Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7894)
Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 3: Sa Di Nương Theo Thầy Và Sa Di Xuất Gia

I. NGƯỜI NÀO CÓ THỂ LÀM THẦY CỦA SA DI?

Tại Trung Quốc, Sa di là sản vật của các ngôi chùa tư do con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác. Sa di, cũng chỉ có đương gia trụ trì của chùa tư mới đủ tư cách thế độ. Trong đại tòng lâm của thập phương đạo tràng, thà rằng thâu nhận Tỳ kheo giả mạo chưa đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo giới, chứ chẳng dung nạp Sa di nhỏ tuổi, để đề phòng nạn phe đảng đấu tranh.

Trong Tăng đoàn của Phật chế, người làm thầy thế độ Sa di không có đặc quyền về giai cấp. Sa di trong Tăng đoàn, bất luận nơi nào cũng đều được vui vẻ tiếp nhận, không có chỗ gọi là chùa tư của con cháu truyền nhau từ đời này sang đời khác, cũng không phân biệt là của tòng lâm hay của thập phương đạo tràng. Phàm là đạo tràng của Phật giáo đều là thập phương thường trụ, người xuất gia đến một đạo tràng bất luận là lớn hay nhỏ, không có lý nào bị xem như người ngoài. Trụ ở chỗ nào thì có nghĩa vụ hộ trì đạo tràng chỗ đó. Sa di đi theo thầy thế độ, nhưng khi vào trụ ở một đạo tràng nào, ngoài việc phục tùng và hầu hạ vị thầy thế độ của mình còn phải chịu sự sai khiến và phân phối công tác của thầy Tỳ kheo chấp sự đạo tràng. Vì thế Sa di theo thầy đến một đạo tràng nào trụ, cũng tức là Sa di của đạo tràng đó. Trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, chỗ nào cũng đều có sự hiện hữuhoạt động của Sa di, thậm chí ở trong Tăng đoàn không thể khôngSa di, nhân vì có những việc Tỳ kheo không được làm, Sa di có thể thay làm.

tính cách trọng yếu của Sa di trong Tăng đoàn, nên chẳng phải vì họ tuổi nhỏ mà không được vui vẻ tiếp nhận.

Trên phương tiện tu chứng, Sa di cũng có thể tu chứng như Tỳ kheo, nghĩa là dù tuổi tác nhỏ nhưng cũng có thể chứng Tứ quả Sa môn. Vì thế, Đức Phật cũng khai thị mọi người chẳng nên khinh thị người xuất gia nhỏ tuổi là muốn mọi người phải tôn trọng người xuất gia tuổi nhỏ. Vì thế, cấp bậc của Sa di ở trong chúng xuất gia tuy nhỏ, cũng không bị sự kỳ thị của người lớn.

Lợi dưỡng trong Tăng đoàn, Sa di dường như được hưởng thụ quyền lợi ngang với Tỳ kheo, tỷ như trong Thập Tụng Luật quyển 27 nói: “Sa di hoặc đứng hoặc ngồi, theo thứ tự được đàn việt bố thí nhiều ít, nên thuộc về Sa di”. Lại nói: “Các đàn việt khi cho không phân biệt, chia làm bốn phần, phần thứ tư cho Sa di”. Lại nói: “An cư phát y có phần cho Sa di, vật cần dùng tuỳ thân của Tỳ kheo cũng có phần cho Sa di; Nhân duyên y có phần cho Sa di, Phi thời y cũng có phần cho Sa di”.

Người độ Sa di xuất gia tuy không có đặc quyền giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách. Kinh Đại Tỳ kheo Tam Thiên Oai Nghi nói: “Tỳ kheo giới đủ 10 năm mới được độ người, nếu chẳng biết ngũ pháp thì suốt đời chẳng được độ người”. Ngũ pháp là:

1. Thông hiểu sự lợi ích rộng của hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh trọng đáng phạm của đệ tử.

3. Đệ tử ở phương xa đủ sức khiến đệ tử quay về.

4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác.

5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc được như cha nuôi con.

Lại nói: “Nếu người chẳng biết năm việc ấy thì suốt đời không được độ người. Nếu độ người đắc tội Đột kiết la”. Lại nói: “Tỳ kheo muốn độ Sa di phải có đủ năm việc:

1. Phải biết 4 bộ A Hàm.

2. Phải biết giới.

3. Phải biết kinh.

4. Phải có huệ.

5. Phải có đức”.

Lại nói: “Có năm điều:

1. Phải trì giới.

2. Phải không phạm giới.

3. Phải nhẫn nhục.

4. Phải hiểu được kinh.

5. Phải tự giữ tất cả”.

Nhân vì Hòa thượng thập giới của Sa di là thầy thế độ. Nếu như thầy thế độ chưa hoàn tục, chưa tử vong, cũng chưa đi phương xa, Hòa thượng truyền Cụ túc giới của Tỳ kheo cũng là thầy thế độ, vì tư cách thế độ Sa di cũng phải đồng với tư cách của vị vì người làm Hòa thượng Tỳ kheo giới. Trong Tăng Kỳ Luật quyển 28, có quy định 10 việc độ người giữa thầy trò: “Phật nói, từ nay có 10 pháp thành tựu mới cho độ người xuất gia thọ Cụ túc giới:

1. Trì giới

2. Học rộng A tỳ đàm (Luận)

3. Học rộng Tỳ ni (Luật)

4. Học giới

5. Học định

6. Học huệ

7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội

8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh.

9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi.

10. Đủ 10 tuổi hạ”

Lại nói: “Ít nhất phải đủ 10 năm Tỳ kheo giới, và biết hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mới được độ người xuất gia”.

Thiện Kiến Luật nói: “Nếu chẳng biết Luật, chỉ biết Tu đa la (Kinh), A tỳ đàm (Luận) thì chẳng được độ Sa di”

Tổng hợp 3 bản luật đã nêu ở trên về những điều kiện cần phải có của thầy độ trò, có thể đưa đến kết luận: Vì người làm thầy độ Sa di, tốt hơn hết là đủ 10 đức như trong Tăng Kỳ Luật nói. Nếu không được như vậy, ít nhất cũng phải đủ hai điều kiện:

1. Tỳ kheo giới lạp phải đủ 10 năm.

2. Thông hiểu hai bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

Nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không đủ tư cách thế độ Sa di, nguyên nhân là chính mình chưa đủ 10 hạ rất khó thông suốt luật nghi. Nếu không thông hiểu hành trì tác pháp của luật nghi trong cuộc sống hằng ngày qua trì phạm khai giá, cấp bậc khinh trọng, thì lấy gì để răn dạy đệ tử? Điều này ở trong luật có tỷ dụ chính mình chưa rời vú mẹ làm sao có thể cho người khác bú?

Tỳ kheo cũng chỉ có thể thế độ Sa di, không được thế độ Sa di ni, vì chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng đích thân độ nhiều Tỳ kheo, và cũng độ hai người Sa diNan ĐềDa Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng (Luận Tát Bà Đa, quyển 2); điều này trong luật có ghi. Ni chúng đầu tiên là do Bát Kính phápxuất gia, về sau do ni chúng thế độ ni chúng. Vì thế trong văn Sa di ni giới có nói: “Tự chẳng phải Thánh Bồ tát, A la hán chẳng nên độ ni”. Người nữ có thể ở trong Phật pháp xuất gia, song vì phòng ngừa sự dần dần ái nhiễm, ngăn dứt tiếng chê bai, nên chẳng cho Tỳ kheo thế độ người nữ xuất gia. Tỳ kheo cũng chẳng được làm Hòa thượng của Tỳ kheo ni, chỉ có thể làm Yết ma A xà lê, Giáo thọ A xà lê của Ni chúng.

Sa di ni phải do Tỳ kheo ni thế độ, tư cách phải có của Tỳ kheo ni ấy đại khái cũng đồng như Tỳ kheo độ Sa di. Chỗ bất đồng là Tỳ kheo ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới cho độ người xuất gia.

II. QUY CỦ THẾ ĐỘ SA DI

Không luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, trừ những tư cách nói trên cần phải đầy đủ, còn phải cầu được sự đồng ý của đại chúng trong Tăng đoàn, vì thế trong luật có một thứ Yết ma xin độ Sa di (Sa di ni). Nếu muốn độ người xuất gia, trước tiên phải cầu xin trong Tăng đoàn, nếu như đại chúng trong Tăng đoàn thấy rằng người này đã có đủ 10 hạ, đã có năng lực răn dạy đệ tử, đã có đủ sức lo những nhu cầu cơm áo cho đệ tử, bèn chấp nhận. Bằng không thì không chấp nhận, không cho được độ người xuất gia. Nếu như đại chúng trong tăng đoàn chưa có thể tập họp lại một chỗ, Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo ni) độ người phải đi từng phòng bạch cho đại chúng đều biết, được sự đồng ý của đại chúng rồi, sau đó mới được thế độ cho người.

Ở đây có 2 lý do:

1. Đã từng có Tỳ kheo tự mình không đủ tư cách làm thầy độ người mà làm thầy độ người, sau khi độ người chẳng thể răn dạy đúng như pháp, không đủ sức cung cấp nhu cầu cơm áo đúng như pháp, khiến cho người ngoài chê bai, vì thế cần phải được sự đồng ý của đại chúng và do đại chúng đánh giá tư cách của ông thầy độ người.

2. Đã từng có Tỳ kheo độ một đứa bé xuất gia mà chưa được sự đồng ý của cha mẹ đứa bé, cũng chưa được sự chấp nhận của đại chúng trong Tăng đoàn, cha mẹ của đứa bé vào tự viện hỏi, các Tỳ kheo khác đều không biết sự việc nên nói chưa thấy đứa bé này. Thật ra, cha mẹ đứa bé đã phát giác ra con mình cạo tóc xuất gia rồi, do đó chê trách các thầy Tỳ kheo là người có đạo mà lại vọng ngữ. Vì thế Đức Phật quy định muốn độ người xuất gia, trước tiên cần phải được Tăng đoàn chấp nhận.

Số người được độ xuất gia cũng có hạn chế. Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 có quy định như vầy: “Đệ tử thọ Tỳ kheo Cụ túc giới rồi, trong 12 tháng phải dạy cho người đệ tử ấy tất cả pháp của một Tỳ kheo, rồi sau đó mới được cho một đệ tử khác thọ Cụ túc giới, nếu chưa đủ 12 tháng chẳng được cho thọ giới. Sa di thọ đại giới rồi, sau đó mới được nhận một Sa di khác”. Đây là nói khi đệ tử thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, trong 12 tháng không được độ Sa di xuất gia, phải sau 12 tháng của người Sa di thứ nhất thọ Tỳ kheo giới, mới được độ người Sa di thứ hai. Cũng trong quyển 8 của Kinh này nói: “Sa di ni thọ giới Thức xoa ma na ni, trong 2 năm, không được độ một Sa di ni khác. Sau khi Thức xoa ma ni thọ Cụ túc (Tỳ kheo ni) giới rồi mới được độ Sa di ni khác. Tỳ kheo ni cũng phải như Đại Tăng (Tỳ kheo), trong 12 tháng phải dạy đệ tử tất cả những pháp phải làm, sau đó nếu Thức xoa ma ni muốn thọ Cụ túc giới, nên cho phép thọ Cụ túc giới”. Theo đây, điểm tương đồng với Tỳ kheo là trong một năm chỉ có thể cho một người đệ tử thọ Cụ túc giới, nhưng có chỗ không tương đồng là trong 2 năm chỉ có thể độ một đệ tử Thức xoa ma na ni, một đệ tử Sa di ni.

Trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ, của Luật sư Đạo Tuyên nói: “Tứ Phần Luật không cho đồng thời nuôi hai Sa di”. Lại nói: “Trong Tăng Kỳ Luật không cho nuôi nhiều Sa di, chỉ cho nuôi từ một đến ba người là nhiều nhất”.

Quy định không cho đồng thời thế độ hai người Sa di xuất gia, có hai lý do:

1. Đã từng có một Tỳ kheo đồng thời nuôi hai Sa di, hai Sa di ấy do không hiểu biết, lại sinh tham dục đến đỗi hai người hành dâm với nhau. Vì phòng ngừa sự kiện tương tự như thế phát sinh, nên chỉ cho có một Sa di.

2. Đệ tử Sa di nhiều, sức dạy dỗ và cung cấp của thầy thế độ thường thường không thể lo tròn. Các đệ tử Sa di không được giáo dụccung cấp đầy đủ chỉ làm lụy đến con em người và làm hại Phật giáo, vì thế chẳng được đồng thời nuôi nhiều Sa di. Song trong luật cũng có khai lệ: Nếu như vị thầy trí huệ cao sâu, phước lực thù thắngđủ khả năng dạy dỗ dưỡng nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa di trở lên.

Trong luật có nói: “Bậc thầy phân làm 4 hạng:

1. Có pháp lại có cơm áo.

2. Có pháp mà không có cơm áo.

3. Có cơm áo mà không có pháp.

4. Không có pháp cũng không có cơm áo.

Vị thầy lý tưởng của đệ tử dĩ nhiên là vị Đại đức Tỳ kheo đã có pháp để học, lại có cơm áo để dùng. Đệ tử theo hầu dưới tòa của vị Tỳ kheo ấy chẳng nên ly khai. Nếu như Tỳ kheoPhật pháp để học mà không có cơm áo để dùng cũng không nên ly khai, vì Phật pháp khó được, cơm áo dễ được. Nếu như Tỳ kheo chỉ có cơm áo nhưng không có Phật pháp thì chẳng đủ tư cách làm thầy. Đến như Tỳ kheo không có Phật pháp cũng không có cơm áo, quyết không nên theo thờ người ấy làm thầy.

Thật ra, người chỉ biết thâu nhiều đồ chúng xuất gia mà tự mình lại không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là có tội. Như trong Kinh Bồ tát Thiện Giới quyển 4 nói: “Chiên đà la (người hạ tiện làm nghiệp ác) và kẻ đồ tể tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định phải đọa trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Làm thầy mà không dạy răn đệ tửphá hoại Phật pháp, nhất định sẽ bị đọa trong địa ngục. Vì danh dự mà chứa nuôi đồ chúng gọi là tà kiến, là đệ tử ma”.

Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thông hiểu hai bộ luật? Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia. Nếu tự mình không thể giáo dục đệ tử, thì ít nhất cũng phải nhờ người khác thay mình giáo dục. Do đó, sự xuất hiện của Phật học viện là rất hợp thời.

III. NGHI THỨC CỦA SA DI XUẤT GIA

Sa di cần phải xuất gia, sau khi xuất gia và thọ thập giới, nếu chưa phải là một Pháp đồng Sa di, thì được gọi là Hình đồng Sa di.

Xuất gianghi thức xuất gia, các chùa tư ở Trung Quốc thâu nhận người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia, vì họ không biết phải cử hành nghi thức xuất gia như thế nào, cũng không hiểu được nghi thức xuất gia là đáng quý, đây là điều rất đáng tiếc!

Nghi thức tuy là sự biểu hiện hình thức, nhưng lại ảnh hưởng đến sự chuyển biến của tâm lý. Vì thế, không luận là một tôn giáo nào cũng đều có nghi thức của tôn giáo đó, cho đến tôn giáo tín ngưỡng của thời cổ sơ, tuy không có luân lý của tôn giáo, song họ lại lấy nghi thức tôn giáo làm trung tâm của tín ngưỡng. Nếu như chuyện phụng sự cho sự cử hành nghi thức mà không có giá trị luân lý của tôn giáo tín ngưỡng như là tôn giáo thời cổ sơ, đây là điều mà Phật giáo phản đối, như tăng lữ Bà la môn ở thời Đức Phật, chỉ biết nghi thức tôn giáo phiền phức mà không biết giá trị lý tánh của tôn giáo. Thậm chí Phật giáo của thời kỳ đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả, nhưng về sau Tăng chúng đông nên cần phảinghi thức. Nghi thức thế độ Sa di xuất gia hình thành sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia, cho đến toàn bộ giới luật đều do nơi sự cần thiếtthành lập. Mỗi khi Đức Phật phát hiện ra một vấn đề liền làm một quy định cho đại chúng trong Tăng đoàn, thậm chí tùy theo sự phát triển của hiện thực mà phải đem quy định này tu chỉnh năm sáu lần, sau cùng mới thành một điều giới luật.

Nghi thức của Sa di xuất gia trong Hành Sự Sao 4, quyển hạ có quy định rõ ràng, đó là do Luật sư Đạo Tuyên căn cứ vào tư liệu của Tứ Phần Luật Độ Nhân Kinh, Luận Thiện Kiến biên tập thành. Đầu tiên, nghi thức này là do các thầy Tỳ kheo tùy tiện tiếp thọ Sa di xuất gia mà không thể dạy bảo đúng như pháp. Người được độ cũng không thể sinh hoạt ở trong Tăng đoàn đúng như pháp, vì thế mới quy định: Phải do đại chúng trong Tăng đoàn họp lại một chỗ vì người được độ bạch nhị yết ma, nghĩa là vị Tỳ kheo độ người ở trước đại chúng của Tăng đoàn đủ oai nghi ba lần xin, người Yết ma của đại chúng trong Tăng đoàn đem ý của Tỳ kheo xin độ người này tuyên bố một lần trước đại chúng, rồi lại nói hai phen trưng cầu đồng ý (đây gọi là bạch nhị yết ma). Nếu như trong đại chúng không có sự dị nghị, thì kể như im lặng nhận là đồng ý, Tỳ kheo độ người mới được thế độ Sa di.

Nhưng, Sa di xuất gia phải có hai thầy: Một vị là thầy thế độ cũng là Hòa thượng truyền giới, còn một vị nữa là Giáo thọ A xà lê. Vì thế, người xuất gia phải trước lễ thỉnh Hòa thượng, rồi Hòa thượng thay thế cho Sa di thỉnh A xà lê.

Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập sẵn hai tòa chuẩn bị cho hai thầy ngồi. Sau đó dùng nước thơm tắm gội, xong vẫn mặc y phục thế tục hướng về cha mẹ tôn trưởng của tục gia lạy từ biệt mỗi người, rồi quỳ xuống nói kệ:

 “Lưu chuyển tam giới trung

 Ân ái bất năng thoát

 Khí ân nhập vô vi

 Chân thật báo ân giả

 (Trôi lăn trong ba cõi

 Ân ái không thể thoát

 Bỏ ân nhập vô vi

 Là chân thật báo ân).

Nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục, mặc tăng phục, vào đạo tràng đến trước Hòa thượng chắp tay. Hòa thượng nói về các tướng bất tịnh của thân người như lông, tóc, móng, răng, da …, để cho người xuất gia ấy quán thân bất tịnh, như huyễn không thật, chán bỏ sinh tửquyết chí xuất gia. Kế đó, người xuất gia đến trước A xà lê, được Ngài dùng nước thơm rải lên đảnh và đọc kệ tán thán:

 “Thiện tai đại trượng phu

 Năng liễu thế vô thường

 Xả tục thú nê hoàn

 Hy hữu nan tư nghì”

 (Hay thay đại trượng phu

 Hiểu thế gian vô thường

 Bỏ tục hướng Niết bàn

 Hy hữu khó nghĩ bàn).

Người xuất gia lễ thập phương chư Phật và tự nói kệ:

 “Quy y Đại Thế Tôn

 Năng độ tam hữu khổ

 Diệc nguyện chư chúng sinh

 Phổ nhập vô vi lạc”.

 (Quy y Đại Thế Tôn

 Hay độ ba cõi khổ

 Cũng nguyện các chúng sinh

 Đều nhập vô vi lạc).

Tiếp theo, A xà lê liền cạo tóc cho người xuất gia ấy. Nếu có Điển lễ, thì đồng tụng bài kệ xuất gia:

 “Hủy hình thủ chí tiết

 Cát ái từ sở thân

 Khí gia, hoằng Thánh đạo

 Nguyện độ nhất thiết nhân”

 (Hủy hình giữ chí tiết

 Cắt ái từ mẹ cha

 Bỏ nhà, hoằng Thánh đạo

 Nguyện độ hết mọi người).

A xà lê phải để lại vài cọng tóc ở trên đảnh người xuất gia, sau đó người ấy đến quỳ trước Hòa thượng. Hòa thượng cầm dao cạo tóc hỏi: “Hiện tại vì ông cạo tóc trên đảnh được không?”. Sau khi người xuất gia đáp: “Vâng ạ!”, Hòa thượng bèn cạo tóc trên đảnh, tiếp theo truyền trao ca sa. Người xuất gia phải đội trên đảnh để thọ, thọ rồi giao lại cho Hòa thượng. Qua lại ba lần truyền trao ca sa, Hòa thượng bèn mặc cà-sa (y không có tướng điều) cho người xuất gia và nói kệ:

 “Đại tai! Giải thoát phục

 Vô tướng phước điền y

 Phi phụng trì giới hạnh

 Quảng độ chư chúng sinh”.

 (Lớn thay! Áo giải thoát

 Y vô tướng phước điền

 Mặc vâng làm giới hạnh

 Rộng độ các chúng sinh).

Người xuất gia mặc cà-sa đi lễ Phật và đi quanh giới đàn ba vòng, tự nói kệ mừng:

 “Ngộ tai trị Phật giả

 Hà nhân thùy bất hỷ?

 Phước nguyện dữ thời hội

 Ngã kim hoạch pháp lợi”.

 (Nếu được gặp Đức Phật

 Người nào không vui mừng?

 Phước nguyện gặp đúng lúc

 Con nay được pháp lợi).

Tiếp theo, người xuất gia lễ tạ hai thầy, rồi ngồi ở dưới tiếp thọ bà con ở trong gia đình thế tục đến chúc mừng.

Đây là nghi thức rất đơn giản, nếu như tỉnh lược chẳng làm, thật không biết nói sao! Nhưng trong Ký Quy Truyện quyển ba của Tam Tạng Nghĩa Tịnh lại càng giản đơn hơn, Ngài nói: “Tăng chúng chấp nhận rồi, Hòa thượng vì người xuất gia thỉnh A giá ly da (tức A xà lê) có thể ở chỗ vắng bảo người cạo tóc cạo râu cho người xuất gia, và bảo người ấy tắm rửa, rồi Thầy đích thân mặc áo quần để cho kiểm soát chẳng phải huỳnh môn. Kế đưa cho cái y bảo đội lên đầu mà thọ. Mặc pháp y xong liền trao bát cho. Đây gọi là xuất gia”. Ở đây có một điều là Hòa thượng mặc quần áo cho người xuất gia sau khi tắm gội xong là để kiểm tra người nam hoặc nữ, sinh lýbình thường không? Nếu không bình thường, không được thế độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12492)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10363)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12332)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11639)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12368)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17435)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53021)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10676)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11598)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20460)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19554)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12177)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12295)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15018)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14608)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11703)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15051)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12994)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11646)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16881)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11935)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11492)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12868)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18415)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant