LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XXV: QUÁN NIẾT BÀN
Hỏi:
Nếu
tất cả pháp không,
Không
sanh cũng không diệt;
Đoạn
cái gì, diệt gì,
Mà
gọi là Niết-bàn? [1]
Nếu
tất cả pháp Không thì không sanh, không diệt. Không sanh, không
diệt, thì đoạn cái gì, diệt cái gì mà gọi Niết-bàn? Thế
nên, tất cả pháp không thể Không. Bởi vì pháp là bất không,
cho nên đoạn các phiền não, diệt ngũ ấm gọi là Niết-bàn.
Đáp:
Nếu
các pháp bất không,
Thì
không sanh, không diệt.
Đoạn
cái gì, diệt gì,
Đó
gọi là Niết-bàn ?[1] [2]
Nếu
tất cả thế gian là bất không, không có sanh diệt; đoạn
cái gì, diệt gì mà gọi là Niết-bàn? Thế nên, hai cánh cửa
có và không chẳng mở vào Niết-bàn. Được gọi là Niết-bàn:
Không
đắc cũng không đến[2],
Không
đoạn cũng không thường;
Không
sanh cũng không diệt,
Ấy
gọi là Niết-bàn. [3]
Không
đắc, không có gì là sở đắc đối với hành và đối với
quả. Không đến, là không chỗ nào để đạt đến. Không
đoạn, là năm ấm từ trước đến giờ rốt ráo Không; khi
đắc đạo, nhập Vô dư Niết-bàn cũng không có cái bị đoạn
trừ. Không thường là, nếu có pháp nào có thể phân biệt
được tức gọi là thường. Niết-bàn là tịch diệt, không
có pháp nào có thể phân biệt, nên không gọi thường. Sanh
diệt cũng vậy. Tướng như thế gọi là Niết-bàn.
Lại
nữa, Kinh nói Niết-bàn chẳng phải có; chẳng phải không;
chẳng phải vừa có vừa không; chẳng phải vừa chẳng có
vừa chẳng không. Đối tất cả pháp mà không thọ, nội tâm
tịch diệt; đó là Niết-bàn. Vì sao?
Niết-bàn
không gọi có,
có
tức tướng lão tử.
Không
hề có pháp có,
Lìa
tướng lão tử ra.[3] [4]
Nhận
thấy thực tế rằng tất cả vạn vật đều sanh diệt, là
tướng già chết. Niết-bàn nếu có thì cũng phải có tướng
già chết. Song điều ấy không đúng. Cho nên Niết-bàn không
gọi là có. Lại không thấy lìa sanh tử riêng có pháp cố
định nào gọi là Niết-bàn. Nếu Niết-bàn là Có, tức có
tướng sanh diệt, già chết. Bởi vì lìa tướng già chết
mà gọi là Niết-bàn.
Lại
nữa:
Nếu
Niết-bàn là hữu,
Niết-bàn
tức hữu vi.
Không
có pháp hữu nào,
Mà
gọi là vô vi. [5]
Niết-bàn
chẳng phải là hữu. Vì sao? Tất cả vạn vật từ các duyên
sanh khởi, đều là hữu vi không có một pháp nào gọi là
vô vi. Tuy pháp thường hằng được giả danh là vô vi, nhưng
dùng lý suy xét, pháp vô thường còn không có huống là pháp
thường hằng. Vì không thể thấy, không thể đắc.
Lại
nữa:
Nếu
Niết-bàn là hữu,
Làm
sao gọi vô thủ[4]?
Không
có một pháp nào,
Chẳng
từ thủ mà hữu.[5] [6]
Nếu
nói Niết-bàn là pháp có (hữu thể) thì kinh tất không nên
nói Vô thủ là Niết-bàn, Vì sao? Chẳng có pháp có (hữu thể)
nào không có thủ mà hiện hữu. Thế nên Niết-bàn chẳng
phải có (hữu thể).
Hỏi:
Nếu có chẳng phải Niết-bàn thì không là Niết-bàn chăng?
Đáp:
Có[6]
còn chẳng Niết-bàn,
Huống
là không[7] ấy ư!
Niết-bàn
không có Hữu,
Chỗ
nào sẽ có Vô? [7]
Nếu
có (hữu) chẳng phải Niết-bàn thì không (vô) làm sao là Niết-bàn?
Vì sao? Nhơn có hữu nên có vô; nếu không cái hữu làm gì
có cái vô. Như kinh nói, “Trước có nay không thì gọi không
(vô).” Niết-bàn không phải thế. Tại sao? Vì chẳng phải
là pháp có (hữu) biến đổi thành không (vô), nên cái không
(vô) cũng chẳng trở thành Niết-bàn.
Lại
nữa:
Nếu
Niết-bàn là không(vô),
Làm
sao nói không thủ?
Chưa
từng có vô thủ,
Mà
gọi là pháp không (vô)[8]. [8]
Nếu
nói không (vô) là Niết-bàn; thì kinh tất đã không nói, “không
chấp thủ là Niết-bàn.” [9] Vì sao? Không có trường hợp
nào không chấp thủ mà được gọi là pháp không (vô pháp).
Thế nên Niết-bàn chẳng phải không (vô ).
Hỏi:
Nếu Niết-bàn chẳng phải hữu chẳng phải vô, thì cái gì
là Niết-bàn?
Đáp:
Chấp
thủ các nhân duyên,
Luân
chuyển trong sanh tử.
Không
thủ các nhân duyên,
Ấy
gọi là Niết-bàn[10]. [9]
Bởi
không biết như thật những điên đảo, nhơn năm thủ ấm
mà qua lại trong sanh tử. Vì biết như thật các thứ điên
đảo thì không trở lại chấp thủ năm thủ ấm qua lại sanh
tử. Do năm ấm vốn không tự tánh chẳng còn tiếp nối trở
lại, gọi đó là Niết-bàn.
Lại
nữa:
Như
trong kinh Phật dạy:
Đoạn
hữu, đoạn phi hữu.
Thế
nên biết, Niết-bàn
Chẳng
có cũng chẳng không. [10]
Hữu
chỉ cho ba cõi. Phi hữu chỉ cho sự đoạn diệt của ba cõi.
Phật dạy đoạn trừ hai sự này, nên biết Niết-bàn chẳng
phải hữu cũng chẳng phải vô.
Hỏi:
Nếu hữu hay vô đều không chẳng phải là Niết-bàn, nay hữu
và vô chung hiệp, đó là Niết-bàn chăng?
Đáp:
Nói
sự hữu và vô,
Hiệp
lại thành Niết-bàn.
hữu,
vô tức giải thoát,
Điều
ấy thì không đúng. [11]
Nếu
nói sự hợp nhất hữu và vô là Niết-bàn; tức là hợp nhất
hai điều hữu và vô thành giải thoát; điều ấy không đúng.
Vì sao? Hai sự thể hữu và vô trái nhau, làm thế nào cùng
tồn tại ở một chỗ?
Lại
nữa:
Nếu
nói hữu và vô,
Hiệp
lại thành Niết-bàn.
Niết-bàn
phi vô thủ,
Hai
sự từ thủ sanh. [12]
Nếu
hữu và vô hiệp thành Niết-bàn thì kinh không nên nói Niết-bàn
là vô thủ. Vì sao? Hai điều hữu và vô từ thủ mà sanh,
đối đãi nhau mà có; thế nên hai điều hữu và vô chẳng
thể hiệp thành Niết-bàn.
Lại
nữa:
Hữu,
vô chung hiệp thành,
Làm
sao gọi Niết-bàn?
Niết-bàn
là vô vi,
Hữu
vô là hữu vi. [13]
Hai
sự thể hữu và vô chung hiệp không thể gọi Niết-bàn. Niết-bàn
là vô vi. Hữu và vô là hữu vi. Thế nên hữu và vô chẳng
phải Niết-bàn.
Lại
nữa:
Hai
sự hữu, vô hiệp,
Làm
sao là Niết-bàn?
Hai
sự không cùng chỗ,
Như
sáng, tối bất đồng. [14]
Hai
điều hữu và vô, chẳng thể gọi Niết-bàn, Vì sao? Hữu
và vô mâu thuẫn nhau, không thể có chung một chỗ. Như sáng
và tối không cùng chung. Thế nên, lúc có thì chẳng thể không,
khi không thể chẳng thể có. Làm thế nào Có và Không chung
hiệp mà gọi Niết-bàn?
Hỏi:
Nếu hữu và vô chung hiệp chẳng phải Niết-bàn; nay chẳng
phải hữu chẳng phải vô, nên là Niết-bàn chăng?
Đáp:
Nếu
phi hữu phi vô,
Gọi
đó là Niết-bàn;
Phi
hữu phi vô này,
Do
đâu mà phân biệt? [15]
Nếu
Niết-bàn là phi hữu phi vô; phi hữu phi vô này do đâu mà
phân biệt? Thế nên, phi hữu phi vô là Niết-bàn, điều ấy
không đúng.
Lại
nữa:
Phân
biệt phi hữu vô,
Như
thế là Niết-bàn.
Nếu
hữu, vô thành tựu,
Phi
hữu phi vô thành. [16]
Ông
phân biệt phi hữu phi vô là Niết-bàn; điều ấy không đúng.
Vì sao? Nếu hữu vô mà thành nhiên phi hữu phi vô mới tựu
thành. Trái hẳn với hữu gọi là vô; trái hẳn với vô gọi
là hữu. Hữu vô ấy, trong cú nghĩa thứ ba đã phá. Vì không
có hữu vô, làm thế nào có phi hữu phi vô? Thế nên, Niết-bàn
chẳng phải phi hữu, chẳng phải phi vô.
Lại
nữa:
Như
Lai sau diệt độ,
Không
nói Có cùng Không.
Cũng
không nói Có Không,
Chẳng
Có và chẳng Không. [17]
Như
Lai đang hiện tại,
Không
nói Có cùng Không.
Cũng
không nói Có không.
Chẳng
Có và chẳng Không. [18]
Như
Lai sau khi diệt độ, hoặc đang hiện tại, mà nói rằng có
Như Lai, không được thừa nhận[11]; nói rằng không có Như
Lai, cũng không được thừa nhận; vừa có Như Lai vừa không
có Như Lai, cũng không được thừa nhận; chẳng phải có Như
Lai, chẳng phải không Như Lai cũng không được thừa nhận.
Bởi vì không chấp thủ, không nên phân biệt Niết-bàn là
hữu hay vô. Lìa Như Lai ra, ai sẽ chứng đắc Niết-bàn? Khi
nào, ở đâu? bằng pháp gì mà nói đắc Niết-bàn? Thế nên,
tất cả thời, và mọi cách, tìm tướng Niết-bàn không thể
được.
Lại
nữa:
Niết-bàn
cùng thế gian,
Không
có chút phân biệt.
Thế
gian và Niết-bàn,
Cũng
không chút phân biệt. [19]
Vì
nhân duyên năm ấm tương tục qua lại mà gọi là thế gian.
Tánh của năm ấm hoàn toàn không, không chấp thủ, tịch diệt;
nghĩa này trước đã nói. Bởi vì tất cả pháp không sanh,
không diệt; nên thế gian không khác biệt Niết-bàn; Niết-bàn
cũng không khác biệt thế gian.
Lại
nữa:
Thật
tế của Niết-bàn,
Và
thật tế Thế gian.[12]
Như
thế hai thật tế
Không
hào ly sai biệt. [20]
Cứu
cánh tìm kỹ, thật tế của Niết-bàn và thế gian đều là
biên tế vô sanh; bởi vì bình đẳng, bất khả đắc, không
hào ly sai biệt.
Lại
nữa:
Sanh
diệt, có hay không,
Hữu
biên, thường vân vân.
Kiến
chấp y Niết-bàn,
Đời
quá khứ, vị lai. [21]
Như
Lai sau khi diệt độ, Như Lai tồn tại, hay Như Lai không tồn
tại, hay Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại, hay Như
lai chẳng phải vừa tồn tại vừa không tồn tại. Thế gian
là hữu biên; thế gian là vô biên; thế gian vừa hữu biên
vừa vô biên; thế gian chẳng hữu biên chẳng vô biên. Thế
gian là thường; thế gian là vô thường; thế gian vừa thường
vừa vô thường; thế gian chẳng phải vừa thường vừa vô
thường. Ba thứ này cộng thành mười hai kiến chấp. Như
Lai sau khi diệt độ, có hay không các thứ, bốn kiến chấp
này y trên Niết-bàn mà sanh khởi. Thế gian hữu biên, vô biên
các thứ, bốn kiến chấp, y đời vị lai phát khởi; thế
gian Thường, Vô Thường v.v.. 4 kiến chấp này y theo đời
quá khứ sanh khởi. Như Lai sau khi diệt độ còn tồn tại
hay không tồn tại, không thể nhận thức được. Niết-bàn
cũng như thế. Như thế gian tiền tế, hậu tế, hữu biên,
vô biên, hữu thường, vô thường các thứ; đều không thể
nhận thức. Niết-bàn cũng vậy. Thế nên nói, Thế gian và
Niết-bàn v.v.. không có sai biệt.
Vì
hết thảy pháp Không,
Nào
có biên, vô biên.
Vừa
biên vừa vô biên,
Chẳng
hữu chẳng vô biên. [22]
Cái
gì là nhất, dị?
Nào
có thường, vô thường,
Vừa
thường vừa vô thường,
Phi
thường, phi vô thường. [23]
Các
pháp bất khả đắc,
Diệt
tất cả hí luận.
Không
người cũng không xứ,
Phật
cũng không tuyên thuyết. [24]
Tất
cả pháp, tất cả thời, tất cả mọi thứ, đều từ các
duyên sanh, cứu cánh là Không, nên không có tự tánh. Trong
các pháp như thế, cái gì là hữu biên? cái gì là vô biên?
ai là vô biên? cái gì vừa hữu biên vừa vô biên? cái gì
là phi hữu biên phi vô biên? ai là phi hữu biên phi vô biên?
cái gì là thường? ai thường? cái gì là vô thường; vừa
thường vừa vô thường; phi thường phi vô thường? ai là
phi thường phi vô thường? Sao là thân tức ngã; sao là thân
khác ngã? Như thế trong tất cả sáu mươi hai thứ tà kiến
cứu kính Không, thảy đều bất khả đắc, những gì là sở
đắc đều dứt bặt, mọi hí luận đều diệt. Vì hủy diệt
hí luận nên không đạt thật tướng các pháp, đạt được
con đường an ổn.
Từ
chương “Nhân duyên” cho đến đây, phân biệt quán sát các
pháp, hữu cũng không; vô cũng không; hữu vô cũng không; phi
hữu phi vô cũng không; đó gọi thật tướng các pháp, cũng
gọi là Chân như, là Pháp tánh, là Thật tế, là Niết-bàn.
Thế nên Như Lai không thời gian, không xứ sở, vì người
nói Niết-bàn là tướng cố định, thế nên nói: ‘Những
gì là sở đắc đều dứt bặt, mọi hí luận hủy diệt.”
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Niết-bàn tiếng Phạn gọi là Nirvana. VANA nghĩa là dục vọng
đau khổ, như thế Niết-bàn là nơi an tịnh tuyệt đối. Nói
thế chúng ta đừng nghĩ Niết-bàn có một cảnh giới riêng
có vị trí thanh tịnh an lạc. Niết-bàn được nhận thức
bằng chân không (Sùnya), nó không nằm trong cái hữu hay vô,
siêu việt đối đãi. Vì phương tiện đối với chúng sanh
mà đức Phật dùng ngôn ngữ để diễn tả thế nào là cảnh
giới Niết-bàn. Chúng ta nhờ giải thích để hiểu biết cụ
thể Niết-bàn. Do đó không nên nghĩ ngôn ngữ là có hay không.
Như người dùng ngón tay chỉ mặt trời để người khác trông
mặt trời. Ngón tay người chỉ, không phải mặt trời, song
nhờ ngón tay chỉ mặt trời, người khác có thể nương nơi
đó nhìn hướng mặt trời. Khi đã trông thấy rõ mặt trời
rồi, thì ngón tay kia không cần dùng nữa.
[2]
Hán: vô đắc diệc vô chí. Bát nhã đăng: vô thối diệc vô
đắc. Phạn: aprahìịam asampràptam, không có cái gì bị đoạn
trừ, không có cái gì được chứng đắc.
[3] sau khi Đức Như Lai nhập Niết-bàn, nghĩa là trở về bản
tính tịch tịnh, chúng sanh sinh nhiều vọng chấp, nói Niết-bàn,
cảnh giới Niết-bàn thường trú vô biên. Niết-bàn khác với
thế gian v.v. tất cả bàn bạc như thế nào cũng đều sai
lầm. Vì Như Lai Niết-bàn là ly ngôn ngữ văn tự, ly tâm duyên
tướng, bất khả đắc, bất khả tư nghì. Như Kinh Kim Cang
Bát Nhã nói: “Niết-bàn vô Niết-bàn thị danh Niết-bàn”,
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
[4]
Hán: vô thọ. Phạn: anupàdàya, không chấp thủ; không y chỉ
(các uẩn).
[5]
Hán dịch của Bát-nhã đăng: Niết-bàn nhược hữu thể, vân
hà thị vô nhân? Diệc vô hữu nhất pháp, ly nhân nhi đắc
hữu, “Niết-bàn nếu là hữu thể, làm sao lại không nhân?
Cũng không một pháp nào, không cần nhân mà hiện hữu.”
Phạn: bhàvaz ca yadi nirvàịam anupàdàya tat kathaư, nirvàịaư
nànupàdàya kazcid bhàvo hi vidyate, “ Nếu Niết-bàn là hữu
thể, làm sao cái đó lại không chấp thủ (không y chỉ)? Không
có bất cứ hữu thể không chấp thủ nào được nhận thức
như là Niết-bàn.”
[6]
Hán: hữu. Phạn: bhàva (hữu thể).
[7]
Hán: vô. Phạn: abhàva: vô thể.
[8]
Hán dịch của Bát nhã đăng: Nhược Niết-bàn vô thể, vân
hà thị vô nhân, “Niết-bàn nếu là vô thể, làm sao đó
lại là vô nhân?” Phạn: nirvàịaư na hy abhàvo ‘sti yo ‘nupàdàya
vidyate, “Niết-bàn là vô thủ nên hoàn toàn không phải là
vô thể.” Về cách dùng từ upàdàya (và anupàdàya) trong bản
Phạn, và cách dịch của bản Hán, xem cht. 1 tr. 150 chương
XXII.
[9]
Hán: Bất thọ danh Niết-bàn. Xem Pali, Sn. 638: anupàdàya nibbuto,
“Sau khi không còn chấp thủ (không thủ trước hay không sở
y), vị ấy chứng tịch diệt (tức Niết-bàn).
[10]
Bát nhã đăng: Nhược vô nhân vô duyên, thị danh vi Niết-bàn.
Phạn: so’ pratìtyànu- pàdàya nirvàịam upadiwyate, “Không
lệ thuộc các duyên, không còn chấp thủ, cái đó được
nói là Niết-bàn.”
[11]
Hán: bất thọ; cũng hiểu là không chấp thủ.
[12]
Phạn: nirvàịasya ca yà koỉihï koỉihï saưsarasya ca: biên
tế của Niết-bàn và biên tế của sanh tử.
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”