LONG
THỌ
BỒ TÁT Nàgàrjuna
TRUNG LUẬN
Màdhyamaka-Śàstra
Hán
dịch:
Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt
dịch
THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà
Xuất
Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003
CHƯƠNG
XXVII: QUÁN TÀ KIẾN
Hỏi:
Đã nghe pháp Đại thừa phá tà kiến, nay muốn nghe pháp Thanh
văn phá tà kiến.
Đáp:
Tôi
ở đời quá khứ,
Là
có hay là không?
Thế
gian thường, các kiến,
Đều
y đời quá khứ.[1] [1]
Tôi
ở đời vị lai,
Là
tác, là vô tác.
Chấp
hữu biên, vô biên,
Đều
y đời vị lai. [2]
Nay
tôi ở đời quá khứ là có hay là không? Là vừa có vừa
không? là chẳng phải có chẳng phải không? Đó gọi là những
kiến chấp thường v.v.. ; đều y đời quá khứ. Tôi ở đời
vị lai là tạo tác hay không tạo tác? Là vừa tạo tác vừa
không tạo tác? chẳng phải tạo tác chẳng phải không tạo
tác? Ấy là những tà kiến hữu biên, vô biên v.v.. căn cứ
đời vị lai. Những tà kiến như thế, bởi nhân duyên gì
mà gọi tà kiến? Điều ấy nay sẽ nói:
Đời
quá khứ có tôi,
Điều
ấy không thể được.
Tôi
trong đời quá khứ,
Không
làm tôi đời nay. [3]
Nếu
nói ngã tức thị,
Mà
thân có tướng khác.
Nếu
như lìa thân này,
Chỗ
nào riêng có ngã?[2] [4]
Lìa
thân không, có ngã,
Điều
ấy là đã thành.
Nếu
nói thân tức ngã,
Hoặc
đều không có ngã.[3] [5]
Nhưng
thân không là ngã,
Vì
thân tướng sanh diệt.
Làm
sao cho cái thọ,
Mà
làm thành Thọ giả? [6]
Nếu
lìa thân có ngã,
Điều
ấy tất không đúng.
Không
thủ mà có ngã,
Nhưng
thật không thể được. [7]
Nhưng
nay không lìa thủ,
Mà
chẳng phải chính thủ.
Chẳng
không thủ chẳng không,
Đây
tức nghĩa quyết định. [8]
Tôi
có mặt trong đời quá khứ; điều ấy tất không đúng. Vì
sao? Tôi trong đời trước, không phải là tôi hiện nay. Vì
có lỗi về thường hằng. Nếu chấp thường có thì vô lượng
lỗi. Vì sao? Như người do nhân duyên tu phước làm trời sau
đó làm người; nếu tôi đời trước tức là tôi đời nay
thì trời tức là người. Lại, vì người bởi nhân duyên
gây nghiệp tội lỗi làm Chiên-đà-la, sau làm Bà-la-môn; nếu
tôi đời trước tức là tôi hiện nay thì Chiên-đà-la tức
là Bà-la-môn. Thí như người Bà-la-môn ở nước Xá-vệ tên
là Đề-đạt đi đến thành Vương xá nó cũng gọi là Đề-đạt,
không vì đến thành Vương xá mà có tên khác. Nếu trước
làm trời sau làm người, thời trời tức là người, Chiên-đà-la
tức Bà-la-môn. Song điều ấy không đúng. Vì sao? Trời không
phải là người, Chiên-đà-la không phải là Bà-la-môn. Có
những lỗi về sự thường hằng như vậy.
Nếu
nói tôi đời trước không trở thành tôi hiện nay, như người
khi giặt áo gọi là người giặt, khi cắt cỏ gọi là người
cắt; nhưng người giặt cùng người cắt tuy hành động có
khác nhưng thân không khác. Như thế, tôi khi thọ thân trời
gọi là trời, tôi lúc thọ thân người gọi là người, tôi
không khác mà thân có khác. Điều ấy không đúng. Vì sao?
Nếu chính là người, không thể nói trời làm người. Nay
người giặt y và người cắt cỏ là khác hay là không khác?
Nếu không khác người giặt y tức là người cắt cỏ, như
thế trời đời trước chính là người, Chiên-đà-la, chính
là Bà-la-môn, nếu thế tôi cũng có lỗi thường. Nếu là
khác, người giặt y, tức không trở thành người cắt cỏ,
như thế, trời không trở thành người, tôi cũng vô thường.
Vô thường thì không có tướng tôi; thế nên không được
nói “chính là” (tức thị).
Hỏi:
Tôi chính là một, song vì nhơn bởi thủ mà phân biệt là
trời, là người. Thủ là thân ngũ ấm; vì nhân duyên nghiệp
cho nên phân biệt là trời, là người, là Chiên-đà-la là
Bà-la-môn mà tôi thật chẳng phải trời, người, Chiên-đà-la,
Bà-la-môn. Thế nên, không có những sai lầm như vậy.
Đáp:
Điều ấy không đúng. Vì sao? Nếu thân là là trời, là người,
là Chiên-đà-la là Bà-la-môn chứ chẳng phải là tôi, tất
khi lìa thân mà có ngã riêng biệt. Nay tạo tội phước, sanh
tử qua lại, đều chính là thân ấy mà chẳng phải là tôi.
Vì nhân duyên tạo tội bị đọa trong ba nẽo. Là do nhân duyên
làm phước được sanh vào ba đường lành. Nếu những buồn,
vui, giận, mừng, lo sợ v.v.. đều là thân ấy mà chẳng phải
là tôi thì cần có tôi làm gì? Như trị tội kẻ thế tục,
không liên hệ người xuất gia. Nhơn duyên ngũ ấm tương tục
tội phước không mất cho nên có giải thoát. Nếu đều là
thân ấy nhưng chẳng phải là tôi, thì cần có tôi làm gì?
Hỏi:
Tội phước v.v.. là y chỉ ở ngã; vì ngã có sở tri, thân
không sở tri, tri tức là ngã. Nhơn duyên khởi nghiệp tội,
phước là pháp tạo, nên biết phải có tác giả. Tác giả
là ngã, thân là sở dụng của ngã cũng là nơi sở trú của
ngã. Thí như ông chủ nhà dùng cỏ, nước, đất, bùn, gạch
v.v.. làm nhà, tùy theo sự ưa thích của mình mà xây dựng
ngôi nhà có tốt hay xấu; ngã cũng như thế, tùy theo sự tạo
tác, tu thiện v.v.. mà có thân tốt, xấu. Sáu đường sanh
tử đều do ngã tạo nên, thế nên, thân tội phước đó đều
thuộc ở ngã. Ví như ngôi nhà chỉ thuộc của ông chủ nhà,
không thuộc người khác.
Đáp:
Dụ ấy không đúng. Tại sao? Vì ông chủ nhà có hình tướng,
có xúc chạm, có khí lực cho nên có thể sửa sang nhà. Ngã
mà ông nói không có hình dáng, xúc chạm nên không có sức
tạo tác. Tự nó không có sức tạo tác cũng không thể bảo
người khác tạo tác. Nếu trong thế gian có một pháp nào
không hình tướng, không xúc chạm mà có thể tạo tác được
thì tôi có thể tin nhận, biết có tác giả; song điều ấy
không đúng. Nếu ngã là tác giả thì lẽ ra không nên tự
tạo những việc khổ; nếu là người nghĩ nhớ, nên nghĩ
điều vui thích không thể quên mất. Nếu ngã không tạo khổ
mà khổ miễn cưỡng sanh; thì ngoài ra tất cả cũng tự phát
sanh, chẳng phải cái do tôi tạo. Nếu người thấy là tôi,
thì khi mắt nhìn thấy sắc; mắt tức là ngã. Nếu mắt thấy
sắc nhưng nó không phải là tôi thì trái với lời trước
của ông, nói rằng người thấy là ngã. Nếu người thấy
là ngã; ngã tất không thể nghe ra tiếng v.v.. Tại sao? Vì
mắt là người thấy, không thể nghe tiếng vậy. Thế nên
nói rằng ngã thấy, điều ấy không đúng. Nếu nói như người
cắt cỏ dùng liềm để cắt cỏ, ngã cũng như thế, dùng
tay v.v.. để làm các công việc như vậy. Dụ ấy không đúng.
Vì sao? Nay rời liềm, riêng có người cắt cỏ; nhưng lìa
thân tâm, các căn, không thể riêng có tác giả. Nếu nói,
tác giả tuy chẳng phải sở đắc các thứ mắt, tai v.v…nhưng
cũng có tạo tác, thì người thạch nữ có thể sinh con. Như
thế tất cả các căn đều nên không có ngã. Nếu nói, mắt
bên hữu nhìn thấy sự vật mà mắt bên trái nhận biết,
nên biết riêng có người thấy; điều ấy không đúng. Tại
sao? Nay, tay bên hữu quen làm, mà tay bên trái thì không thể;
thế nên không riêng có tác giả. Nếu riêng có tác giả thì
điều mà tay mặt quen làm, tay trái cũng làm được, mà thật
không thể; thế nên không có tác giả. Lại nữa, người chủ
trương ngã có tạo tác[4] nói rằng thấy người khác ăn quả
me, trong miệng chảy nước miếng; đó là tướng ngã, điều
ấy không đúng. Tại sao? Vì đó là niệm lực, không phải
sức của ngã vậy; do không phải sức của ngã, lại cũng
tức là nhơn duyên phá ngã. Như người ở trong đám đông
biết hổ thẹn lúc chảy nước miếng mà nước miếng vẫn
chảy; không được tự tại, nên biết không có ngã.
Lại
nữa, nếu có tội lỗi điên đảo. Đời trước là cha đời
nay là con, thì cha và con, ngã là một, nhưng thân có khác.
Như từ một nhà đến một nhà, cha vẫn là cha, không do vào
nhà khác mà có khác. Nếu có ngã thì cả hai (cha và con) tức
là một; như thế thì có đại lỗi.
Nếu
nói, vô ngã trong năm ấm tương tục; cũng có lỗi ấy. Điều
đó không đúng. Vì sao? Năm ấm tuy tương tục, nhưng có khi
hữu dụng, hoặc có lúc vô dụng. Như nước nho, người giữ
giới nên uống; nhưng cũng nuớc ấy đem làm rượu, không
nên uống; nếu là rượu thuốc để trị bịnh thì được
uống. Năm ấm tương tục cũng vậy, có lúc hữu dụng, có
lúc vô dụng. Nếu thủy chung một ngã, có lỗi như vậy; nhưng
năm ấm tương tục không có lỗi như thế. Song ngũ ấm hòa
hiệp giả danh là ngã, không có quyết định. Như kèo và đòn
tay phối hợp làm nhà, ngoài đòn tay và kèo không riêng có
nhà.. Cũng vậy, năm ấm hòa hợp cho nên có ngã. Nếu lìa
năm ấm, thật không riêng có ngã. Thế nên ngã chỉ có giả
danh, không quyết định có thật.
Ông,
trước nói, lìa thủ, riêng có người chấp thủ[5]. Do thủ
mà phân biệt kẻ chấp thủ là trời, là người; ấy đều
không đúng. Nên biết, chỉ có thủ, không riêng người chấp
thủ. Nếu lìa thủ, riêng có ngã, điều ấy không đúng. Nếu
lìa thủ có ngã, làm thế nào có thể được nói đó là tướng
của ngã? Nếu không có tướng để có thể nói, thì lìa thủ
không có ngã. Nếu nói, lìa thân không có ngã, nhưng chính
thân là ngã; điều đó cũng không đúng. Vì sao? Thân có tướng
sanh diệt, ngã không phải thế.
Laị
nữa, làm sao cho rằng thủ tức là người chấp thủ? Nếu
bảo, lìa thủ có người chấp thủ; điều ấy cũng không
đúng. Nếu không chấp thủ năm ấm mà có người chấp thủ
thì nên lìa năm ấm riêng có người chấp thủ. Nhãn căn v.v..
khả đắc (có ngã) mà thật bất khả đắc; thế nên ngã
không lìa thủ, không tức là thủ, cũng chẳng phải không
thủ, cũng lại chẳng phải là không. Đây là nghĩa quyết
định. Thế nên, phải biết, đời quá khứ có ngã, điều
ấy không đúng. Vì sao?
Ngã
quá khứ không tạo,
Điều
ấy tất không đúng.
Ngã
trong đời quá khứ,
Khác
nay cũng không đúng. [9]
Nếu
nói ngã có khác,
Lìa
kia nên có nay.
Ngã
trú ở quá khứ,
Mà
ngã nay tự sanh. [10]
Như
thế thì đoạn diệt,
Mất
hết nghiệp quả báo.
Kia
tạo mà đây thọ,
Có
những lỗi như thế. [12]
Trước
không mà nay có,
Trong
đây cũng có lỗi.
Ngã
tất là tác pháp,
cũng
chính là vô nhơn. [13]
Ngã
trong đời quá khứ không tạo ra ngã hiện nay, điều ấy không
đúng. Vì sao? Ngã đời quá khứ và ngã hiện nay không khác.
Nếu ngã ngày nay ngã đời quá khứ khác thì
nên lìa ngã kia, có ngã này. Lại ngã đời quá khứ cũng nên
trú ở đó, còn thân này thì tự sinh ra. Nếu thế, rơi vào
cực đoan đoạn diệt, mất những quả báo
của nghiệp. Lại người kia tạo tội, người này chịu quả
báo; có những vô lượng lỗi như thế. Lại, ngã ấy, là
trước không nay có, cũng có lỗi. Ngã tất là tác pháp (tự
tạo ra) cũng là không nhơn mà sanh. Thế nên ngã quá khứ không
tạo ngã hiện nay; điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Như
trong đời quá khứ,
Chấp
có ngã không ngã.
Hoặc
cộng hoặc bất cộng,
Điều
ấy đều không đúng. [14]
Như
thế, suy tìm tà kiến liên hệ đời quá khứ: có, không; vừa
có vừa không; chẳng phải có, chẳng phải không; những tà
kiến đó, trước dùng mọi cách đã nói sai lầm rồi, nên
đều không đúng.
Ngã
ở đời vị lai,
Có
tạo hay không tạo;
Kiến
chấp như thế đó,
Đều
đồng thời quá khứ. [15]
Ngã
trong đời vị lai là tạo hay không tạo, bốn cú nghĩa như
thế cũng như lỗi trong đời quá khứ, cần phải hiểu theo
đó.
Lại
nữa:
Nếu
trời tức là người,
Đó
là cực đoan thường.
Trời
như vậy không sanh;
Vì
pháp thường, không sanh. [16]
Nếu
trời tức là người; như thế là thường. Nếu trời không
sanh vào loài người, làm sao được gõi là người? Vì pháp
thường, là không sanh. Như vậy, là không đúng.
Nếu
trời khác với người,
Như
thế là vô thường.
Nếu
trời mà khác người,
Thì
tất không tương tục. [17]
Nếu
trời và người là khác, như thế là vô thường. Vô thường
thì phạm các sai lầm của cực đoan đoạn diệt. Lỗi như
trước đã nói. Nếu trời và người có khác, như thế thì
không tương tục. Nếu có tương tục, không được nói là
khác. Lại nữa:
Nếu
nữa trời, nữa người,
Thì
rơi vào nhị biên,
Thường
cùng với vô thường;
Điều
ấy thì không đúng. [18]
Nếu
chúng sanh, phân nữa thân là trời, nữa thân là người; nếu
thế, tất là vừa thường vừa vô thường: phân nữa trời
là thường, phân nữa người là vô thường, song điều ấy
không thể. Tại sao? Vì có lỗi một thân mà hai tướng.
Lại
nữa:
Nếu
thường và vô thường,
Hai
sự thể mà thành;
Như
thế thì nên thành,
Phi
thường, phi vô thường. [19]
Nếu
thường và vô thường, cả hai đều tựu thành, nhiên hậu
mới tựu thành phi thường phi vô thường, vì cùng với thường
vô thường trái nhau. Nay thật sự thường và vô thường không
thành, thế nên phi thường phi vô thường, cũng không thành.
Lại nữa, hiện nay sanh từ vô thỉ, ấy cũng không thành.
Vì sao?
Pháp
quyết định có đến,
Và
quyết định có đi;
Sanh
tử tất vô thủy.
Mà
thật không việc này. [20]
Pháp
nếu quyết định có chỗ đến và có chỗ đi thì sanh tử
hẳn là vô thủy. Pháp ấy, bằng trí tuệ mà suy tìm, không
thể có từ chỗ nào đến và sẽ đi về đâu; cho nên sanh
tử vô thỉ; điều ấy không đúng.
Lại
nữa:
Nay
nếu không có thường,
Làm
sao có vô thường?
Vừa
thường vừa vô thường?
Phi
thường phi vô thường? [21]
Nếu
vậy, bằng trí tuệ mà tìm kỹ, không có pháp nào có thể
được nhận thức như là thường, thế thì ai sẽ có cái
vô thường? Vì nhân bởi thường mà có vô thường; nếu cả
hai đều không, làm thế nào có vừa thường vừa vô thường?
Nếu không có thường và vô thường, làm sao có phi thường
phi vô thường? Vì nhơn vừa thường vừa vô thường mà có
phi hữu thường phi vô thường. Thế nên căn cứ đời quá
khứ với bốn cú nghĩa thường v.v.. là bất khả đắc. Y
chỉ đời vị lai với bốn cú nghĩa hữu biên, vô biên v.v..;
điều ấy không thể được. Vì sao? Nay sẽ nói:
Hoặc
thế gian hữu biên,
Làm
sao có đời sau?
Nếu
thế gian vô biên,
Làm
gì có đời sau? [22]
Nếu
thế gian hữu biên, không thể có đời sau. Nhưng nay thật
có đời sau. Vậy nên, thế gian hữu biên, không đúng. Nếu
thế gian vô biên, cũng không thể có đời sau, mà thật có
đời sau; vậy nên, thế gian vô biên, cũng không đúng. Lại
nữa, hai biên ấy là bất khả đắc. Vì sao?
Năm
ấm thường tương tục,
Cũng
như ngọn đèn cháy.
Vì
vậy, nên thế gian,
Không
hữu biên, vô biên. [23]
Từ
năm ấm lại sanh năm ấm. Năm ấm ấy thứ tự tiếp nối
nhau, như các duyên hòa hợp có ngọn đèn cháy; nếu các duyên
không hết thì ngọn đèn không tắt; nếu các duyên hết thì
đèn tắt. Thế nên, không thể nói, thế gian hữu biên hay
vô biên.
Lại
nữa:
Nếu
năm ấm trước hoại,
Không
nhơn năm ấm này,
Lại
sanh năm ấm khác,
Thế
gian tất hữu biên. [24]
Nếu
ấm trước không hoại,
Cũng
không nhơn ấm này,
Mà
sanh năm ấm sau,
Thế
gian tất vô biên. [25]
Nếu
năm ấm trước hoại diệt, không nhơn năm ấm này để sanh
năm ấm sau; như vậy, tất thế gian là hữu biên. Nếu năm
ấm trước hoại diệt rồi lại không sanh năm ấm khác, ấy
gọi là biên tế. Biên tế là thân cuối cùng. Nếu năm ấm
trước không hoại diệt thì không nhơn năm ấm này mà sanh
năm ấm sau, thế gian tất vô biên, ấy là thường. Nhưng thật
không phải. Thế nên, thế gian vô biên. Điều ấy không đúng.
Thế gian có hai thứ, quốc độ thế gian và chúng sanh thế
gian. Ở đây, là chúng sanh thế gian.
Lại
nữa: Như trong Luận “Tứ bách quán”[6] nói:
Pháp,
người nói, người nghe,
Ba
chân thật, khó có.
Như
thế tất sanh tử,
Phi
hữu biên vô biên. [26]
Vì
nhân duyên không được pháp chân thật, nên sanh tử qua lại
không có biên tế. Hoặc giả có khi được nghe chân pháp,
đắc đạo; không thể nói không biên tế. Nay sẽ lại phá
vừa hữu biên vừa vô biên.
Thế
gian nữa hữu biên,
Thế
gian nữa vô biên;
Thế
gian vừa hữu biên
Vừa
vô biên, không đúng. [27]
Nếu
thế gian nữa hữu biên, nữa vô biên thì có thể vừa hữu
biên vừa vô biên. Nếu vậy, thì một pháp có hai tướng;
điều ấy không đúng. Vì sao?
Kia
chấp thủ năm ấm,
Làm
sao một phần phá,
Và
một phần không phá?
Điều
ấy tất không đúng. [28]
Thủ
cũng lại như thế,
Làm
sao một phần phá,
Và
một phần không phá?
Điếu
ấy tất không đúng. [29]
Năm
ấm bị chấp thủ ấy, làm thế nào một phần bị phá một
phần không bị phá? Cùng một sự thể, không thể vừa thường
vừa vô thường. Thủ cũng như thế, làm sao một phần bị
phá, một phần không bị phá? Vì có lỗi về hai tướng thường
và vô thường. Thế nên, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên;
ấy tất không đúng.
Nay
sẽ hủy phá kiến chấp, phi hữu biên, phi vô biên.
Vừa
hữu biên, vô biên,
Hai
điều ấy nên thành;
Phi
hữu, phi vô biên,
Điếu
này mới được thành. [30]
Trái
với hữu biên mà có vô biên; trái với dài mà có ngắn; trái
với cái có và không thì mới có cái vừa có vừa không. Trái
với cái vừa có vừa không thì mới có cái phi có cái phi
không. Nếu cái vừa hữu biên vừa vô biên quyết định tựu
thành thì mới có phi hữu biên phi vô biên. Tại sao? Vì tương
đãi vậy. Trên đã phá cú nghĩa thứ ba là vừa hữu biên
vừa vô biên, nay làm thế nào có phi hữu biên phi vô biên?
Bởi vì không đối đãi nhau. Như thế suy tìm hữu biên, vô
biên v.v.. bốn kiến chấp y chỉ đời vị lai đều không thể.
Lại
nữa:
Vì
tất cả pháp không,
Thế
gian thường vân vân,
Ở
xứ nào thời nào,
Ai
khởi các kiến đó? [31]
Trên
đã dùng pháp Thanh văn phá các kiến chấp. Nay đây trong pháp
Đại thừa nói các pháp từ xưa đến nay cứu kính Không tánh,
trong pháp tánh Không như thế, không người, không pháp, không
nên sanh tà kiến, chánh kiến.
Xứ
là chỉ đất đai. Thời chỉ cho số ngày tháng năm. Ai [7]là
chỉ về người. Đó là thể của những kiến chấp. Nếu
có kiến chấp hữu thường vô thường v.v.. , thì quyết định
phải có người xuất sanh kiến chấp này. Vì phá ngã cho nên
không người sanh khởi kiến chấp ấy. Sắc pháp có nơi chốn
được thấy bằng hiện thực, còn có thể bị phá, huống
là thời gian phương sở. Nếu có những tà kiến thì nên có
quyết định thật, nếu có định thật thì không nên phá.
Từ trước đến đây đã dùng mọi cách để phá; thế nên
phải biết kiến chấp không có tự thể cố định, làm thế
nào được sanh? Như bài tụng nói: “Chỗ nào, thời nào,
ai khởi cá kiến chấp ấy.”
Đại
Thánh chúa Cù-đàm,
Thương
tưởng nói pháp này;
Đoạn
tất cả kiến chấp,
Con
nay cúi đầu lễ.
Tất
cả kiến chấp, lược nói năm thứ, nói rộng thì 62 kiến
chấp. Vì để đoạn trừ những kiến chấp mà nói pháp. Đức
Đại Thánh Chúa Cù Đàm là người trí tuệ vô lượng, vô
biên bất khả tư nghì, thế nên con cúi đầu đảnh lễ.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Chương Quán Tà Kiến là chương cuối cùng trong bộ T.Q.L. Ngài
Long Thọ Bồ Tát mục đích muốn để chương này sau cùng
là muốn nhắc hành giả nghiên cứu chân lý Phật giáo. Sở
dĩ chúng sanh say đắm trong lục đạo sanh tử luân hồi, chính
là do nhận thức sai lầm, nhận giả làm chân, thấy tà làm
chánh, chấp các pháp vô thường cho là thường. Nếu nhận
thức sai lầm, cực đoan thiên vị, thì tâm hồn được thanh
thoát. Muốn chấm dứt tà kiến, thì phải nhận định rằng
các pháp đều do nhân duyên sanh, không thật có. Như trong chương
I giải bày.
[2]
Phạn: sa evàtmeti tu bhaved upàdànaư viziwyate, upàdànavinirmukta
àtmà te katamahï punahï, Nếu cho rằng ‘Nó là tự ngã’ thế
thì nó khu biệt với thủ. Nếu tách biệt thủ, làm sao có
tự ngã của ngươi?
[3]
.Hai câu 416, 417, Long Thọ Bồ Tát đem cái ngã thời quá khứ
và thân ngã hiện tại và cái ngã vị lai, dùng để phân tích
cái ngã thời nào có thật, hay không thật. Nó là thường
tồn hay đoạn diệt; Nó là thuộc hữu biên, có gia hạn, hay
vô biên không ngằn mé? Ngã quá khứ có đồng với thân hay
khác với thân ngã hiện tại… Ngã quá khứ hiện tại, nó
có thể tạo cái ngã tương lai không?
Kết
Luận: Đức Phật thuyết pháp giáo hóa, có sự, có lý, có
tánh, có tướng. Đứng về phương diện sự tướng, thì muôn
sự muôn vật ngoại cảnh không phải không có. Nhưng đứng
về lý tánh, thì tất cả các pháp là Chân không tánh không
bao la pháp giới, không pháp nào đứng ngoài mà có.
[4]
Để bản: hữu ngã. Tống-Nguyên-Minh: hữu ngã tác.
[5]
Hán: thọ và thọ giả.
[6]
Tứ bách quán luận, hay Tứ bách luận, tác phẩm của Thánh
Thiên (Àrya-Deva). Cát Tạng phân vân không biết bài tụng
này do chính Long Thọ tự dẫn hay do người chú giải trích
dẫn. Trong bản Phạn hiện không ghi bài kệ này.
[7]
Xứ, thời và ai: Các từ trong bài kệ được giải thích.
HẾT
CHƯƠNG I: QUÁN
NHÂN DUYÊN[1]
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không đoạn,
Không
nhất cũng không dị,
Không
lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên này [2],
Thiện[3]
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Hỏi:
Vì cớ gì làm luận này?
Đáp:
có người nói: “Vạn vật do trời Đại Tự Tại [4] sanh
ra”. Có người nói: “Do trời Vi-nựu[5] sinh ra”. Có người
nói: “Do sự hòa hiệp mà sanh ra[6]”. Có người nói “Từ
thời gian sanh ra.” Có người nói: “Từ thể tánh phát sanh[7]”.
Có người nói: “Do sự biến hóa sanh ra”. Có người nói:
“Do tự nhiên mà sanh ra”. Có người nói: “Do vi trần mà
sanh ra”.
Những
thuyết như thế đều sai lầm, rơi vào trong các tà kiến như:
Vô nhân, Thường nhân, Đoạn, Thường và chấp đủ các thứ
Ngã và Ngã sở, không biết rõ chánh pháp. Đức Thế Tôn muốn
đoạn trừ những tà kiến sai lầm như vậy để dẫn đến
Chánh Pháp, nên trước hết, đối trong hàng Thanh văn nói pháp
Thập nhị Nhân duyên. Lại vì những vị đã tu tập hành trì,
tâm trí quảng đại, có khả năng nhận lãnh thâm pháp; Ngài
đem lý Đại Thừa, nói tướng Nhân duyên. Pháp Nhân duyên
đó tức là tất cả các pháp đều không Sanh, không Diệt,
không Nhất, không Dị, v.v… rốt ráo là không, hoàn toàn không
hiện hữu. Như trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, Phật bảo Ngài
Tu-bồ-đề: “Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán Thập
nhị Nhân duyên cũng như hư không, không cùng tận”. Sau Đức
Phật diệt độ 500 năm, trong thời kỳ tượng pháp, căn tánh
con người trở thành ám độn, đắm sâu các pháp; đi tìm
tướng quyết định nơi mười hai Nhân duyên, 5 ấm, 12 nhập,
18 giới. Không hiểu thâm ý của Phật mà chỉ chấp vào văn
tự. Nghe kinh Đại thừa nói: “Rốt ráo Không”; chẳng biết
vì nhân duyên gì mà nói là Không, từ đó phát khởi kiến
chấp nghi ngờ rằng: “Nếu tất cả đều rốt ráo là Không,
làm thế nào phân biệt báo ứng của tội phước v.v…”
Và như vậy, không có Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Chấp
thủ tướng Không ấy, khởi lên sự tham trước, ở trong lẽ
rốt ráo Không ấy mà sinh khởi vô số sai lầm. Vì những
lý do đó, nên Ngài Long Thọ làm bộ luận này.
Không
sanh cũng không diệt,
Không
thường cũng không,
Không
nhất cũng không dị,
Không
Lai cũng không khứ;
Khéo
nói nhân duyên ấy,
Thiện,
diệt những hí luận.
Con
cúi đầu lễ Phật,
Bậc
thuyết giáo đệ nhất.
Với
hai bài tụng tán thán Phật. Như vậy là đã nói một cách
cô đọng về Đệ nhất nghĩa.
Hỏi:
Các Pháp vô lượng, sao chỉ dùng tám điều ấy để phá?
Đáp:
Pháp tuy vô lượng, nhưng lược nói tám sự thể cũng gồm
phá tất cả Pháp.
Nói
là không sanh, bởi vì các luận sư có nhiều chủ trương khác
nhau về tướng sanh. Có người nói rằng nhân quả nhất thể;
nhân quả dị thể; trong nhân trước có quả; trong nhân trước
không quả. Hoặc nói rằng, sanh ra từ chính nó, hoặc sanh
từ cái khác, hoặc nói sanh ra từ cả hai; hoặc là có sanh;
hoặc nói không có sanh. Những chủ trương về tướng sanh
ấy đều không đúng, điều này sau sẽ nói rộng. Vì không
thể tìm thấy tính chất cố định của tướng sanh nên nói
là Không Sanh. Đã không sanh làm thế nào có hoại diệt. Vì
không sanh, không diệt cho nên sáu điều còn lại cũng không.
Hỏi:
Không sanh, không diệt đã tổng phá tất cả pháp, sao còn
nói chuyện sáu điều?
Đáp:
Vì để thành nghĩa bất sanh, bất diệt. Có người không chấp
nhận bất sanh bất diệt, nhưng lại tin nhận bất thường,
bất đoạn. Nếu thâm tâm đã tin bất thường bất đoạn,
thì cũng tức đồng nghĩa bất sanh,bất diệt. Tại sao? Nếu
pháp thật sự hiện hữu thì chẳng phải là Không. Trước
có nay không tức là đoạn. Như nếu trước có tính cố định,
tức là thường. Thế nên nói không thường, không đoạn là
dẫn vào ý nghĩa không sanh, không diệt.
Có
người tuy nghe các pháp bị bác bỏ bởi bốn trường hợp
trên, nhưng lại chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng
bốn trường hợp khác, và điều này vẫn không đúng. Nếu
là nhất thể thì không duyên; dị thể thì chẳng tương tục.
Sau sẽ nói rộng, thế nên nói không nhất, cũng không dị.
Có
người nghe dùng sáu sự thể này bác bỏ các pháp, nhưng vẫn
chứng minh sự tồn tại của các pháp bằng sự đến (lai)
và đi (xuất). Nói là đến (lai) nghĩa là các pháp từ Tự
Tại Thiên, từ Thể tánh, từ vi trần v.v.. đến. Nói là đi
(Xuất) là đi về bổn xứ.
Lại
nữa, vạn vật không có sanh. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện
thực của thế gian, theo cái thấy bằng con mắt của thế
gian, thì vào buổi kiếp sơ lúa không sanh. Tại sao? Vì lìa
hạt lúa của kiếp sơ thì lúa hiện tại không thể có. Nếu
lìa lúa của kiếp sơ mà có lúa hiện tại thì có sanh; nhưng
thật chẳng phải, nên không sanh.
Hỏi:
Nếu không sanh thì có diệt?
Đáp:
Không diệt. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì lúa
của kiếp sơ không hoại diệt; nếu nó diệt, lẽ ra nay chẳng
có luá; nhưng thật có lúa, nên không diệt.
Hỏi:
Không diệt thì thường?
Đáp:
Không thường. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không thường, như lúa khi nảy mầm thì hạt giống kia
mục rã; thế nên không hường.
Hỏi:
Nếu không thường thì đoạn?
Đáp:
Không đoạn. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật chẳng đoạn. Như từ hạt lúa mà có mầm, nên không
đoạn; nếu đoạn thì chẳng tương tục.
Hỏi:
Như thế vạn vật là Một?
Đáp:
Không một. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian vạn vật
chẳng phải một. Như lúa không phải mầm; mầm là lúa thì
là một. Nhưng thật chẳng phải; thế nên không phải một.
Hỏi:
Nếu chẳng phải một thì khác?
Đáp:
Không phải khác. Vì sao? Vì theo cái thấy hiện thực của
thế gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì
vạn vật chẳng khác. Nếu khác, làm thế nào phân biệt mầm
lúa, nhánh lúa, lá lúa, mà không nói: mầm cây, nhánh cây,
lá cây v.v..; thế nên không khác.
Hỏi:
Nếu không khác thì có đến?
Đáp:
Không đến. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế
gian vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn
vật không đến; như mầm trong hạt lúa không từ đâu đến.
Nếu đến, thì mầm phải từ chỗ khác đến; như chim kia
đến đậu trên cành cây, nhưng thật không phải nên không
đến.
Hỏi:
Nếu không đến thì có đi?
Đáp:
Không đi. Tại sao? Vì theo cái thấy hiện thực của thế gian
vậy. Theo cái thấy bằng con mắt của thế gian thì vạn vật
chẳng đi. Nếu có đi thì lẽ ra thấy mầm từ nơi hạt lúa
mà đi ra; như con rắn từ hang bò ra, nhưng thật chẳng phải
thế, nên không đi.
Hỏi:
Ông tuy giải thích nghĩa bất sanh, bất diệt. Nhưng tôi muốn
nghe quan điểm của Luận chủ.
Đáp:
Các
pháp không tự sanh,
Không
từ cái khác sanh,
Từ
cả hai, không nhân.
Thế
nên biết không sanh[8] [1]
Không
tự sanh là vạn vật không từ tự thể phát sanh, phải nhờ
các duyên. Lại nữa, nếu từ tự thể sanh ra thì một pháp
có hai thể: 1) Sự sanh. 2) Cái sanh. Nếu lìa các nhân khác
mà từ tự thể sanh thì không nhân, không duyên. Lại nữa,
đã sanh rồi lại sanh nữa, sự sanh sẽ vô cùng. Vì tự thể
không có nên tha thể cũng không. Tại sao? Có tự nên có tha,
nếu không từ tự thể phát sanh cũng chẳng từ tha thể phát
sanh. Cộng sanh thì có hai lỗi: tự sanh, tha sanh. Nếu không
nhân mà có vạn vật tức là thường; điều ấy không đúng.
Không nhân thì không quả. Nếu không có nhân mà có quả thì
những người bố thí, trì giới v.v… nên đọa địa ngục,
kẻ tạo tội thập ác, ngũ nghịch được sanh thiên đường,
vì không nhân vậy.
Lại
nữa,
Như
tự tánh các pháp,
Không
tồn tại trong duyên.
Vì
vốn không tự tánh,
Nên
tha tánh cũng không[9] [2]
Tự
tánh của các pháp không có trong các duyên; chỉ do các duyên
hòa hiệp mà có được tên gọi. Tự tánh tức là tự thể.
Trong các duyên, chẳng có tự tánh. Tự tánh không, nên chẳng
tự phát sanh. Tự tánh không thì tha tánh cũng không. Vì sao?
Do tự tánh mà có tha tánh. Tha tánh đối với tha thể cũng
là tự tánh. Nếu phá hủy tự tánh tức hủy phá tha tánh.
Thế nên, không phải từ tha tánh sanh ra. Nếu phá tự tánh,
tha tánh tức phá hủy nghĩa cộng tánh.
Nếu
nói không nhân, thì có lỗi lớn. Có nhân mà còn bị phá huống
hồ không nhân.
Trong
bốn trường hợp ấy không tìm thấy có sự sanh, thế nên
không sanh.
Hỏi:
Các nhà A-tì-đàm nói: “Các Pháp do bốn duyên mà phát sanh.”
Tại sao nói không sanh? Bốn duyên như thế nào?
Nhân
duyên, thứ đệ duyên,
Duyên
duyên, tăng thượng duyên;
Bốn
duyên sanh các pháp,
Không
có duyên thứ năm[10] [3]
Tất
cả các duyên được biết đến đều thâu tóm trong bốn duyên;
do bốn duyên này mà muôn vật được phát sanh.
Nhân
duyên[11], chỉ tất cả các pháp hữu vi.
Thứ
đệ duyên[12]; trừ tâm và tâm sở ở sát na tối hậu của
A-la-hán thuộc quá khứ và hiện tại, còn lại các tâm và
tâm sở thuộc quá khứ khác.
Duyên
duyên[13] và tăng thượng duyên[14], chỉ tất cả các pháp.
Quả
là từ duyên sanh,
Hay
là phi duyên sanh?
Chính
duyên ấy có quả,
Hay
là Duyên không quả?[15]. [4]
Nếu
nói có quả, thì quả ấy từ duyên phát sanh hay từ phi duyên
phát sanh? Nếu nói có duyên thì chính duyên ấy có quả hay
là không quả? Cả hai trường hợp đều chẳng đúng. Tại
sao?
Quả
sanh do pháp ấy,
Pháp
ấy gọi là duyên.
Nếu
quả ấy chưa sanh,
Sao
không nói phi duyên? [5]
Các
duyên không có tính chất quyết định. Vì sao? Nếu quả chưa
phát sanh, lúc ấy không gọi là duyên; chỉ khi con mắt thấy
từ duyên phát sanh quả mới gọi nó là duyên. Duyên thể tựu
thành là do quả thể; vì quả có sau. duyên có trước. Nếu
chưa có quả, đâu được gọi duyên. Như chiếc bình là do
đất, nước phối hợp mà phát sanh; thấy bình thì biết đất,
nước v.v… là duyên của bình. Nếu bình khi chưa có, sao không
nói đất, nước v.v… là phi duyên? Thế nên quả không từ
duyên phát sanh. Từ duyên mà nó còn chẳng sanh huống là từ
phi duyên.
Lại
nữa:
Quả
trước ở trong duyên,
Có,
không đều bất thành.
Trước
không, duyên cái gì?
Trước
có, cần gì duyên?[16]. [6]
Trong
duyên, trước không có quả, cũng chẳng phải không quả. Nếu
trước có quả, không gọi là duyên. Vì quả trước đã có.
Nếu trước không quả cũng chẳng là duyên; vì không phát
sanh vật khác.
Hỏi:
Đã tổng phá nhân duyên. Nay muốn nghe mỗi phá các duyên.
Đáp:
Như
quả không có sanh[17],
Cũng
chẳng phải không sanh,
Chẳng
phải có không sanh,
Sao
được nói có duyên?[18] [7]
Nếu
duyên có thể phát sanh quả thì có ba trường hợp: Có, không,
hoặc vừa có vừa không. Như bài tụng trước đã nói; trong
duyên, nếu trước có quả thì không nên nói sanh; vì trước
đã có. Nếu trước không quả cũng chẳng được nói sanh,
vì trước không có; và trong trường hợp đó duyên hay phi
duyên đều như nhau. Vừa có vừa không cũng không sanh; vừa
có vừa không là nữa có nữa không, cả hai đều lỗi. Lại
có và không trái ngược. Không và có trái ngược nhau, thì
làm thế nào một pháp có thể có cùng hai tướng ấy? Như
thế, trong ba trường hợp không thể tìm thấy có tướng sanh
của quả, làm sao nói có nhân duyên?
Về
Thứ đệ duyên:
Quả
nếu khi chưa sanh,
Thì
không thể có diệt.
Pháp
diệt, làm sao duyên,
Nên
không thứ đệ duyên. [8]
Các
tâm vương, tâm sở pháp, trong ba thời tiếp nối sanh khởi.
Tâm sở pháp hiện tại hủy diệt làm thứ đệ duyên cho tâm
và tâm sở pháp vị lai. Nhưng pháp vị lai chưa sanh thì chúng
làm thứ đệ duyên cho cái gì? Nếu pháp vị lai đã có, tức
đã phát sanh thì cần gì thứ đệ duyên? Tâm và tâm sở hiện
tại thì niệm niệm liên tục chẳng đình trú[19]. Nếu không
đình trú, thì thế nào có thể làm thứ đệ duyên? Nếu có
đình trú thì chẳng phải pháp hữu vi. Vì sao? Tất cả pháp
hữu vi thường là diệt tướng. Nếu đã hủy diệt thì không
thể làm thứ đệ duyên cho cái gì cả. Nếu nói pháp đã
hủy diệt nhưng vẫn tồn tại thì tức là thường; đã thường
thì chẳng có tội phúc v.v… Hoặc nói rằng ngay khi đang diệt,
nó có thể làm thứ đệ duyên; nhưng đang diệt có nghĩa là
nữa đã diệt, nữa chưa diệt chứ không có pháp thứ ba nào
khác được gọi là cái đang diệt. Lại nữa, Đức Thế Tôn
dạy: “Tất cả Pháp hữu vi niệm niệm hủy diệt, không
có chừng khoảng một niệm đình trú”, làm sao nói pháp hiện
tại có sự kiện sắp diệt và sắp chưa diệt? Nếu ông nói
rằng trong một niệm không có cái sắp diệt và chưa sắp
diệt[20], như vậy là tự bác bỏ chủ trương của mình. Vì
trong A-tì-đàm của ông có nói rằng: “Có pháp đã diệt
và pháp không diệt; có pháp sắp diệt, và pháp không sắp
diệt.” Pháp sắp diệt là pháp hiện tại sắp muốn hủy
diệt. Pháp không sắp diệt là trừ pháp hiện tại sắp muốn
hủy diệt; còn lại các pháp khác thuộc hiện tại và các
pháp thuộc quá khứ, vị lai và vô vi, đó là những pháp không
sắp diệt. Cho nên, không có thứ đệ duyên.
Về
duyên duyên[21]:
Pháp
chân thật vi diệu[22],
Như
Chư Phật đã nói:
Đó
là pháp không duyên,
Vậy
đâu có duyên duyên.[23] [9]
Đức
Phật dạy, trong các pháp Đại thừa, những gì hoặc có sắc,
hoặc không sắc, hữu hình, vô hình, hữu lậu, vô lậu, hữu
vi, vô vi. Những pháp tướng ấy nhập pháp tánh. Tất cả
đều Không, không tướng, không duyên. Ví như dòng sông chảy
vào biển, đồng làm một vị. Thật Pháp có thể tin nhưng
được nói ra theo cơ nghi nên không thể cho là thật. Do đó,
không có sở duyên duyên.
Về
Tăng thượng duyên:
Các
pháp không tự tánh,
Nên
không có tướng có.[24]
Nói
rằng: “Cái này có,
Nên
kia có.”[25] Không đúng. [10]
Kinh
nói về Mười hai nhân duyên rằng “Cái này có, cho nên cái
kia có.” Điều ấy không đúng. Tại sao? Vì vạn pháp từ
các duyên phát sanh, cho nên tự nó không có định tánh. Không
có định tánh, do đó không có tướng có. Tướng có không
có làm sao có thể nói: “Cái này có, cho nên cái kia có.”
Do đó, không có tăng thượng duyên. Đức Thế Tôn tùy theo
sự phân biệt có và không của phàm phu mà thuyết pháp.
Lại
nữa:
Trong
nhân duyên riêng, chung[26],
Không
thể tìm thấy quả.
Trong
nhân duyên nếu không,
Làm
sao từ duyên khởi? [11]
Chúng
là chỉ cho sự tập hợp của các duyên, trong đó không có
quả. Riêng là chỉ cho từng nhân duyên riêng biệt, trong đó
cũng chẳng có quả. Nếu trong nhân duyên chung và riêng mà
không quả, làm thế nào nói quả từ nhân duyên phát sanh?
Lại
nữa:
Nếu
nói duyên không quả,
Mà
từ duyên phát sanh;
Quả
ấy sao chẳng từ
Trong
phi duyên phát xuất? [12]
Nếu
không thể tìm thấy quả trong nhân duyên, thì tại sao nó không
xuất hiện từ cái phi duyên? Như trong đất bùn, không có
bình, thì tại sao bình không xuất hiện từ sữa?
Lại
nữa:
Nếu
quả từ duyên sanh;
Duyên
ấy không tự tánh.[27]
Từ
vô tự tánh sanh,
Sao
được từ duyên sanh. [13]
Quả
chẳng từ duyên sanh,
Không
từ phi duyên sanh.
Vì
quả vốn không có,
Duyên,
phi duyên cũng không [14]
Quả
từ các duyên phát sanh. Duyên ấy không có tính cố định.
Nếu không có tự tính thì không có pháp; không có pháp làm
thế nào có thể phát sanh? Thế nên quả không từ duyên sanh.
Không
từ duyên sanh tức là phủ định duyên, nên nói là phi duyên.
Thật ra, chẳng có pháp phi duyên. Thế nên, không từ phi duyên
mà sanh. Nếu nó không sanh khởi từ hai trường hợp đó, thế
thì quả không có. Không có quả, do đó duyên và phi duyên
cũng không.
--------------------------------------------------------------------------------
[1]
Nhân duyên, hay duyên, Skt. pratyaya: điều kiện quan hệ. Cần
phân biệt với nhân duyên chỉ hai yếu tố nhân (hetu:nguyên
nhân) va duyên (pratyaya).TS
[2]
Trong bản Skt., cac từ bát bất, duyên khởi (pratìtyasamutpàdam),
diệt hý luận (prapaĩcopazamam) và thiện (zivam) là những từ
đồng cách, do dó được hiểu là đồng nghĩa, va cùng chỉ
chung một thực tại. TS
[3]
Thiện, trong các giải thích Hán đều hiểu là trạng từ,
do đó thiện diệt... được giải thích là “diệt trừ một
cách khéo léo, toàn thiện.” Thiện trong bản Sanskrit là ziva:
an ổn, cát tường, tịch tĩnh... Giải thích của Prasannapàda:
sarvaprapaĩcopamazivalakwaịaư nirvàịaư... “các phẩm tính
diệt hý luận, an ổn (ziva), chỉ cho Niết-bàn.” TS
[4]
Đại Tự Tại thiên, hay Ma-hê-thủ-la thiên (Skt. Mahezvara),
biệt danh của Ziva (Thần Thấp-bà), Thượng đế, hay Thần
sáng tạo thế gới, vạn vật; một chi phái tín ngưỡng thuộc
Ấn độ giáo.
[5]
Vi-nựu thiên (Viwịu), Thượng đế, hay Thần sáng tạo. Nguyên là thần Mặt trời. Cùng với Brahman, và Ziva, họp thành
Tam vị nhất thể (trimùrti) hay Chúa Ba ngôi của Ấn độ giáo.
TS
[6]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ (Đại 42, tr. 15a): dẫn Đề-bà,
“Có một phái ngoại đạo chủ trương trước khi có loài
người, tồn tại một người nam và một người nữ.Từ hai
người này sinh ra vạn vật; do đó nói là sinh từ sự hòa
hiệp.” Bản Skt., Akutobhaya (Vô úy luận): ìzvarapuruwobhaya-...,
“từ Chúa trời, từ Linh hồn nguyên thủy, từ cả hai...”
TS
[7]
Cát Tạng, sđd. : chủ trương của phái Minh sơ. Thế giới
khởi nguyên từ sự tối tăm mông muội. Chủ trương này liên
hệ với thuyết Prakfti của Số luận (Sankhyà). TS
[8] Ngài Long Thọ Bồ tát muốn chúng ta nhận định lại hoặc
hiểu thêm về lý nhân duyên sanh một cách hữu lý, không rơi
vào thiên kiến, mê chấp, cố định. Phật Pháp là bất định
pháp. Nó phải được thể hiện qua thời gian, không gian, tùy
căn cơ của mỗi từng lớp nhân sanh, trình độ trí thức
hay kém trí thức. Bịnh trầm trọng của nhân loại chúng sanh
là bịnh thiên kiến, cố chấp; các pháp thường tồn, đoạn
diệt, hay là do Thượng đế, Phạm Thiên sáng tạo v.v…. chính
nguyên nhân cố chấp làm trở ngại con đường khai phóng tự
tại giải thoát. Cố chấp là không có tinh thần uyển chuyển,
mở tầm mắt, tâm hồn khoáng đại, để nhận lãnh và quan
sát cùng tận chân lý phổ quát, tòan diện. Nói rằng các
pháp có nhân duyên sanh; sự thật ngày nay không ai còn nghĩ
rằng sự vật trong vũ trụ này là từ vô nhân hay ngẫu nhiên
có, mà không phải từ nhiều nhân tố, phương tiện điều
kiện hợp thành, như cái bàn, cái ghế. Ngay bản thân chúng
ta, cũng do nhiều nhân tố hợp thành… Nhưng chúng ta đừng
khẳng định rằng tất cả đều do nhân duyên sanh mà cố
chấp nhân duyên.
[9] Các pháp do nhân duyên sanh là chính nó không có tự tánh. Tự
tánh là chỉ bản thể thường trú mà Long Thọ Bồ Tát gọi
là Zùnya, tánh chân không. Bản thể này không phải từ nhân
duyên hay phi nhân duyên. Do đó tự tánh bản thể chân không
là tánh bất sanh bất diệt…
[10] Nhưng nếu chúng ta quan niệm rằng, ngoài pháp nhân duyên sanh
có một tự tánh thường trú khác, thuộc phi nhân duyên, quan
niệm như thế cũng là sai lầm thiên kiến. Còn có quan niệm
về hữu nhân duyên, phi nhân duyên v.v… là còn các biến chấp
trước có không.
[11]
Nhân duyên (hetu-pratyaya), điều kiện để sanh là nguyên nhân
trực tiếp. Không nên nhầm với từ nhân duyên trong đề của
chương. TS
[12]
Thứ đệ duyên, cũng gọi là đẳng vô gián duyên (samanantara-pratyaya),
điều kiện để phát sanh là sự tiếp nối liên tục. TS
[13]
Duyên duyên, hay sở duyên duyên (àlambana-pratyaya), điều kiện
để thức sanh khởi là đối tượng để thức bám vào. TS
[14]
Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya), điều kiện là những
tác động gian tiếp (của môi trường). TS
[15] Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. Như thế
với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm rằng quả không
khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. “Nhân nào quả ấy” quan
niệm như thế không phải sai, song không phải hoàn toàn đúng.
Bởi vì, nếu quả giống nhân, nhân quả không khác, như vậy
người ta đặt danh từ nhân quả làm gì? Nhân quả không khác,
có nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế
nhân quả là một. Khi nói nhân trong ấy đã có quả thì không
cần nói quả của nhân, thêm thừa.
[16]
Như nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng.
Nhân khác, quả khác thì cũng như nói hột mang cầu (nhân)
sanh ra trái mít (quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong
nhân không có quả, quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả,
vô quả, phi nhân, phi quả… là quan niệm còn trong tư tưởng
lẫn quẩn. Thấu triệt chân lý Phật giáo là người phải
nhận định phân minh các nghĩa hẹp, nghĩa rộng, sự lý và
tương đối tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy duyên
bất biến, bất biến tùy duyên.
[17]
Hán: phi hữu sanh, nên hiểu là không hiện hữu hay không tồn
tại; Skt. na san... TS
[18]
Bài tụng này phê phán khái niệm “nhân” hay nguyên nhân
(hetu), tức duyên thứ nhất trong bốn duyên. Nhưng theo Cát
Tạng, cả 4 bài tụng trên đều nhắm phê phán về nhân duyên;
3 bài kế tiếp, phê phán 3 duyên còn lại. TS
[19]
Cát Tạng, Trung quán luận sớ 3 (Đại 30, tr. 49b): Trong Thượng
tọa bộ, có một Luận sư chủ truơng (đây chỉ Ttheravàda-Pali)
rằng sắc pháp diệt ngay khi vừa sanh, nhưng tâm pháp tồn
tại trong 15 sát-na mới diệt. TS
[20]
Hán: dục diệt, vị dục diệt. Luận sớ của Cát Tạng đọc
là dục diệt bất dục diệt, và giải thích: “ dục diệt,
chỉ phần sắp diệt trong hiện tại.; bất dục diệt, chỉ
phần bắt đầu sanh trong hiện tại.” (Trung quán luận sớ
3, Đại 30, tr. 50a). TS
[21]
Phân biệt hai từ duyên đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ duyên
trước, Skt. àlambana, sự (hay cái, để) vin vào, bám vào. Từ
duyên sau, Skt. pratyaya, điều kiện cần có để phát sanh. TS
[22]
Từ Skt. trong bản La-thập đọc là sad- dharma (chân thật vi
diệu pháp. Các bản Sanskrit hiện có đều đọc là san dharma
(pháp đang tồn tại). TS
[23] Chính thế, Bồ tát Long Thọ áp dụng luận cứ uyển chuyển
bằng học thuyết “Tánh Không” trong Trung Quán luận, bắt
đầu bằng nguyên lý nhân duyên sanh. Vì đây là đầu mối
đưa đến diệt vọng chấp và giải thoát toàn diện, giác
ngộ viên mãn qua lý Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế.
[24]
Tham chiếu bản Skt.: bhàvànàư nihïsvabhàvànàư na sattà vidyate
yatahï, “vì không thể nhận thức được sự hiện hữu của
những hữu thể vốn không tự hữu.”
[25]
Tóm tắt phát biểu về duyên khởi của Phật: thử hữu cố
bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh... (asmin satìdaư bhavati). TS
[66]
Hán: lược quảng nhân duyên trung; tham chiếu bản Skt.: (...)
vyasta-samastewu pratyayewv-..., “trong các điều kiện bị tách
rời hay được kết hợp.” TS
[27]
Tham chiếu Skt.: phalaṃ ca pratyayamayaư pratyatàz càsvayammayàh,
“kết quả là cái được tác thành bởi duyên (điều kiện);
nhưng các duyên lại là những cái không tự tác thành.”