Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8045)
Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ tư: Bát Quan Giới Trai
Chương 2: Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh

I. NGÀY LỤC TRAI LÀ GÌ?

Đoạn trước đã nói, các ngày mùng 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng âm lịch là ngày lục trai. Trong 6 ngày này, người thế tục nên thọ trì Bát quan giới trai.

Không ăn phi thời là điều Phật giáongoại đạo cùng thực hành, ngày lục trai cũng là điều Phật giáongoại đạo cùng thủ trì. Ở đây chúng ta cần phải hiểu rõ Phật phápngoại đạo trong nhiều quan niệm về pháp nhân thiên có thể tương đồng. Ngoại đạo tuy không sâu rộng bằng Phật pháp, nhưng nhận thức của ngoại đạo trong pháp nhân thiên có nhiều điểm Phật giáo có thể thừa nhận. Chỉ cần là đúng chánh pháp, thì dù ngoại đạo nói vẫn phải được tôn trọng. Nếu như không đúng, tuy là Phật tử nói cũng không thể tin. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo.

Ngày lục trai, Phạn ngữ gọi là Bô sa tha (Posadha), cùng với Bố tát của Phật giáo (mỗi nửa tháng Bố tát thuyết giới) đồng một nghĩa là trưởng tịnh, nghĩa là trưởng dưỡng thiện pháp, thanh tịnh phạm hạnh. Kỳ thật, Tỳ kheo nửa tháng Bố tát thuyết giới cùng với 6 ngày trai có quan hệ rất sâu xa, như Tát Bà Đa Bộ Tỳ Ni Ma Đắc Lặc Già quyển 6: “Các ngoại đạo ở thành Vương Xá ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng Kinh được nhiều lợi dưỡng, quyến thuộc thêm đông. Bình Sa Vương tin Phật pháp Tăng đi đến chỗ Phật… Phật nói cho các Tỳ kheo ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng kinh thuyết pháp”. (Ấn Độ đương thời đem một tháng chia làm 2 tháng gọi là bạch nguyệthắc nguyệt, mỗi tháng chỉ có 15 ngày từ 1 đến 15, không có 16 đến 30). Đến việc Bố tát, nguyên nhân cũng vì “các ngoại đạo Phạm chí ở thành Vương Xá mỗi tháng 3 lần tập họp, những người quen biết quây quần cúng dường thức ăn uống. Phật khuyên Bình Sa Vương đặt pháp chế, có Tỳ kheo thuyết pháp cho bạch y, bạch y thí thực cho Tỳ kheo, nguyên mỗi tháng 2 lần, dần dần tăng lên 6 ngày trai, 8 ngày trai (xem Phật học Đại Từ điển, trang 862 của Đinh Phúc Bảo) cho đến tăng lên 10 ngày trai.

Đủ thấy việc nửa tháng Tỳ kheo Bố tát 1 lần và nửa tháng 3 lần thọ bát của Bát giới đồng phát xuất từ một nguyên nhân.

Vậy vì sao phải chọn 6 ngày này làm ngày trai?

Kinh Đại Bát Nhã quyển 14: “Sáu ngày trai trong tháng là mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30, chư thiên hội họp”. Kinh Tứ Thiên Vương ghi: “Ngày trai chư Thiên xem xét người thiện ác: Tu Di Thiên Vương tức là đệ nhị thiên, Thiên đế tên Thích Đề Hoàn Nhân phước đức vòi vọi, Điển chủ tứ thiên, Tứ thiên Thần vương, tức là Nhân Tứ Trấn Vương mỗi người quản một phương, thường thường mỗi tháng vào ngày mùng 8 sai sứ giả xuống đi khắp thiên hạ dò xét đế vương, thần dân, long quy, các loài côn trùng, tâm nghĩ miệng nói thân làm thiện ác. Ngày 14, sai Thái tử xuống; ngày 15, Tứ Vương xuống; ngày 23, Sứ giả xuống; ngày 29, Thái tử lại xuống; ngày 30, Tứ vương tự xuống”.

Luận Đại Trí Độ quyển 13, hỏi: “Vì sao ngày lục trai phải nên thọ giới, tu phước đức?”

Đáp: “Những ngày ấy ác quỷ theo người muốn đoạt mạng người, tật bệnh hung suy khiên người không an, cho nên từ kiếp sơ, Thánh nhân dạy người trì trai tu phước để tránh hung suy”.

Về nguyên do của 6 ngày trai có nhiều truyền thuyết, trong các bộ kinh phần nhiều nói giống nhau, Luận Đại Trí Độ nêu ra rõ ràng nhất; nếu thích, bạn có thể tham duyệt Đại Chánh Tạng tập 25 trang 60.

Luận Tỳ Bà Sa quyển 41: “Thường thường vào ngày 14, hoặc ngày 15 của bạch nguyệt, hắc nguyệt mỗi tháng, Tam thập tam thiên tập họp ở Thiện Pháp đường đánh giá thế gian thiện ác nhiều ít. Thấy người làm thiện ủng hộ, thấy người ác làm thì cùng nhau ghét bỏ”.

Chúng ta không cần nêu ra thêm nữa, thật ra mục đích ta trì giới trai chẳng phải sợ thiên thần đến dò xét thiện ác, chẳng phải sợ bệnh tật hung suy, cũng chẳng sợ thiên thần ghét bỏ, mà là vì gieo trồng cái nhân xuất thế. Nhưng trong mỗi tháng đã có 6 ngày này là trọng yếu hơn các ngày khác, vì thế Đức Phật cũng chọn 6 ngày này làm ngày trai của Bát quan trai giới. Tuyệt chẳng phải nói chỉ có 6 ngày này mới có thể làm ngày trai. Và cũng chẳng phải nói: chỉ có 6 ngày trai này phải nên trì giới trai, các ngày khác chẳng nên làm ngày giới trai.

Nhân vì thọ trì giới trai, mỗi ngày thọ trì, mỗi ngày đều có công đức. Sáu ngày trai chỉ trì một ngày cũng có công đức một ngày. Nếu chẳng trì giới trai, lại tạo ác nghiệp, bình thường làm ác còn phải chịu khổ báo, huống chi 6 ngày trai làm ác, cố nhiên đắc tội. Đức Phật cũng dùng 6 ngày như ngoại đạo Ấn Độ, nhưng lại khuyên đệ tử tại gia thọ trì giới trai. Đây cũng là một thứ phương tiện khéo léo.

II. THẾ NÀO LÀ GIỚI TRAI THANH TỊNH?

Bát quan trai giới chỉ có 8 điều, song muốn thọ trì thanh tịnh thật cũng chẳng phải dễ. Thân chẳng làm ác: Không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không đeo tràng hoa thơm, không xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các môn nghệ thuật cũng không cố đến xem nghe, không nằm giường lớn cao rộng. Miệng chẳng làm ác: Không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời. Những điều này chỉ cần quyết tâm làm thì cũng có thể làm được. Đến như muốn cho ý không nghĩ ác mới rất là khó. Rất khó khống chế vọng niệm cuồn cuộn nổi dậy bất duyệt, tâm chí lơi lỏng một chút không tập trung, vọng niệm liền thừa kẽ hở xen vào. Trong vọng niệm có thiện, có ác, có vô ký; thiện thì không hại, vô ký cũng không tổn bao nhiêu, chỉ có ác niệm như niệm sát sinh, niệm trộm cướp, niệm dâm dục, niệm vọng ngữ, niệm uống rượu, cho đến niệm ăn phi thời, chỉ cần một niệm khởi, bất luận quá khứ, niệm vị lai đều là trai không thanh tịnh, chỉ vì chưa phát ra hai nghiệp thân miệng nên chưa phải là phá giới.

Nếu có người chuẩn bị ngày mai thọ trì Bát quan trai giới cho rằng ngày mai chẳng thể làm các việc sát sinh, trộm cướp, dâm dục cho đến chẳng thể ăn phi thời, nên hôm nay cố ý phóng túng một phen. Người như thế, ngày mai tuy có thể thọ trì giới trai thanh tịnh cũng không kể là thanh tịnh. Hoặc có người hôm nay thọ trì Bát quan trai giới thanh tịnh lại có ý ngày mai làm các việc sát sinh, trộm cướp, dâm dục cho đến chuẩn bị ăn phi thời, cũng không kể là thanh tịnh. Người trì giới trai quý ở tâm là niệm xuất ly thế gian, quý ở sự buông bỏ ràng buộc của ngũ dục. Nếu tâm không thanh tịnh, trai sẽ không thanh tịnh, đâu có thể ôm tâm tham đắm ngũ dục thọ trì giới trai!

Do đó, Phật ở trong kinh Ưu bà Tắc giới quyển 5 có nói: “ Nếu muốn thọ trai, trước hết phải dạy ngăn các điều ác mới được thành tựu. Nếu trước chẳng ngăn điều ác mà thọ trai thì không gọi là đắc trai”. Đủ thấy trước khi thọ trai, chẳng những phải chuẩn bị thân tâm thanh tịnh, lại còn phải chính miệng mình nói với người khác để cho người khác cũng biết mình thọ trì giới trai.

Làm thế nào để được giới trai thanh tịnh?

Đại sư Ngẫu Ích ở cuối quyển Ưu bà tắc Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu nói: “Ngày trai giới không được đánh chúng sinh, không được thân miệng làm việc mất oai nghi, không được khởi các phiền não tham dục, sân nhuế, tà ác, lại cần phải tu lục niệm. Bốn điều cấm kể trên nếu phạm, tuy không phá trai nhưng trai giới cũng không thanh tịnh”.

Sáu ngày trai thọ Bát quan giới trai vì đề phòng vọng niệm sinh tử, vì tăng công đức giới trai, phương pháp tốt nhất là chuyên trì lục niệm.

1. Niệm Phật: Phật là đấng Đạo sư từ bi, pháp môn niệm Phật trừ được ngu si. Niệm thật tướng Phật trừ được ác ý. Niệm tướng hảo Phật trừ được thói quen giận hờn.

2. Niệm Pháp: Pháp là mẹ của chư Phật, pháp của Phật nói ra vô lượng vô biên, dùng 37 đạo phẩm có thể tuần tự tiến lên hòan thành sự tu chứng, vì thế nên niệm 37 đạo phẩm, nội dung như sau:

- Tứ niệm xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

- Tứ chánh cần: Ác chưa sinh không cho sinh, ác đã sinh phải diệt, thiện chưa sinh phải làm cho sinh, thiện đã sinh phải làm cho tăng trưởng.

- Tứ như ý túc: Dục (hâm mộ pháp tu trì), niệm (nhất tâm chánh trụ niệm sở quán), tinh tấn (tu tập không biếng nhác), huệ (tư duy tâm không tán loạn).

- Ngũ căn: Tín (tin vào chánh đạo), tinh tấn (siêng năng cầu đạo không dừng), niệm (nhất tâm quán tưởng), định (nhất tâm tịch định), huệ (tánh bên trong tự chiếu soi)

- Ngũ lực: Do ngũ căn mà phát sinh ra 5 thứ lực lượng phá trừ năm chướng: Tín lực phá từ phiền não, tấn lực phá trừ biếng nhác, niệm lực phá trừ tà tưởng, định lực phá trừ vọng tưởng, huệ lực phá trừ tất cả tà ngoại.

- Thất giác chi: Niệm (suy niệm tu các đạo pháp để cho định huệ quân bình), trạch pháp (dùng trí giản trạch sự chân ngụy của pháp), tinh tấn (dùng tâm dõng mãnh lìa tà hạnh, hành chánh pháp), hỷ (tâm được pháp thiện liền sinh hoan hỷ), khinh an (đoạn trừ sự thô trọng của thân tâm, thân tâm nhẹ nhàng thơ thới), định (tâm trụ một cảnh), hành xả (xả bỏ các sai lầm, xả bỏ tất cả pháp).

- Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định, chánh niệm, chánh mạng.

3. Niệm tăng: Căn cứ vào Kinh Phật Thuyết Trai, Tăng là phước điền của Trời, người, ở nay nói niệm Tăng là niệm Chân thật Tăng hoặc Thắng nghĩa Tăng là Thánh Tăng tứ song bát bối chứng đắc được tứ quảTứ hướng quả. Nhưng đối với Tỳ kheo phàm phu Tăng, cũng phải cung kính cúng dường. Ở đây nói niệm là niệm công đức của Tăng. Vì thế, muốn niệm Thắng nghĩa chân thật Tăng, ngày thường y chỉ học tập vẫn phải lấy thế tục Tăng trì giới biết hổ thẹn làm chủ. Nhân vì Phạn ngữ: Tăng già (Sangha) nghĩa là Hòa hợp chúng, hoặc dịch là chúng. Ở Ấn Độ, 4 người trở lên gọi là chúng; vì thế, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni từ 4 người trở lên có thể gọi là Tăng già. Người thế tục, từ 4 người trở lên cũng có thể gọi là Tăng già, do đó đệ tử Phật nói chung phân ra làm 7 chúng cho đến 9 chúng. Vì thế Kinh A Hàm có đem “quy y Tăng” dịch thành “quy y chúng”. Nhân đây có người cho rằng: Đã gọi là quy y chúng đâu cần quyết định quy y người xuất gia? Thật ra, đây là một lập luận sai lầm, mang tội rất lớn. Vì Đức Phật chưa từng nói quy y Tăng tức là quy y chúng tại gia, mà lúc nào cũng nói: “Quy y Tỳ kheo Tăng”. Khi mới thành đạo, Phật chưa độ Tỳ kheo Tăng, nhưng khi độ đệ tử tại gia, Ngài cũng dạy cho họ quy y Tỳ kheo Tăng vị lai. Đây chính là điều chứng minh quan trọng hơn hết. Vì có nơi hiểu lầm định nghĩa của chữ Tăng, nên ở đây tôi nói thêm cho rõ.

4. Niệm thiên: trên cõi trời sống lâu an lạc, nhân vì thọ trì công đức ấy cảm được thọ báo sinh lên đệ lục thiên của Dục giới, nếu nhất tâm niệm, được quả báo sinh lên trời sống lâu an lạc.

5. Niệm giới: Trì giới ba nghiệp được thanh tịnh. Bát quan trai tuy chỉ 8 điều, nhưng phạm vi của sức giới có thể lớn đến vô cùng vô cực, trì một giới sát là có thể ở trên một phần tất cả chúng sinh được công đức không sát sinh; ngoài ra, các giới khác cũng có thể theo đây đoán biết. Cứu cánh của Bát giới cũng gồm đủ Định cộng giới (do Định khai phát nên gọi là Thiền giới, do định lực tự nhiên không phạm gọi là Định cộng giới), Đạo cộng giới (chứng được thánh quả lên thánh vị, tuy không thọ giới, trì giới cũng có thể cùng giới tương ưng là luôn luôn thanh tịnh, cho nên gọi là đạo cộng giới). Nhân vì ngũ giới là nền tảng của tất cả giới cho nên công đức lớn nhỏ tùy theo sự phát tâm mà được, nếu dùng tâm Bồ tát trì ngũ giới; ngũ giới tức thành đại thừa giới, còn nếu cầu phước báo nhân thiên mà trì Bồ tát giới thì Bồ tát giới cũng đồng như ngũ giới.

6. Niệm thí: Cứu giúp tất cả người nghèo. Nghèo nàn có 3 thứ: Nghèo nàn về của cải, nghèo nàn về phương pháp tu phước tu đạo, nghèo nàn về kiến thức làm người xuất thế. Vì thế, Bố thí cũng có 3 thứ: Bố thí tài vật, bố thí pháp, bố thí vô úy. Tài vật làm cho sinh hoạt vật chất chúng sinh cải thiện. Phật pháp làm cho sinh hoạt tinh thần của chúng sinh sung mãn. Vô úy làm cho chúng sinh kê vai gánh vác đạo nghĩa, chọn thiện mà theo, dõng mãnh tiến tới. Căn cứ vào sự giải thích của Luận Trì Độ: “Người trì giới không phạm tài vật của người còn đem tài vật của mình thí cho người khác gọi là Tài thí; hay vì người khác thuyết pháp khiến họ khai ngộ đắc đạo gọi là Pháp thí; tất cả chúng sinh đều có tâm sợ chết, người trì giới không có tâm sát hại, hay khiến cho chúng sinh không sợ hãi gọi là Vô úy thí”.

Đoạn văn trên giới thiệu nhiều danh tướng khô khan vô vị, đối với người mới vào cửa Phật mà nói, thì thật là khó khăn. Chỉ đem nội dung của lục niệm phân biệt rành rẽ đã chẳng phải dễ, lại thêm cần phải nhất tâm nhất ý niệm pháp lục niệm này lại càng khó hơn. Nhưng đây là một thứ quy định của pháp môn tu Bát quan trai giới, nếu có thể làm đúng như pháp thì tốt lắm. Nếu như dụng công phu lục niệm không nổi thì nên dùng phương pháp trì danh niệm thánh hiệu Phật trong kinh Tiểu thừa, tức là niệm công đức tướng hảo của Phật; hay là niệm Phật trong tông Tịnh độ, đó là chuyên tâm trì niệm thánh hiệu Phật A Di Đà. Nếu có phương tiện khác, tỷ như trì chú, tụng kinh, lễ sám cũng được. Như trong Kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện nói: “Nếu chúng sinh đời vị lại, mỗi tháng vào ngày mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30, trong 10 ngày trai này đối trước tượng Phật, Bồ tát, chư Hiền Thánh đọc Kinh Địa Tạng này một lần thì Đông, Tây, Nam, Bắc trong trăm do tuần không có tai nạn, ngay trong gia đình hoặc lớn hoặc nhỏ, hiện tại, vị lai trong trăm ngàn năm hằng lìa đường ác!”. Chúng ta thấy 10 ngày trai là ngoài 6 ngày trai ra còn thêm 4 ngày mùng 1, 18, 24, 28. Mười ngày này nên đọc tụng Kinh Địa Tạng thì 6 ngày trai cũng nên đọc tụng Kinh Địa Tạng.

Trong Kinh Dược Sư cũng nói: “Thọ bát phần trai giới lại phải nên niệm công đức bổn nguyện của đức Như lai (Dược Sư), đọc tụng kinh (Dược Sư) này, tư duy nghĩa lý, diễn nói khai thị”. Do đây chứng minh ngày thọ trì bát giới có thể tụng kinh. Nguyên do của 6 ngày trai là Bình Sa Vương thỉnh Phật thuyết pháp trong 6 ngày này để thấy trưng dẫn ở trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15785)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11090)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53677)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13007)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16539)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15413)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19175)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19955)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15568)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15366)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15158)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20364)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23983)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15506)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13064)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20167)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13298)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29035)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11724)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18317)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16655)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13257)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12817)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13264)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13004)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12898)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13026)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13562)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11727)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14260)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17756)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22634)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13463)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14349)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105806)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14617)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19807)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15547)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34707)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16075)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11368)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15682)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12843)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13726)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12523)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19394)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27047)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13161)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13491)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17996)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21931)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16088)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16163)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19138)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant