Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Sa Di GiớiCác Loại Sa Di

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8553)
Chương 2: Sa Di Giới Và Các Loại Sa Di

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 2: Sa Di GiớiCác Loại Sa Di

I. TẠI SAO GỌI LÀ SA DI, SA DI NI?

Người xuất gia trong Phật giáo gồm có 5 hạng, trong thiên này chỉ nói 3 hạng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni. Trong luật điển thông thường gọi ba hạng này là tam tiểu chúng (ba chúng nhỏ). Do vì từ trên đại thể nam nữ xuất gia 20 tuổi trở xuống không được thọ Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới, tuy nhiên tuổi tác của tam tiểu chúng cũng không hạn định phải dưới 20 tuổi. Do đó, một là tuổi nhỏ, hai là đẳng cấp của giới cũng nhỏ, vì thế gọi là tiểu chúng.

Trước hết, chúng ta nói về vấn đề của Sa di. Giới của Sa diSa di ni có 10 điều giống nhau. Còn điểm khác nhau của Sa diSa di ni giớioai nghi tuỳ đại chúng học: Sa di phải học theo luật nghi Tỳ kheo, Sa di ni phải học theo luật nghi của Tỳ kheo ni. Tỳ kheoTỳ kheo ni giới có những phần bất đồng, nên luật nghi của Sa di, Sa di ni theo học vì thế cũng có sự khác nhau. Nhưng trên thập giới căn bản của Sa diSa di ni thì hoàn toàn đồng, chỉ cần hiểu rõ Sa di giới thì sẽ hiểu rõ Sa di ni giới, vì thế khi giảng thập giới, chúng tôi chỉ giảng Sa di giới.

Sa di là dịch âm chữ Phạn: Sràmanera. Chữ này ở Trung Quốc có hai cách dịch tân và cựu. Cựu dịch là “tức từ” nghĩa là dứt ác hành từ. Tân dịch là “cần sách”, nghĩa là tiếp thọ sự khuyến khích siêng gắng của đại Tỳ kheo Tăng. Trong các tác phẩm của Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng dịch, thường lấy nghĩa “cầu tịch” để gọi Sa di, nghĩa là cầu lấy đạo Niết bànquả viên tịch. Viên tịchviên mãn tịch tịnh, cũng là đạo cứu cánh của Niết bàn. Xuất gia là vì tự cầu giải thoát vừa lại giúp người khác giải thoát. Sa di là cấp bậc thứ nhất của đạo xuất gia. Vì thế, một người làm Sa di được gọi là “cầu tịch” “cần sách” và “cầu tịch”, thì nghĩa “cầu tịch” thì thích đáng hơn hết. Nhưng trong Phật giáo, khi gọi hàng đệ tử xuất giatại gia của Phật, phần nhiều thường dùng âm dịch của Phạn văn làm chuẩn.

Sa di ni nghĩa là “cầu tịch nữ”. Trong sự phiên dịch của kinh Phật, phần nhiều dùng âm “ni” để đại biểu cho nữ tánh, như Thức xoa ma ni (có chỗ dịch là Thức xoa ma na), thật ra là lấy âm “ni” đại biểu cho nữ tánh. Chúng ta lại thấy trong Thiện Kiến Luật quyển hai đem Dạ xoa nữ dịch thành Dạ xoa ni, trong Kinh Tạp A Hàm quyển 4 cũng đem Bà la môn nữ gọi là Bà la môn ni, đủ thấy một âm “ni” là tiếng gọi thông thường trong sự phiên dịch kinh Phật dùng để đại biểu cho nữ tánh.

II. NỘI DUNG CỦA SA DI THẬP GIỚI

Sa di thập giới trong văn của Bát giới chúng tôi đã giới thiệu 9 điều, trong đó chỉ có một điều “giới cấm giữ vàng bạc châu báu” còn phải giới thiệu thêm. Nhưng điều văn giới tướng của thập giới ở đây vẫn cần phải liệt kê lại để hoàn thành hình thái của Sa di thập giới.

Sa di thập giới là:

1. Không sát sinh.

2. Không trộm cướp.

3. Không phi phạm hạnh (không dâm).

4. Không vọng ngữ.

5. Không uống rượu.

6. Không đeo tràng hoa thơm, không dùng dầu thơm xoa thân.

7. Không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe.

8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng.

9. Không ăn phi thời.

10.Không cần giữ sanh tượng vàng bạc vật báu.

Ý nghĩa nội dung của 10 điều giới này đã có giảng qua trong Bát giới, ở đây không giảng lại. Chỉ có sự bất đồng giữa chín giới trước và bát giớithời gian thọ trì. Bát giới là một ngày một đêm thọ trì. Sa di giớisuốt đời thọ trì. Còn có một điểm bất đồng là hai giới là thứ 6 và thứ 7 hợp lại hay phân ra khác nhau. Bát giới đem hai điều thứ 6 và thứ 7 của Sa di giới hợp thành một điều thứ 6, Sa di giới thì đem giới thứ 6 của Bát giới phân làm hai giới thứ 6 và thứ 7.

Nay chúng ta giảng về giới thứ 10: “Không cầm giữ sanh tượng vàng bạc vật báu” của Sa di giới. Điều này thông thường là giới tiền bạc. Người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ cái thói quen người ta nói là “có người chết vì của cải”, lại nói “có người không sống được ngàn năm, mà lo tính chuyện vạn năm”. Sự ham muốnsúc tích của cải của con người có thể nói là bẩm sinh, có một trăm mong muốn một ngàn, có một ngàn mong muốn một vạn, cho đến thành phú ông trăm vạn ngàn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới nầy đều thuộc sở hữu của mình. Thật ra điều này ở trong xã hội tư bản chủ nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ nhưng ở trong thế giới đại đồng của dân sinh chủ nghĩa lại không được hoan nghinh, trong Phật giáo của chúng ta lại càng không chấp nhận. Của cải có thể tạo phước cho nhân quần, là sự thật không thể phủ nhận. Nhưng, của cải có thể thành chủ nhân của người và người trở thành nô lệ cho của cải cũng là sự thật không thể phủ nhận. Của cải là vật ở ngoài thân là điều ai cũng biết, nhưng xem của cải là vật ở ngoài thân lại là điều rất khó làm. Vì thế, của cải là thứ có khả năng lớn nhất sai khiến con người, cho nên người xuất gia trong Phật giáo chủ trương không súc tích của cải, cho đến nói rằng cầm giữ của cải đều là hành vi phạm giới. Đức Thế Tôn Thích Ca thấy thấu suốt tính chất trói buộc của cải đối với con người và sự ham muốn chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải, cho nên Ngài muốn giải trừ cho đệ tử xuất gia việc cầm giữ của cải. Bằng không thì bị vấn đề của cải làm động cân não khởi tham đắm, đâu thể “thấy được suốt, buông được xuống”, đâu thể nhất tâm ý vì đạo nỗ lực!

Xem của cải như đồ vô dụng, lúc Phật giáo mới khai sáng thì có thể làm được, giữa ngày ăn một bữa sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ một đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân. Ấn Độ là miền nhiệt đới thân cây cao lớn, nhánh lá sum sê, ngủ dưới gốc cây gần như ở trong một cái lọng thiên nhiên. Khí hậu của Ấn Độ rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, Đức Phật thí nghiệm cũng chỉ cần ba y là có thể đủ ấm. Đồng thời, phong tục của Ấn Độ đương thời, người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm (tương đương như nghĩa địa ngày nay) để lộ thiên cho tan rã, cho đến cứ để mặc cho chim thú ăn, quần áo của người chết, người xuất gia nhặt lấy chế thành bay để mặc. Quyến thuộc của người chết đưa người chết đến thi lâm thì thường bỏ tang phục của người chết trên mộ. Vì thế, nguyên lai “phấn tảo y” của Tỳ kheo Phật giáo cũng là lấy “y của gò mả”. Vấn đề ăn ở mặc giải quyết xong. Còn vấn đề đi lại đương thời cũng rất đơn giản, trừ khi qua sông thì cho đi thuyền, còn voi ngựa xe cộ trên đất liền phần nhiều là đồ dùng của thương gia hoặc quân đội tác chiến, người bình dân thông thường ít có cơ hội được cưỡi, lữ hành đi buôn bán ra nước ngoài dùng xe chở hàng hóa, còn người thông thường đều đi bộ. Người xuất gia lấy việc hành cước du hóa làm bổn phận, vì thế cũng không dùng đến tiền xe, tiền đò, cho đến qui định “không được không bệnh mà đi xe”. Người xuất gia sinh hoạt ở trong hoàn cảnhtình hình như thế, còn dùng của cải để làm gì? Vì thế, đặc sắc nhất của giới xuất gia là “giới tiền bạc”. Bát giới là của đệ tử tại gia thọ trì, người thế tục chẳng thể không có tiền bạc, vì thế không chế một điều này, còn người xuất gia có thể làm được. Vì thế, một khi xuất gia phải thọ trì một điều giới này.

Nhưng người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày một đông, thể chất của người xuất gia có người cường tráng cũng có người yếu đuối, tập tánh của người xuất gia có người cam đạm bạc, cũng có người không chịu nổi phong sương mưa nắng dãi dầu, thậm chí có người mang tập khí tham của rất nặng, không súc tích của cải thì không thể hành đạo tu trì.

Do đó, Đức Phật vì nhu yếu thực tế dần dần cho phép Tăng chúng xuất gia có chùa chiền, tịnh xá, tăng phòng, có súc tích đồ cần dùng cho cuộc sống, cũng khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải.

Nhân vì tiền tệ là sản vật của nền văn minh nhân loại, nó có thể làm môi giới cho sự đổi chác. Thí chủ cúng dường cho người xuất gia các thứ như quần áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang. Nhưng trong nhà của thí chủ không thể là tiệm buôn vải, tiệm lương thực, xưởng chế tạo đồ dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở tiệm cũng không hoàn toàn có đủ các thứ này. Nếu như hoàn toàn có đủ đi nữa, khi đem phẩm vật cúng dường người xuất gia cũng chưa ắt là thích hợp với nhu cầu. Do đó, sự nhận lấy tiền tệ đối với người xuất gia không thể tuyệt đối cấm ngăn được.

Nhân đấy, vì lý do Tam bảo có thể tiếp thọ, vì lý do người khác có thể tiếp thọ, cho đếnlý do chính mình có thể tiếp thọ, nhưng trên nguyên tắc vẫn không cho tự thọ, tự chứa cất, cho nên Đức Phật lại vì hàng đệ tử xuất gia chế một thứ pháp thuyết tịnh.

Pháp thuyết tịnh là mời một người thế tục làm chủ tịch, hễ thâu nhận được tiền bạc bèn nói là thay người thế tục kia thâu nhận, đây là của tịnh chủ kia chứ không phải của chính tôi. Nói như thế rồi có thể thâu. Nhìn từ hình thức, pháp thuyết tịnh này giống như không cần phải có. Kỳ thật, nó có giá trị của sự tuân hành, vì người xuất gia ở trên bản chất tuyệt đối không được thọ nhận tiền bạc. Nhưng đây cũng là một phương tiện bất đắc dĩ, quyết chẳng nên nhận vì có pháp thuyết tịnh là tham lam không biết chán. Pháp thuyết tịnh có thể cảnh sách người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều. Nếu như cho rằng có pháp thuyết tịnh rồi tham cầu càng nhiều càng tốt không thôi, ấy là đánh mất ý nghĩa của pháp thuyết tịnh. Vì thế, người xuất gia tốt nhất là không nên thọ nhận tiền bạc. Nhưng, nếu có nhu yếu như giữ tiền chi phí thuốc men lúc bệnh và chi phí sinh hoạt hằng ngày, thì tự nhiên không ngại gì dùng pháp thuyết tịnh để tiếp thọ tiền bạc.

Căn cứ sự quy định trong luật, người xuất gia là nương tựa chúng và sinh hoạt ở trong tăng đoàn, nhu yếu phẩm trong sinh hoạt của người xuất gia đều phải do Tăng đoàn sở tại (thường trụ) cung cấp. Vì thế, thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc, nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm khắc: Tỳ kheo không được chính tay mình cầm nắm, Sa di thì có thể cầm nắm, nhưng với người có tịnh nhân ngũ giới thì phải do tịnh nhân ngũ giới phụ trách tiếp thọ và bảo quản, cho đến bịt mắt người thế tục rồi dắt người ấy đến một chỗ chỉ định để tiền bạc vào đó. Điều này ngày nay không còn cách nào làm được. Như có thể giữ cho không tham cũng đã là khó rồi, chứ tuyệt đối không giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy.

Bây giờ, giải thích bốn chữ “sanh tượng vàng bạc”. Trong bốn chữ này, chủ yếu là hai chữ “sanh tượng” cần phải giải thích. Có hai lối giải thích:

1. “Sanh sắc là vàng, tợ sắc là bạc”: Vàng ròng nguyên chất gọi là “sanh sắc”, lấy bạc mà nhuộm thành màu vàng gọi là “tợ sắc”, tợ cũng có nghĩa là tượng.

2. Sanh, là chính ngay các vật báu như vàng bạc châu ngọc. Tượng, là dùng vàng bạc vật báu chế làm ra các món đồ vàng, đồ bạc, cho đến các món đồ quý do châu ngọc, san hô, mã não, thủy tinh, xa cừ, lưu ly, hổ phách, đồi mồi, đá hoa, ngà voi chế tạo thành.

Người xuất gia chẳng những không được cầm giữ vàng bạc tiền tệ, mà tất cả vật báu, đồ quý đều chẳng được cầm giữ, đương nhiên cũng không cho cất giấu và súc tích. Nhân vì đồ quý làm cho tâm tham đắm, một khi đối với vật bên ngoài sinh khởi tâm tham đắm, đó là tâm bị vật chuyển, chứ chẳng còn tự tại giải thoát được. Ở đây có một chuyện tích như sau: Thuở xưa, có một người xuất gia, vị ấy đã thấy suốt thế sự danh lợi, ở ẩn một mình nơi chỗ yên tịnh tu tập, đã chẳng viếng thăm ai và cũng không tiếp khách đến thăm. Nhưng vị ấy yêu thích và quý tiếc một chiếc bát đựng thức ăn. Có vị đạo nhân biết vị ấy còn một khuyết điểm này, bèn đến gõ vào chiếc bát của vị ấy. Khi nghe có người gõ cái bát của mình, vì sợ cái bát của mình bị người gõ bể, vị ấy liền vội vàng từ chỗ yên tịnh chạy ra, người khách gõ bát bèn giáo huấn vị ấy: “Tôi biết ông tất cả đều buông bỏ hết, chỉ có cái bát này là chưa buông xuống được”.

III. ĐẲNG VỊCÁC LOẠI SA DI

Thời kỳ đầu tiên lúc Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn không có Sa di. Sự xuất hiện của Sa di trong Phật giáo so với sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sớm hơn một chút. Đại khái là lúc La Hầu La là con của Đức Phật theo Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa di.

Tăng đoàn của người xuất gia Phật giáo cũng tương tợ như tình hình của đại gia đình. Người xuất gia ra khỏi “nhà hữu vi” của thế tục, vào “nhà vô vi” của xuất thế. Trong cái gia đình vô vi không tạo nghiệp sinh tử này có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có nhỏ dung hợp đối xử với nhau hòa thuận vui vẻ. Sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa dinhân tài của Phật giáo, tăng thêm sự nối tiếp lực lượng mới sinh. Vì thế, phần tử Sa di lấy nhi đồng làm chủ yếu.

Nhưng có người tuổi đã 20 mới nhập Tăng đoàn, hoặc vì thầy trò chẳng đủ, hoặc vì y bát chưa đủ, hoặc nhân vì vật khác mà chưa có thể thọ trì Tỳ kheo giới, vẫn bị liệt vào số chúng Sa di. Còn có các cụ già từ 60 tuổi đến 70 tuổi, đến Tăng đoàn cầu xin xuất gia, Đức Phật cũng cho các cụ ấy cạo tóc nhưng không cho các cụ ấy thọ Tỳ kheo giới, vì thế các cụ ấy cũng bị liệt vào số chúng Sa di.

Chúng ta đã nói qua phần tử chủ yếu của Sa dinhi đồng, nhưng cũng có hạn định là nhi đồng phải từ 7 tuổi trở lên và phải có năng lực làm công tác đuổi chim đuổi quạ trên sân phơi lúa mới được độ làm Sa di. Vì thế, trong luật quy định 7 tuổi trở xuống dù có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ, 7 tuổi trở lên không có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ. Trong luật cũng quy định người già tuổi dưới 70 có thể tự lo cho cuộc sống của mình, mới có thể xuất gia làm Sa di, 71 tuổi trở lên dù lo được hay không đều không được độ.

Nguyên nhân chủ yếu là các Tỳ kheo không có thời giờtinh lực nhiều để lo cho đệ tử quá già hoặc quá trẻ. Người quá già hoặc quá bé không làm sao chịu đựng nổi cuộc sống xuất gia, cũng không làm sao tự lo cho mình được, vì thế không cho họ xuất gia đủ thấy Tăng đoàn của Phật giáo lấy thanh niên làm chủ.

Do đó, thành phần của Sa di phân ra làm hai loại của ba đẳng vị. Ba đẳng vị là: 7 tuổi trở lên, 13 tuổi trở xuống gọi là Khu ô Sa di; 14 tuổi trở lên 19 tuổi trở xuống gọi là Ứng pháp Sa di. (Đây là hợp với tuổi Sa di yêu cầu vì họ có thể thuận với pháp hạnh Sa di mà làm, vì thế gọi là Ứng pháp Sa di); 20 tuổi trở lên, 70 tuổi trở xuống gọi là Danh tự Sa di. (Người 20 trở lên 60 tuổi trở xuống vốn có thể thành Tỳ kheo, chỉ vì nhân duyên chẳng đủ phải ở địa vị Sa di cho nên gọi là Danh tự Sa di). Còn hai chủng loại là cạo tóc nhuộm áo (cải trang) nhưng chưa thọ Sa di thập giới, gọi là Hình đồng Sa di (Hình thái tuy đồng Sa di nhưng vẫn chưa đủ tư cách của Sa di, vẫn còn bản chất của người tục, vì thế gọi là Hình đồng Sa di). Đã thọ Sa di thập giới gọi là Pháp đồng Sa di (Đây là chân thật Sa di, do thọ trì giới pháp Sa di mà thành Sa di, vì thế gọi là Pháp đồng Sa di). Nay đem ba vị và hai loại làm thành biểu đồ như sau:

blank

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11348)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12351)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12097)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10617)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13174)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12687)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16579)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11952)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11844)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12176)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant