Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Điều Kiện Và Cách Thọ Bát Quan Giới Trai

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7946)
Chương 3: Điều Kiện Và Cách Thọ Bát Quan Giới Trai

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ tư: Bát Quan Giới Trai
Chương 3: Điều Kiện Và Cách Thọ Bát Quan Giới Trai

I. CHỈ CÓ LOÀI NGƯỜI MỚI ĐƯỢC THỌ GIỚI

Trong Tát Bát Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Phàm đắc giới Ba la đề mộc xoa, trong ngũ đạo chỉ có nhân đạo (người) đắc”. Bát giới cũng là giới Ba la đề mộc xoa, cho nên trừ loài người ra, chúng sinh loài khác cho đến thiên nhân cũng không đắc giới. Tuy nhiều chỗ trong kinh có nói: Long (loài rồng) thọ trai pháp với thiện tâm công đức, nhưng không đắc giới. Lại nói: “Trong bốn loài người, một là nam, hai là nữ, ba là huỳnh môn, bốn là người hai căn, chỉ có nam, nữ đắc giới”. Đó là muốn nói ở trong loài người, chỉ có nữ, nam sinh lý bình thường mới có thể đắc giới.

II. NGƯỜI PHẠM TỘI NGŨ NGHỊCH, PHÁ TỊNH GIỚI KHÔNG ĐẮC GIỚI

Trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Trong nam nữ như vậy, nếu người giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu, phá chuyển pháp luân Tăng (5 điều trên là ngũ nghịch), ô Tỳ kheo ni, tặc trụ (người phi pháp mà trụ trong Tăng), việt tế nhân (người xuất giasinh hoạt chứ chẳng phải vì Phật pháp), đoạn thiện căn, những người này thường không đắc giới”.

Trong Kinh Bồ tát Ngũ Giới Tướng nói: “Người phạm đến người tịnh giới của dệ tử Phật, tuy không có tội phạm giới, nhưng sau đó vĩnh viễn không được thọ ngũ giới cho đến xuất gia thọ Cụ túc giới”. Người tịnh giới là chỉ cho người chủ trì giới không dâm. Nếu dụ dỗ cưỡng bức người kiên trì giới không dâm cùng hành dâm gọi là phá tịnh giới người. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma, Sa di, Sa đi ni, Ưu bà tắcƯu bà di trong các ngày thọ trì Bát quan giới trai đều chẳng nên làm cho các vị ấy phá giới. Bằng không, chính mình vĩnh viễn không có tư cách thọ bất cứ Phật giới nào. Nhưng thông thường đều lấy phá tịnh giới nữ ni làm trọng yếu, nhưng phá tịnh giới của người nam cũng không phải là tầm thường. Trong Thập Tụng Luật quyển 40 có ghi một đoạn như vầy: Lúc Phật ở nước Xá Vệ, có một người Bà la môn sinh một người con gái diện mạo xinh đẹp tên là Diệu Quang, về sau cô nói với vị Sa môn Bà la môn khất thực ở nhà cô rằng: “Hãy cùng tôi hành dâm”. Do vì tội của lời nói này mà khi chết cô bị đọa ác đạo ở phương Bắc của nước kia sinh làm dâm long (con rồng nhiều dâm dục). Đây mới chỉ dụ dỗ Sa môn Bà la môn cùng nàng hành dâm, chứ chưa thật sự phá tịnh giới người khác; mà còn bị đọa làm dâm long.

III. THỜI HẠN THỌ TRÌ

Về thời hạn thọ trì Bát quan trai, trong các Kinh Luật nói không giống nhau. Trong Tát Bà Đa Tỳ Ny Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Hỏi: Pháp thọ Bát giới được 2 ngày, 3 ngày, thọ cho đến 10 ngày, thọ một lần một được không?. Đáp: Phật vốn chế định một ngày một đêm không được quá hạn. Nếu có sức muốn thọ nữa thì một ngày qua rồi lần lượt thọ lại, như vậy tùy sức nhiều ít chẳng kể số ngày. Lại hỏi: Nếu chỉ muốn thọ trai pháp ban ngày không thọ ban đêm có đắc bát trai không? Nếu chỉ muốn thọ ban đêm mà không thọ ban ngày, có đắc bát trai không? Đáp: Không đắc. Vì Phật vốn cho pháp một ngày một đêm đã có hạn định không thể trái vậy”. Đây là nói Bát giới chỉ có một ngày một đêm, không được mấy ngày liên tiếp thọ, cũng không được chỉ ban ngày thọ mà ban đêm không thọ, hoặc chỉ thọ ban đêm mà không thọ ban ngày. Tuy ở trong Căn Bản Bộ Bì Cách Sự có ghi chuyện Ức Nhĩ ở đồng nội thấy quả báo của người chỉ thọ trai ban ngày và người chỉ thọ trai ban đêm, nhưng trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 lại giải thích rằng: “Có người nói đây là vì Ngài Ca Chiên Diên muốn độ Ức Nhĩ cho nên biến hóa ra để cảm ngộ tâm Ức Nhĩ chứ chẳng phải là sự thật”.

Nhưng trong Luật Thành Thật nói: “Ngũ giới, Bát giới tùy theo ngày tháng dài ngắn hoặc một năm, một tháng cho đến nửa ngày, nửa đêm, muốn thọ thêm hay giảm bớt đều được”.

Trong Kinh Dược Sư cũng nói: “Có người hay thọ trì bát phần trai giới hoặc 1 năm, hoặc 3 tháng thọ trì học xứ”. Lại nói: “Vì cúng dường Dược Sư Như Lai trước tiên phải tạo lập hình tượng Đức Dược Sư Như Lai, phải 7 ngày 7 đêm thọ Bát phần trai giới”. Đây là nói Bát phần trai giới không nhất định thọ trì vào 6 ngày trai, thời hạn thọ trì có thể hoặc 1 năm, hoặc 3 tháng, hoặc 7 ngày 7 đêm liên tục thọ trì.

Nhưng chiếu theo văn tự thọ giới của Bát giới mà nói, thì lấy một ngày một đêm làm tiêu chuẩn bình thường là chánh là chủ. Nếu như hoàn cảnh không cho phép, hoặc giả phát tâm liên tục thọ trì, ở gần lại không có người có thể làm Thọ giới sư và để khỏi phải nhọc nhằn qua lại mỗi ngày, cũng có thể thọ trì trong thời hạn 1 năm, 1 tháng, mười ngày, vài ngày.

IV. PHƯƠNG THỨC CẦU THỌ GIỚI

Trong Kinh Ưu bà tắc giới quyển 5 nói: “Bát giới này không được hai người cùng thọ một lượt”. Bát giới chỉ được từng người một hướng về Giới sư cầu thọ, nguyên nhân của điều đó căn cứ vào sự giải thích của Luật sư Linh Chi: “Không được nhiều người, đông người lộn xộn tâm chẳng chuyên nhất. Luận rộng về quy giới, thọ riêng từng người là tốt nhất, vì tâm không duyên cảnh khác, pháp không bị lạm dụng”. Đại sư Hoằng Nhất cũng nói: “Ngày nay đông người thọ, đối với lý tuy thông, nhưng rốt cuộc thành ra bất lợi”.

Trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Pháp thọ trai phải từ người khác thọ, vậy thọ từ người nào? – Từ bên 5 chúng xuất gia mà thọ”. Kinh Ưu bá tắc giới quyển 5 cũng nói: “chẳng được ở bên tượng Phật thọ, cần phải từ người khác thọ”. Đủ thấy Bát giới phải ở trước chúng xuất gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni cầu thọ. Nhưng trong Luật Thành ThậtLuận Trí Độ cho phép tự thệ thọ. Luận Thành Thật nói: “Nếu khi không có người, chỉ cần tâm nghĩ miệng nói tôi thọ Bát giới cũng được thành thọ”. Nhưng tự thệ thọ cũng phải có điều kiện, như Phạm Võng Bồ tát Giới có thể tự thệ thọ, nhưng cần phải: “ Nếu trong vòng ngàn dặm không có Thọ giới sư, được ở trước hình tượng Phật, Bồ tát thọ giới, nhưng phải thấy hảo tướng (Phật đến rờ đầu, thấy ánh sáng, thấy hoa, các thứ tướng lạ). Nếu như trường hợp có 5 chúng xuất gia truyền Bát giới, đương nhiên phải hướng về 5 chúng xuất gia cầu thọ Bát giới mới tốt.

Thọ Bát giới có thể đến tự viện cầu thọ, cũng có thể thỉnh Giới sư đến tại nhà truyền. Đại sư Ngẫu Ích nói: “Ưu bà tắc thọ trai đến chùa là tiện, Ưu bà di thọ tại nhà là tiện”. Người nam đi tự viện, người nữ ở tại nhà, song đây không có quy định bắt buộc, chỉ nhìn tình cảnh thực tế tùy duyên cầu thọ bát giới là tốt.

V. CHUẨN BỊ NGÀY TRAI

Bát giới tuy lấy 6 ngày trai làm lệ thường, song gặp ngày vía Phật, Bồ tát, ngày sinh của mình, ngày chết của cha mẹ, hoặc vì ngày lục thân quyến thuộc làm công đức, và tất cả những ngày kỷ niệm, nhớ ân, tu phước, cầu nguyện, đều nên phát tâm thọ trì Bát giới. Nho gia mỗi khi gặp ngày lễ tế tự lớn cũng có công phu chuẩn bị “Trai giới tắm gội”, như Lễ ký nói: “Trai giới để cáo quỷ thần”. Mạnh Tử cũng nói: “Trai giới tắm gội mới có thể tế tự Thượng đế”. Yù nghĩa trai giới của Nho gia có thể tương thông với Phật giáo, song nội dung lại bất đồng.

Trước khi thọ trì Bát giới, ba nghiệp thân miệng ý phải thanh tịnh, cho nên trong Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Nếu thọ Bát giới, trước tiên phải sám hối”. Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Nếu người muốn thọ Bát giới mà trước đó phóng túng nữ sắc hoặc đàn hát, hoặc tham ăn uống, các thứ vui đùa, những việc phóng dật như thế tận tâm làm, rồi sau thọ trai, không luận trung tiền (trước ngọ), trung hậu (sau ngọ), đều chẳng đắc giới. Nếu không có tâm thọ trai, làm các việc phóng dật, sau gặp thiện tri thức liền thọ trai. Nếu vốn không có tâm thọ trai, không luận trung tiền, trung hậu, tất cả đều đắc giới. Nếu muốn thọ trai, vì sự chướng nạn ngăn trở nên chẳng được tự tại, khi chướng nạn giải quyết xong liền thọ trai, không luận trung tiền, trung hậu, tất cả đều đắc giới”.

Văn trên nói: “Trung tiền, trung hậu”, ở đây cần phải giải thích: Thời gian cầu thọ Bát quan giới trai, phải lấy trì từ sáng sớm của ngày trai làm quy tắc chính, ít nhất cũng phải trước ngọ. Ngày nay ở nước Thái Lan đều thọ từ buổi sáng. Thường thường, gặp ngày Phật nhật và ngày Chúa nhật, từ 7, 8 giờ sáng đã có rất nhiều nam nữ Phật giáo tay cầm hoa tươi, nhang đèn và đồ dùng đơn giản của mỗi người, cùng nhau tới chùa dự khóa lễ buổi sáng và nghe chư Tăng thuyết pháp… trước khi thuyết pháp, chư Tăngtín đồ thuyết tam quy ngũ giới. Trong tín đồ có người thọ Bát quan trai giới, hoặc thọ ngũ giớibát giới cùng một lúc. Nhưng lúc chư Tăng nói đến giới thứ 6, 7, 8, người thọ ngũ giới chẳng cần đáp “trì” (Thái Tăng An Cư Ký của Pháp sư Tịnh Hải). Nhưng nếu gặp nghịch duyên làm trở ngại, chỉ cần có tâm niệm thọ trai chậm trễ đến giữa ngọ về sau thọ giới trai cũng được. Nhưng trong Luận Câu Xá cũng nói: “Nếu trước tác ý vào ngày trai thọ bát giới, tuy ăn xong rồi thọ giới trai cũng được”.

VI. NẠP THỌ GIỚI THỂ NHƯ THẾ NÀO?

Những điều quan hệ đến nội dung và yêu cầu của Bát quan giới trai giới thiệu đến đây đại khái cũng đã đầy đủ, bây giờ xin giới thiệu đến phương pháp nạp thọ giới thể.

Tam quy, ngũ giới, bát giới, thuyết giới, cách thọ giới đều rất giản đơn, chỉ cần có sự chuẩn bị kỹ càng trước khi thọ giới, thì lúc thọ rất dễ dàng. Nhưng trong các tự viện lớn ở Trung Quốc đều hay biểu hiện hình thức long trọng bên ngoài. Vì thế, Đại sư Độc Thể cũng có biên soạn một thiên “Thọ Bát Giới Chánh Phạm” nói về cách truyền thọ bát giới nghi thức phân ra làm 8 tiết, cương mục như sau:

1. Trải tòa thỉnh sư: Do Dẫn lễ sư hướng dẫn nghinh thỉnh Hòa thượng thăng tòa.

2. Khai đạo: Khai thị sơ lược về ý nghĩa của Bát giớiphương pháp trì trai.

3. Thỉnh Thánh: Nghinh thỉnh Phật, Pháp TăngHộ pháp Long Thiên.

4. Sám hối: Sám trừ các ác nghiệp quá khứ, ăn năn dứt ác nghiệp vị lai.

5. Thọ Quy: Dùng tam quy nạp thọ giới thể của Bát giới.

6. Tuyên giới tướng: Truyền nói điều văn giới tướng của Bát giới.

7. Phát nguyện: Phát nguyện đem công đức này nhiếp thủ tất cả chúng sinh khiến thành vô thường Bồ đề, đồng tại Long Hoa tam hội của Đức Di Lặc liễu thoát sinh tử, giáo hóa hữu tình, đồng sinh cực lạc.

8. Khuyến chúc hồi hướng: Nói công đức thọ trì Bát giới và khuyên đem công đức này hồi hướng tất cả chúng sinh.

“Thọ Bát Giới Chánh Phạm” này tuy rất hay, nếu làm theo thì biểu hiện hình thức bên ngoài rất long trọng trang nghiêm. Nhưng phải mất thời gian dài, lúc thọ giới, ngoài Giới sư ra, còn cần phải có Dẫn lễ sư. Nếu Giới sư chẳng phải là vị Trụ trì phương trượng thì sự thực hành theo nghi thức này sẽ không phải dễ. Do đó, Đại sư Hoằng Nhất căn cứ vào Kinh Phật Thuyết Bát Chủng Trưởng Dưỡng Công Đức biên soạn một thiên “Thọ Bát Quan Giới Trai Pháp”. Nay tôi xin ghi lại như sau:

Quy mạng tất cả Phật, duy nguyện tất cả Phật, Bồ tát chúng nhiếp thọ con:

Con nay quy mạng Thắng Bồ đề

Tối thượng thanh tịnh Phật, Pháp, Chúng

Con phát tâm Bồ đề rộng lớn

Mình người lợi ích đều thành tựu

Sám trừ tất cả nghiệp bất thiện

Tùy hỷ vô biên công đức uẩn.

Trước tiên sẽ không ăn quá ngọ, sau tu pháp bát chủng công đức (nói 3 lần).

Con tên là… duy nguyện A xà lê nhiếp thọ con. Từ giờ này con phát tâm tịnh tín cho đến ngồi Bồ đề tràng thành Đẳng chánh giác, thệ quy y Phật nhị túc tôn, thệ quy y Pháp ly dục thắng tôn, thệ quy y Tăng đều phục thắng tôn. Tam bảo như thế là chỗ quy hướng của con (nói 3 lần).

Con là… tịnh tín Ưu bà tắc (Thọ Bát giới chính thuộc về hai chúng tại gia, cũng gồm cả chúng xuất gia nhưng trong Kinh Dược Sư nói, văn này chỉ nói căn cứ người tại gia cho nên xưng là Ưu bà tắc. Nếu người xuất gia nên tùy nghi xưng) duy nguyện A xà lê nghĩ nhớ hộ niệm, con từ giờ này hôm nay phát khởi tịnh tâm, từ đêm nay đến sáng sớm hôm sau lúc mặt trời mọc, trong khoảng thời gian này phụng trì Bát giới: 1. Không sát sinh, 2. Không trộm cướp, 3. Không phi phạm hạnh, 4. Không vọng ngữ, 5. Không uống rượu, 6. Không ăn phi thời, 7. Không đeo hoa để trang nghiêm thân và ca múa v.v… 8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng. Con này lìa bỏ các việc như vậy, thệ nguyện chẳng xả bỏ thanh tịnh cấm giới bát chủng công đức (nói 3 lần).

Con trì giới hạnh trang nghiêm tâm mình khiến tâm vui vẻ rộng tu tất cả thắng hạnh tương ưng cầu thành Phật quả cứu cánh viên mãn (nói 3 lần), lại đọc bài kệ tụng:

Con phát tâm tối thắng không hai

Vì các chúng sinh làm bạn hữu

Khéo hành hạnh Bồ đề thù thắng

Thành Phật lợi ích khắp thế gian

Nguyện con nương nhờ nghiệp thiện này

Đời này không lâu thành Chánh giác

Thuyết pháp lợi ích cho thế gian

Giải thoát chúng sinh khổ ba cõi.

Đoạn văn trên là nguyên văn của Đại sư Hoằng Nhất. Còn về chủ trương các chúng xuất gia cũng trì Bát giới rất cần phải nói thêm. Căn cứ vào yêu cầu của luật chế, Bát giới là 8 điều trước của Sa di thập giới, chỉ cần thọ Sa di giới thì suốt đời phải trì Bát giới; đến Tỳ kheo giới chẳng cần nói nữa vì đã bao quát cả Bát giới. Vì thế, các chúng xuất gia tự nhiên là phải suốt đời thọ trì Bát giới. Nhưng, Đại sư Hoằng Nhất sở dĩ nói các chúng xuất gia cũng nên thọ Bát giới là chính, vì các chúng xuất gia hiện nay ít người y theo luật tuân hành. Đa số người xuất gia nói riêng Tỳ kheo giới hoặc Sa di giới cũng chưa trì được Bát giới. Nay xin ghi lại “Thọ Bát Quan Giới Trai Pháp” trong Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập quyển 4 để cùng tham khảo như sau:

Trước tiên phải dạy pháp thọ tam quy:

Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng một ngày một đêm là tịnh hạnh Ưu bà tắc (hoặc Ưu bà di), Như lai chí chân Đẳng chánh giácThế Tôn của con ( nói 3 lần).

Con là… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, một ngày một đêm là tịnh hạnh Ưu bà tắc (Ưu bà di), Như lai chí chân Đẳng chánh giácThế Tôn của con (nói 3 lần).

Kế đến phải dạy thọ pháp giới trai: Con là…hoặc thân nghiệp bất thiện, hoặc khẩu nghiệp bất thiện, hoặc ý nghiệp bất thiệntham dục, sân nhuế, ngu si. Hoặc đời này đời trước có tội như thế, hôm nay thành tâm sám hối, thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh thọ hành Bát giới:

- Như chư Phật suốt đời không sát sinh, con một ngày một đêm không sát sinh.

- Như chư Phật suốt đời không trộm cướp, con một ngày một đêm không trộm cướp.

- Như chư Phật suốt đời không dâm dục, còn một ngày một đêm không dâm dục.

- Nhưng chư Phật suốt đời không vọng ngữ, con một ngày một đêm không vọng ngữ.

- Như chư Phật suốt đời không uống rượu, con một ngày một đêm không uống rượu.

- Như chư Phật suốt đời không đeo tràng hoa, không xoa hương vào thân, con một ngày một đêm không đeo tràng hoa, không xoa hương vào thân.

- Như chư Phật suốt đời không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố đến xem nghe, con một ngày một đêm không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố đến nghe xem.

- Như chư Phật suốt đời không ngồi nằm giường lớn cao rộng, con một ngày một đêm không ngồi nằm giường lớn cao rộng.

- Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời, con một ngày một đêm không ăn phi thời.

- Nay con đem công đức thọ giới Bát quan trai này bốn ân đều báo, ba cõi cùng nhờ, cùng các chúng sinh đồng sinh Tịnh độ (Nếu như mỗi người tự có nguyện cầu, đều có thể thêm vào phần hồi hướng).

Một thiên “Thọ Bát Quan Trai Pháp” này so với nghi thức do Đại sư Hoằng Nhất y theo Kinh Phật Thuyết Bát Chủng Trưởng Dưỡng Công Đức thì giản đơn và thiết yếu hơn, trong 15 phút có thể làm xong thọ Bát giới. Ở đây đem Bát giới và một trai phân biệt làm 9 điều gọi là “giới trai pháp” mà không gọi là “trai giới pháp”. Kỳ thật, dùng hai chữ “trai giới” là chịu ảnh hưởng của “trai giới để cáo quỷ thần” và “trai giới tắm gội của Nho gia. Y theo thứ tự của Bát giới trai phải gọi là “giới trai” chứ chẳng phải “trai giới”. Vì thế, bút giả hành văn trong thiên này đều dùng “giới trai”, còn khi trưng dẫn văn của sách khác y theo nguyên văn sao lục, nên có khi ghi là “trai giới”. Hoặc giả có người cho rằng: Bát giới lấy chữ “trai” làm thể, vì thế gọi là trai giới, điều đó cũng hợp lý.

Ở chỗ này nói: “Như chư Phật” thọ trì giới trai; trong A Hàm, Kinh Trì Trai nói chiếu theo “A la ha” thọ trì
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15784)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11090)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53676)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13007)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16538)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15413)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19174)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19953)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15568)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15365)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15158)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20360)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23975)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15503)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13063)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20166)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13297)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29035)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11724)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18315)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16655)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13257)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12816)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13263)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13003)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13025)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13562)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11727)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14257)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17756)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22633)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13463)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14349)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105804)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14616)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19807)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38447)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15546)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16074)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11368)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15680)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12842)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19394)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13160)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13491)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17994)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21930)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16087)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16161)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19137)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant