Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8022)
Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ tư: Bát Quan Giới Trai
Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

I. NGÀY LỤC TRAI LÀ GÌ?

Đoạn trước đã nói, các ngày mùng 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng âm lịch là ngày lục trai. Trong 6 ngày này, người thế tục nên thọ trì Bát quan giới trai.

Không ăn phi thời là điều Phật giáongoại đạo cùng thực hành, ngày lục trai cũng là điều Phật giáongoại đạo cùng thủ trì. Ở đây chúng ta cần phải hiểu rõ Phật phápngoại đạo trong nhiều quan niệm về pháp nhân thiên có thể tương đồng. Ngoại đạo tuy không sâu rộng bằng Phật pháp, nhưng nhận thức của ngoại đạo trong pháp nhân thiên có nhiều điểm Phật giáo có thể thừa nhận. Chỉ cần là đúng chánh pháp, thì dù ngoại đạo nói vẫn phải được tôn trọng. Nếu như không đúng, tuy là Phật tử nói cũng không thể tin. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo.

Ngày lục trai, Phạn ngữ gọi là Bô sa tha (Posadha), cùng với Bố tát của Phật giáo (mỗi nửa tháng Bố tát thuyết giới) đồng một nghĩa là trưởng tịnh, nghĩa là trưởng dưỡng thiện pháp, thanh tịnh phạm hạnh. Kỳ thật, Tỳ kheo nửa tháng Bố tát thuyết giới cùng với 6 ngày trai có quan hệ rất sâu xa, như Tát Bà Đa Bộ Tỳ Ni Ma Đắc Lặc Già quyển 6: “Các ngoại đạo ở thành Vương Xá ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng Kinh được nhiều lợi dưỡng, quyến thuộc thêm đông. Bình Sa Vương tin Phật pháp Tăng đi đến chỗ Phật… Phật nói cho các Tỳ kheo ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng kinh thuyết pháp”. (Ấn Độ đương thời đem một tháng chia làm 2 tháng gọi là bạch nguyệthắc nguyệt, mỗi tháng chỉ có 15 ngày từ 1 đến 15, không có 16 đến 30). Đến việc Bố tát, nguyên nhân cũng vì “các ngoại đạo Phạm chí ở thành Vương Xá mỗi tháng 3 lần tập họp, những người quen biết quây quần cúng dường thức ăn uống. Phật khuyên Bình Sa Vương đặt pháp chế, có Tỳ kheo thuyết pháp cho bạch y, bạch y thí thực cho Tỳ kheo, nguyên mỗi tháng 2 lần, dần dần tăng lên 6 ngày trai, 8 ngày trai (xem Phật học Đại Từ điển, trang 862 của Đinh Phúc Bảo) cho đến tăng lên 10 ngày trai.

Đủ thấy việc nửa tháng Tỳ kheo Bố tát 1 lần và nửa tháng 3 lần thọ bát của Bát giới đồng phát xuất từ một nguyên nhân.

Vậy vì sao phải chọn 6 ngày này làm ngày trai?

Kinh Đại Bát Nhã quyển 14: “Sáu ngày trai trong tháng là mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30, chư thiên hội họp”. Kinh Tứ Thiên Vương ghi: “Ngày trai chư Thiên xem xét người thiện ác: Tu Di Thiên Vương tức là đệ nhị thiên, Thiên đế tên Thích Đề Hoàn Nhân phước đức vòi vọi, Điển chủ tứ thiên, Tứ thiên Thần vương, tức là Nhân Tứ Trấn Vương mỗi người quản một phương, thường thường mỗi tháng vào ngày mùng 8 sai sứ giả xuống đi khắp thiên hạ dò xét đế vương, thần dân, long quy, các loài côn trùng, tâm nghĩ miệng nói thân làm thiện ác. Ngày 14, sai Thái tử xuống; ngày 15, Tứ Vương xuống; ngày 23, Sứ giả xuống; ngày 29, Thái tử lại xuống; ngày 30, Tứ vương tự xuống”.

Luận Đại Trí Độ quyển 13, hỏi: “Vì sao ngày lục trai phải nên thọ giới, tu phước đức?”

Đáp: “Những ngày ấy ác quỷ theo người muốn đoạt mạng người, tật bệnh hung suy khiên người không an, cho nên từ kiếp sơ, Thánh nhân dạy người trì trai tu phước để tránh hung suy”.

Về nguyên do của 6 ngày trai có nhiều truyền thuyết, trong các bộ kinh phần nhiều nói giống nhau, Luận Đại Trí Độ nêu ra rõ ràng nhất; nếu thích, bạn có thể tham duyệt Đại Chánh Tạng tập 25 trang 60.

Luận Tỳ Bà Sa quyển 41: “Thường thường vào ngày 14, hoặc ngày 15 của bạch nguyệt, hắc nguyệt mỗi tháng, Tam thập tam thiên tập họp ở Thiện Pháp đường đánh giá thế gian thiện ác nhiều ít. Thấy người làm thiện ủng hộ, thấy người ác làm thì cùng nhau ghét bỏ”.

Chúng ta không cần nêu ra thêm nữa, thật ra mục đích ta trì giới trai chẳng phải sợ thiên thần đến dò xét thiện ác, chẳng phải sợ bệnh tật hung suy, cũng chẳng sợ thiên thần ghét bỏ, mà là vì gieo trồng cái nhân xuất thế. Nhưng trong mỗi tháng đã có 6 ngày này là trọng yếu hơn các ngày khác, vì thế Đức Phật cũng chọn 6 ngày này làm ngày trai của Bát quan trai giới. Tuyệt chẳng phải nói chỉ có 6 ngày này mới có thể làm ngày trai. Và cũng chẳng phải nói: chỉ có 6 ngày trai này phải nên trì giới trai, các ngày khác chẳng nên làm ngày giới trai.

Nhân vì thọ trì giới trai, mỗi ngày thọ trì, mỗi ngày đều có công đức. Sáu ngày trai chỉ trì một ngày cũng có công đức một ngày. Nếu chẳng trì giới trai, lại tạo ác nghiệp, bình thường làm ác còn phải chịu khổ báo, huống chi 6 ngày trai làm ác, cố nhiên đắc tội. Đức Phật cũng dùng 6 ngày như ngoại đạo Ấn Độ, nhưng lại khuyên đệ tử tại gia thọ trì giới trai. Đây cũng là một thứ phương tiện khéo léo.

II. THẾ NÀO LÀ GIỚI TRAI THANH TỊNH?

Bát quan trai giới chỉ có 8 điều, song muốn thọ trì thanh tịnh thật cũng chẳng phải dễ. Thân chẳng làm ác: Không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các môn nghệ thuật cũng không cố đến xem nghe, không nằm giường lớn cao rộng. Miệng chẳng làm ác: Không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời. Những điều này chỉ cần quyết tâm làm thì cũng có thể làm được. Đến như muốn cho ý không nghĩ ác mới rất là khó. Rất khó khống chế vọng niệm cuồn cuộn nổi dậy bất duyệt, tâm chí lơi lỏng một chút không tập trung, vọng niệm liền thừa kẽ hở xen vào. Trong vọng niệm có thiện, có ác, có vô ký; thiện thì không hại, vô ký cũng không tổn bao nhiêu, chỉ có ác niệm như niệm sát sinh, niệm trộm cướp, niệm dâm dục, niệm vọng ngữ, niệm uống rượu, cho đến niệm ăn phi thời, chỉ cần một niệm khởi, bất luận quá khứ, niệm vị lai đều là trai không thanh tịnh, chỉ vì chưa phát ra hai nghiệp thân miệng nên chưa phải là phá giới.

Nếu có người chuẩn bị ngày mai thọ trì Bát quan trai giới cho rằng ngày mai chẳng thể làm các việc sát sinh, trộm cướp, dâm dục cho đến chẳng thể ăn phi thời, nên hôm nay cố ý phóng túng một phen. Người như thế, ngày mai tuy có thể thọ trì giới trai thanh tịnh cũng không kể là thanh tịnh. Hoặc có người hôm nay thọ trì Bát quan trai giới thanh tịnh lại có ý ngày mai làm các việc sát sinh, trộm cướp, dâm dục cho đến chuẩn bị ăn phi thời, cũng không kể là thanh tịnh. Người trì giới trai quý ở tâm là niệm xuất ly thế gian, quý ở sự buông bỏ ràng buộc của ngũ dục. Nếu tâm không thanh tịnh, trai sẽ không thanh tịnh, đâu có thể ôm tâm tham đắm ngũ dục thọ trì giới trai!

Do đó, Phật ở trong kinh Ưu bà Tắc giới quyển 5 có nói: “ Nếu muốn thọ trai, trước hết phải dạy ngăn các điều ác mới được thành tựu. Nếu trước chẳng ngăn điều ác mà thọ trai thì không gọi là đắc trai”. Đủ thấy trước khi thọ trai, chẳng những phải chuẩn bị thân tâm thanh tịnh, lại còn phải chính miệng mình nói với người khác để cho người khác cũng biết mình thọ trì giới trai.

Làm thế nào để được giới trai thanh tịnh?

Đại sư Ngẫu Ích ở cuối quyển Ưu bà tắc Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu nói: “Ngày trai giới không được đánh chúng sinh, không được thân miệng làm việc mất oai nghi, không được khởi các phiền não tham dục, sân nhuế, tà ác, lại cần phải tu lục niệm. Bốn điều cấm kể trên nếu phạm, tuy không phá trai nhưng trai giới cũng không thanh tịnh”.

Sáu ngày trai thọ Bát quan giới trai vì đề phòng vọng niệm sinh tử, vì tăng công đức giới trai, phương pháp tốt nhất là chuyên trì lục niệm.

1. Niệm Phật: Phật là đấng Đạo sư từ bi, pháp môn niệm Phật trừ được ngu si. Niệm thật tướng Phật trừ được ác ý. Niệm tướng hảo Phật trừ được thói quen giận hờn.

2. Niệm Pháp: Pháp là mẹ của chư Phật, pháp của Phật nói ra vô lượng vô biên, dùng 37 đạo phẩm có thể tuần tự tiến lên hòan thành sự tu chứng, vì thế nên niệm 37 đạo phẩm, nội dung như sau:

- Tứ niệm xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

- Tứ chánh cần: Ác chưa sinh không cho sinh, ác đã sinh phải diệt, thiện chưa sinh phải làm cho sinh, thiện đã sinh phải làm cho tăng trưởng.

- Tứ như ý túc: Dục (hâm mộ pháp tu trì), niệm (nhất tâm chánh trụ niệm sở quán), tinh tấn (tu tập không biếng nhác), huệ (tư duy tâm không tán loạn).

- Ngũ căn: Tín (tin vào chánh đạo), tinh tấn (siêng năng cầu đạo không dừng), niệm (nhất tâm quán tưởng), định (nhất tâm tịch định), huệ (tánh bên trong tự chiếu soi)

- Ngũ lực: Do ngũ căn mà phát sinh ra 5 thứ lực lượng phá trừ năm chướng: Tín lực phá từ phiền não, tấn lực phá trừ biếng nhác, niệm lực phá trừ tà tưởng, định lực phá trừ vọng tưởng, huệ lực phá trừ tất cả tà ngoại.

- Thất giác chi: Niệm (suy niệm tu các đạo pháp để cho định huệ quân bình), trạch pháp (dùng trí giản trạch sự chân ngụy của pháp), tinh tấn (dùng tâm dõng mãnh lìa tà hạnh, hành chánh pháp), hỷ (tâm được pháp thiện liền sinh hoan hỷ), khinh an (đoạn trừ sự thô trọng của thân tâm, thân tâm nhẹ nhàng thơ thới), định (tâm trụ một cảnh), hành xả (xả bỏ các sai lầm, xả bỏ tất cả pháp).

- Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định, chánh niệm, chánh mạng.

3. Niệm tăng: Căn cứ vào Kinh Phật Thuyết Trai, Tăng là phước điền của Trời, người, ở nay nói niệm Tăng là niệm Chân thật Tăng hoặc Thắng nghĩa Tăng là Thánh Tăng tứ song bát bối chứng đắc được tứ quảTứ hướng quả. Nhưng đối với Tỳ kheo phàm phu Tăng, cũng phải cung kính cúng dường. Ở đây nói niệm là niệm công đức của Tăng. Vì thế, muốn niệm Thắng nghĩa chân thật Tăng, ngày thường y chỉ học tập vẫn phải lấy thế tục Tăng trì giới biết hổ thẹn làm chủ. Nhân vì Phạn ngữ: Tăng già (Sangha) nghĩa là Hòa hợp chúng, hoặc dịch là chúng. Ở Ấn Độ, 4 người trở lên gọi là chúng; vì thế, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni từ 4 người trở lên có thể gọi là Tăng già. Người thế tục, từ 4 người trở lên cũng có thể gọi là Tăng già, do đó đệ tử Phật nói chung phân ra làm 7 chúng cho đến 9 chúng. Vì thế Kinh A Hàm có đem “quy y Tăng” dịch thành “quy y chúng”. Nhân đây có người cho rằng: Đã gọi là quy y chúng đâu cần quyết định quy y người xuất gia? Thật ra, đây là một lập luận sai lầm, mang tội rất lớn. Vì Đức Phật chưa từng nói quy y Tăng tức là quy y chúng tại gia, mà lúc nào cũng nói: “Quy y Tỳ kheo Tăng”. Khi mới thành đạo, Phật chưa độ Tỳ kheo Tăng, nhưng khi độ đệ tử tại gia, Ngài cũng dạy cho họ quy y Tỳ kheo Tăng vị lai. Đây chính là điều chứng minh quan trọng hơn hết. Vì có nơi hiểu lầm định nghĩa của chữ Tăng, nên ở đây tôi nói thêm cho rõ.

4. Niệm thiên: trên cõi trời sống lâu an lạc, nhân vì thọ trì công đức ấy cảm được thọ báo sinh lên đệ lục thiên của Dục giới, nếu nhất tâm niệm, được quả báo sinh lên trời sống lâu an lạc.

5. Niệm giới: Trì giới ba nghiệp được thanh tịnh. Bát quan trai tuy chỉ 8 điều, nhưng phạm vi của sức giới có thể lớn đến vô cùng vô cực, trì một giới sát là có thể ở trên một phần tất cả chúng sinh được công đức không sát sinh; ngoài ra, các giới khác cũng có thể theo đây đoán biết. Cứu cánh của Bát giới cũng gồm đủ Định cộng giới (do Định khai phát nên gọi là Thiền giới, do định lực tự nhiên không phạm gọi là Định cộng giới), Đạo cộng giới (chứng được thánh quả lên thánh vị, tuy không thọ giới, trì giới cũng có thể cùng giới tương ưng là luôn luôn thanh tịnh, cho nên gọi là đạo cộng giới). Nhân vì ngũ giới là nền tảng của tất cả giới cho nên công đức lớn nhỏ tùy theo sự phát tâm mà được, nếu dùng tâm Bồ tát trì ngũ giới; ngũ giới tức thành đại thừa giới, còn nếu cầu phước báo nhân thiên mà trì Bồ tát giới thì Bồ tát giới cũng đồng như ngũ giới.

6. Niệm thí: Cứu giúp tất cả người nghèo. Nghèo nàn có 3 thứ: Nghèo nàn về của cải, nghèo nàn về phương pháp tu phước tu đạo, nghèo nàn về kiến thức làm người xuất thế. Vì thế, Bố thí cũng có 3 thứ: Bố thí tài vật, bố thí pháp, bố thí vô úy. Tài vật làm cho sinh hoạt vật chất chúng sinh cải thiện. Phật pháp làm cho sinh hoạt tinh thần của chúng sinh sung mãn. Vô úy làm cho chúng sinh kê vai gánh vác đạo nghĩa, chọn thiện mà theo, dõng mãnh tiến tới. Căn cứ vào sự giải thích của Luận Trì Độ: “Người trì giới không phạm tài vật của người còn đem tài vật của mình thí cho người khác gọi là Tài thí; hay vì người khác thuyết pháp khiến họ khai ngộ đắc đạo gọi là Pháp thí; tất cả chúng sinh đều có tâm sợ chết, người trì giới không có tâm sát hại, hay khiến cho chúng sinh không sợ hãi gọi là Vô úy thí”.

Đoạn văn trên giới thiệu nhiều danh tướng khô khan vô vị, đối với người mới vào cửa Phật mà nói, thì thật là khó khăn. Chỉ đem nội dung của lục niệm phân biệt rành rẽ đã chẳng phải dễ, lại thêm cần phải nhất tâm nhất ý niệm pháp lục niệm này lại càng khó hơn. Nhưng đây là một thứ quy định của pháp môn tu Bát quan trai giới, nếu có thể làm đúng như pháp thì tốt lắm. Nếu như dụng công phu lục niệm không nổi thì nên dùng phương pháp trì danh niệm thánh hiệu Phật trong kinh Tiểu thừa, tức là niệm công đức tướng hảo của Phật; hay là niệm Phật trong tông Tịnh độ, đó là chuyên tâm trì niệm thánh hiệu Phật A Di Đà. Nếu có phương tiện khác, tỷ như trì chú, tụng kinh, lễ sám cũng được. Như trong Kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện nói: “Nếu chúng sinh đời vị lại, mỗi tháng vào ngày mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30, trong 10 ngày trai này đối trước tượng Phật, Bồ tát, chư Hiền Thánh đọc Kinh Địa Tạng này một lần thì Đông, Tây, Nam, Bắc trong trăm do tuần không có tai nạn, ngay trong gia đình hoặc lớn hoặc nhỏ, hiện tại, vị lai trong trăm ngàn năm hằng lìa đường ác!”. Chúng ta thấy 10 ngày trai là ngoài 6 ngày trai ra còn thêm 4 ngày mùng 1, 18, 24, 28. Mười ngày này nên đọc tụng Kinh Địa Tạng thì 6 ngày trai cũng nên đọc tụng Kinh Địa Tạng.

Trong Kinh Dược Sư cũng nói: “Thọ bát phần trai giới lại phải nên niệm công đức bổn nguyện của đức Như lai (Dược Sư), đọc tụng kinh (Dược Sư) này, tư duy nghĩa lý, diễn nói khai thị”. Do đây chứng minh ngày thọ trì bát giới có thể tụng kinh. Nguyên do của 6 ngày trai là Bình Sa Vương thỉnh Phật thuyết pháp trong 6 ngày này để thấy trưng dẫn ở trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14730)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11802)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12042)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15261)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10492)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12446)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16411)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14282)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11753)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11552)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12715)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11324)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52058)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15445)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13952)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11416)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13145)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12759)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13195)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17883)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12430)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12634)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54179)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9911)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13809)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14472)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20112)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15381)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17476)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11905)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13472)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14641)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12143)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12520)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25550)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14520)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42040)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28293)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38767)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14706)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12683)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16231)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant