước,
Mà
có các quả báo? [34]
Ông
cho rằng trong nhân duyên của tội phước, thảy đều không
có quả báo; thế thì lìa nhân duyên của tội phước mà có
quả báo. Tại sao? Vì quả báo không đợi nhân mà phát hiện.
Hỏi:
Lìa tội phước có thể không có quả báo thiện, ác, nhưng
từ tội phước có quả báo thiện, ác.
Đáp:
Nếu
nói từ tội phước,
Mà
phát sanh quả báo.
Quả
từ tội phước sanh,
Làm
sao nói bất không. [35]
Nếu
lìa tội phước thì không có quả thiện, ác; vậy làm thế
nào nói quả là bất không? Nếu vậy, lìa tác và tác giả
thì không tội phước: Ở trên ông nói các pháp bất không,
điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Ông
phá tất cả pháp,
Các
nhân duyên, nghĩa không;
Cũng
hủy phá tất cả,
Các
pháp thế tục khác. [36]
Ông,
nếu bác bỏ đệ nhất nghĩa không của các pháp do nhân duyên,
thì cũng phá tất cả pháp thế tục. Tại sao?
Nếu
hủy phá nghĩa không,
Tức
là không tạo tác.
Không
tác mà có tác,
Không
tác gọi tác giả. [37]
Nếu
phá nghĩa không thì tất cả quả đều không có nhân. Lại,
cái không tạo tác mà tạo tác. Lại nữa, tất cả tác giả
không thể có sở tác gì cả. Lại nữa, lìa tác giả nên
có nghiệp, có quả báo, có thọ giả. Song những điều ấy
không đúng. Thế nên không thể bác bỏ Không.
Lại
nữa:
Nếu
có tánh cố định,
Mọi
tướng trạng thế gian.
Sẽ
không sanh không diệt,
Thường
trú mà không hoại. [38]
Nếu
các pháp có tánh cố định, thì mọi tướng trạng sai biệt
của thế gian như trời, người, súc sanh, vạn vật, đều
nên không sanh, không diệt, thường tồn không hoại diệt.
Tại sao? Vì có thật tánh nên không thể biến đổi. Nhưng
hiện thấy vạn vật đều có tướng biến đổi sanh diệt
biến dị, thế nên không thể có tánh cố định.
Lại
nữa;
Nếu
mà chẳng có Không,
Chưa
đắc không thể đắc;
Cũng
không đoạn phiền não,
Cũng
chẳng việc khổ tận. [39]
Nếu
chẳng có pháp không, thì những công đức thế gian và xuất
thế gian vốn chưa chứng đắc đều không thể chứng đắc;
cũng không nên có đoạn phiền não và không có sự diệt tận
khổ. Tại sao? Vì tánh cố định.
Thế
nên trong kinh nói,
Nếu
thấy pháp nhơn duyên.
Thế
là hay thấy Phật,
Thấy
Khổ, Tập, Diệt, Đạo.[6] [40]
Nếu
người thấy tất cả pháp đều từ các duyên mà sanh khởi;
người ấy tức thấy pháp thân Phật, thêm lớn trí tuệ,
có thể thấy được bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Thấy bốn Thánh đế, chứng đắc bốn Thánh quả, diệt những
khổ não; bởi thế không nên hủy phá nghĩa Không. Nếu phá
nghĩa Không tức phá pháp nhân duyên. Phá pháp nhân duyên thì
phá Tam bảo. Nếu hủy phá Tam bảo tức là tự phá hủy mình.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Chương này đặt lại vấn đề là có Tứ Thánh đế hay không?
Bởi lẽ tất cả pháp đều không, trong ấy có pháp tứ diệu
đế. Khổ, tập, diệt và đạo. Nếu cho rằng Tứ Thánh đế
là pháp thật có thì thành ra chấp thường. Thật có tức
là do định tánh. Có định tánh thì nó không thể thay đổi,
không thay đổi thì khi người hiểu biết khổ, họ cần phải
tu tập, diệt khổ, chứng Niết-bàn không thành vấn đề,
vì khổ nó có định tánh, thay đổi, đoạn diệt. Tập đế,
diệt đế và đạo đế cũng vậy, đều có định tánh cả,
có tu hay không tu, nó vẫn như thế không đổi thay.
Nếu
nói rằng Tứ Thánh đế không có. Ấy là chấp đoạn. Tứ
Thánh đế thuộc Pháp bảo, nếu Pháp bảo không có thì Tăng
bảo và Phật bảo cũng không. Tăng bảo là nhân vật thực
hành giáo pháp tu tập chánh lý, giác pháp chánh lý không, tu hành cái gì mà gọi là Tăng bảo. Không có Tăng chúng tu
hành thì ai thành Phật mà gọi là Phật bảo.
[2]
Tức bốn quả và bốn hướng, gồm tám bậc Hiền Thánh trong
bốn bậc Thanh văn.
[3]
Tám Hiền Thánh, tức bốn quả và bốn hướng nói trong bài
kẽ trước. Xem cht. trên.
[4]
Phạn: ...zùnyatayàư na tvaư vetsi prayojanaư..., vì ông không
hiểu mục tiêu (nguyên nhân hay động cơ) của tánh không.
[5]
Các bản Tống-Nguyên-Minh: nhơn Phật đạo.
[6]
Phạn: yahï pratìtyasamutpàdaư pazytìdaư sa pazyati, duhïkhaư
samudayaư caiva nirodhaư màrgam eva ca, ai thấy duyên khởi,
người ấy cũng thấy cái này, là khổ, tập, diệt và đạo.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”