Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8450)
Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 5: Thức Xoa Ma Ni

I.  TẠI SAO GỌI LÀ THỨC XOA MA NI?

Thức xoa ma ni là dịch âm của Phạn văn Siksamànà. Trung Quốc có nhiều cách dịch, như Thức xoa, Thức xoa ma na, Thức xoa ma na ni, Thức xoa ma ni, cũng đều chỉ cho một tên gọi này. Về ý nghĩa của nó, cựu dịchHọc pháp nữ, tân dịch là Chánh học nữ.

Đây là Phật chế người nữ xuất gia phải trải qua quá trình Thức xoa ma ni này trước khi thành Tỳ kheo ni. Nhưng Thức xoa ma ni đã bị Phật giáo Trung Quốc từ lâu bỏ quên. Vì thế, thời gian gần đây đa số Phật giáo đồ đối với ý nghĩa của Thức xoa ma ni đã không hiểu, lại còn có hiểu lầm nữa. Có người cho rằng người nữ từ bé để tóc tu hành ở trong chùa là Thức xoa ma ni. Kỳ thật không đúng, người nữ chưa cạo tóc, chưa đổi trang phục chỉ là một lọai cư sĩ. Cư sĩ phân làm bốn thứ nam nữ tại gia và tại chùa. Nam nữ tại gia gọi là cận sự nam, cận sự nữ. Nam nữ cư sĩ tại chùa gọi là cận trụ nam, cận trụ nữ. Vì thế, trinh nữ để tóc tu hành tại chùa là một lọai cận trụ nữ. Họ chỉ là một trong bốn chúng cư sĩ chưa tiện nhập vào giai đọan của thân phận năm chúng xuất gia. Trung Quốc hiện có những người nữ ở trong chùa vẫn để tóc mặc đồ thế tục tự cho mình là người xuất gia, đó là do họ chẳng hiểu luật chế của Phật. Thật ra, họ vẫn còn là thân phận của người thế tục. Nước Thái Lan thuộc Nam truyền Phật giáo hiện tại không có phái nữ xuất gia, nhưng vẫn cho người nữ cạo tóc đắp mạn y ở trong tự viện tu hành, họ không có địa vị ở trong người xuất gia , vẫn y như cũ là thân phận người thế tục . Nhưng họ có thể cạo tóc đắp mạn y, hình tướng đã đồng Sa di ni .Điều này so với người Trung Quốctự viện không cạo tóc cũng không đổi trang phục lại tự xưng là người xuất gia, thật là hiện tượng đáng được kính phục, đáng được noi theo.

Thức xoa ma ni là quá trình phải trải qua giữa Sa di niTỳ kheo ni. Người nữ xuất gia nếu trước không trải qua hai giai đoạn Sa di niThức xoa ma ni thì không thể tiến vào địa vị Tỳ kheo ni. Người nam xuất gia chỉ có hai giai đọan Sa diTỳ kheo. Người nữ xuất gia nhiều hơn người nam một giai đọan Thức xoa ma ni. Đây chẳng phải Đức Phật kỳ thị phái nữ hoăc thiên vị phái nam, chính vì do sự cần thiết của sự thật, phải thêm một giai đọan Thức xoa.

Người nữ xuất gia thuở ban đầuy cứ vào Bát kỉnh pháp thành Tỳ kheo ni, không trải qua Sa di ni , cũng không có Thức xoa ma ni. Về sau, người nữ xuất gia dần dần đông, phần tử phức tạp, trình độ bất nhất; có những người nữ xuất gia không bao lâu lại độ người khác xuất gia; do đó, vấn đề của thầy trò và yêu cầu của thầy trò phát sinh, vì thế, tối thiểu phải 2 năm giới lạp và thông hiểu giới luật mới có thể làm thầy độ ni. Có những Tỳ kheo ni độ người nữ tại tục xuất gia, một khi xuất gia liền cho thọ Tỳ kheo ni giới thành Tỳ kheo ni. Nhưng sau đó không được bao nhiêu ngày, người nữ ấy không quen với sinh họat xuất gia lại tự động hoàn tục một cách nhanh chóng. Do đó, yêu cầu kỳ hạn của quá trình xuất gia cũng phát sinh, vì thế cũng cần phải thọ Sa di giới. Lại có Tỳ kheo ni độ người nữ xuất gia nhưng chưa biết họ đã kết hôn hay chưa, không biết có mang thai hay không, sau khi họ xuất gia thành Tỳ kheo ni rồi lại có người bụng to ra mà sinh em bé, khiến cho người đời phỉ báng cho rằng Tỳ kheo ni phạm giới dâm. Do đó, Đức Phật phải thêm một giai đoạn Thức xoa cho người nữ xuất gia.

Giai đoạn của Sa di ni không bị thời gian hạn chế. Giai đoạn của Thức xoa ma ni hạn kỳ 2 năm vì trong thời gian 2 năm này: Một là rèn luyện tính tình của người nữ cho họ quen dần với sinh họat xuất gia. Hai là dùng để quan sát sinh lý của người nữ xem có thọ thai hay không. Có người cho rằng dùng thời gian 2 năm để quan sát người nữ có thai hay không dường như quá dài. Kỳ thật nói 2 năm, chứ trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói: “Hai năm là 2 mùa mưa”, nghĩa là nói từ đầu mùa mưa năm nay đến cuối mùa mưa sang năm. Ở Trung Quốc, có thể giải là qua 2 cái tết chứ chẳng phải tròn đủ 2 năm. Tỷ như từ ngày 30 tháng chạp năm nay đến ngày mùng một tháng giêng sang năm; kể là 2 năm kỳ thật chỉ là 1 năm lẻ 2 ngày mà thôi, dùng thời hạn như thế để kiểm tra người nữ có thai hay không, đó chẳng phải là việc thích đáng sao? Đương nhiên, nếu dùng dụng cụ khoa học của ngày nay kiểm nghiệm đâu cần phải qua thời gian dài như thế. Duy nhìn về phương diện làm cho người nữ quen dần với sinh hoạt xuất gia, giai đoạn 2 năm Thức xoa vẫn là cần thiết, như trong Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của đại sư Hoằng Nhất nói:”Lục pháp tịnh tâm, hai năm tịnh thân. Trước là thử xem cái duyên thọ Đại giới, sau là để biết có thai hay không?”

II. TUỔI CỦA THỨC XOA MA NI

Về tuổi của Thức xoa ma ni, các bộ Quảng Luật biên chép đại khái đồng nhau, ước lược có thêm bớt. Trong Tứ Phần Luật quyển 48 nói :”Cho đồng nữ 18 tuổi, 2 năm học giới; tuổi dù 20 ở trong Tỳ kheo ni tăng thọ Đại giới. Nếu 10 tuổi đã từng lấy chồng, cho 2 năm học giới đủ 12 tuổi cho thọ đại giới. Đây là nói với người nữ chưa có chồng, 18 tuổi xuất gia thọ Sa di ni thập giới rồi tiếp theo trải qua giai đoạn 2 năm. Thức xoa ma ni để tiện học tập giới luật trọng yếu của sinh hoạt xuất gia, đến khi đủ 20 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới hoàn thành giai đọan cao nhất của người nữ xuất gia. Nếu thiếu phụ 10 tuổi đã có chồng (người nữ ở Ấn Đô phát dục rất sớm, trên dưới 10 tuổi cưới gả, không phải là chuyện lạ ít có) cũng chỉ trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, người này đến 12 tuổi được thọ giới Tỳ kheo ni trở thành Tỳ kheo ni. Người nữ so với người nam chống trưởng thành hơn, tuy là thiếu phụ tuổi 12, thể chấttrí năng của họ có thể bằng với nam thành niên 20 tuổi. Vì thế trong luật cho người nữ đã từng lấy chồng đến 12 tuổi được thọ Tỳ kheo ni giới chứ chưa từng có ghi cho người nam dưới 20 tuổi được thọ Tỳ kheo giới.

Trong những Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sô Tỳ nại da quyển 18 ghi chép có chút bất đồng. Phật nói :”Nếu người nữ… tuổi đủ 12 hoặc 18 phải cho 2 năm Chánh học pháp mới truyền Cận viên (Tỳ kheo ni )”. Chỗ này nói 12 là bắt đầu 12 tuổi phải học pháp Thức xoa ma ni 2 năm, đến khi 14 tuổi mới thọ Tỳ kheo ni giới. Đây cùng với sự quy định của Tứ Phần Luật nói từ 10 tuổi, trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa, đến 12 tuổi thọ Tỳ kheo ni giới, sai biệt nhau 2 năm ! Rốt cuộc sự ghi chép nào đúng hơn; cũng khó biết! Tôi nghĩ ở Ấn Độ thường sử dụng sự ghi chép của Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ vẫn còn bị coi là quá sớm, vì người nữ Trung Quốc 12 tuổi lấy chồng là điều ít thấy.

Sự ghi chép của Luận Tát Bà Đa đồng với Tứ Phần Luật:”Tuổi 12 được thọ Cụ túc giới, vì quen chịu nhà chồng sai khiến, nên chịu đựng nổi cái khổ của sinh hoạt xuất gia”.

Sự ghi chép của Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 8 đồng với Luật Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, nếu người nữ 10 tuổi đã có chồng, độ cho xuất gia thọ Sa di giới, sau khi đủ 2 năm được thọ Thức xoa ma ni giới, sau khi mãn 2 năm được thọ Cụ túc giới.

Còn có một vấn đề là trong luật chỉ nói người nữ đã có chồng hoặc chưa có chồng, từ 18 tuổi về trước, nếu muốn xuất gia trước phải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa ma ni, chứ chưa nói đến người nữ từ 20 trở lên xuất gia phải như thế nào? Căn cứ vào lý suy ra người nữ từ trên 20 tuổi đến dưới 58 tuổi, nếu đến trong Phật giáo cầu độ xuất gia cũng đều trải qua giai đoạn 2 năm Thức xoa. Bằng không thì hai vấn đề: Tập cho quen sinh họat xuất gia và xem có thai hay không, vẫn y nhiên tồn tại.

III. NHỮNG GÌ LÀ PHÁP THỨC XOA MA NI?

Thứ bậc của Thức xoa ma ni tuy ở trên Sa diSa di ni, nhưng giới phẩm của họ vẫn là Sa di ni giới. Tuy ở trong Ni tăng bạch nhị yết ma (ở trong Ni tăng đòan trước báo cáo một lần, rồi tuyên bố hai phen để trưng cầu đồng ý, gọi là nhất bạch nhị yết ma, gọi tắt là bạch nhị yết ma) truyền cho lục pháp, nhưng không có giới thể riêng để đắc. Vì thế, trong Nghiệp Sớ nói: “Học pháp nữ này không có giới luật, chỉ thọ biệt giáo thứ bậc hơn Sa di ni”. Nhân vì thọ Lục pháp nên thứ bậc hơn Sa di ni. Trong các thứ bậc của giới, đây là thứ bậc rất đặc thù, các thứ bậc giới khác đều có giới thể để đắc, duy có một thứ bậc này chỉ được thêm lục pháp mà thôi. Lục pháp này được gọi là pháp Thức xoa ma ni.

Những gì là pháp Thức xoa ma ni? Trừ nghiêm trì Sa di thập giới ra, còn có thêm lục pháp là:

1. Cùng với thân người nam (từ mí tóc trở xuống đầu gối trở lên) có tâm nhiễm ô xúc chạm người nam thành niên và biết người ấy đối với mình có tâm nhiễm ô.

2. Trộm của người 4 tiền trở xuống: Trị giá 4 tiền trở xuống cho đến một cây kim ngọn cỏ.

3. Cố giết mạng súc sinh: Cố ý giết hại dị loại chúng sinh khiến cho nó chết.

4. Tiểu vọng ngữ: Nói trái lại với điều mình thấy, nghe, hay, biết.

5. Ăn phi thời: Bóng mặt trời quá giữa ngọ mà ăn.

6. Uống rượu: Cho đến một giọt dính vào môi

Thức xoa ma ni phạm 4 giới trước của Sa di thập giới (4 tội căn bản) bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn (diệt tẩn). Phạm bất cứ một pháp nào trong lục pháp đã nêu trên phải bạch nhị yết ma lại và thọ lại lục pháp 2 năm. Nếu phạm các giới khác, chỉ gọi là khuyết hạnh, hối cải liền trừ.

Trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí sô Tỳ nại da quyển 8 có quy định về lục pháp hoặc lục tùy pháp của Thức xoa ma ni, nội dung cùng với Tứ Phần Luật quy định có hơi bất đồng. Nay chép lại như sau:

A. Lục pháp

1. Không được đi đường một mình

2. Không được qua sông một mình

3. Không được chạm vào thân người nam

4. Không được ở chung với người nam

5. Không được làm mai mối cưới gả

6. Không được che giấu Tỳ kheo ni phạm tội trọng

B. Lục tùy pháp

1. Không được cầm vàng bạc thuộc về của mình.

2. Không được cạo lông chỗ kín (dưới nách và đường tiểu tiện).

3. Không được đào đất chỗ ẩm thấp hay sinh cỏ cây.

4. Không được cố ý nhổ cỏ chặt cây.

5. Không được do người đưa mà tự mình lấy thức ăn để ăn.

6. Không được ăn đồ ăn đã xúc chạm.

Trong Tăng Kỳ Luật quyển 39 nói:” Thức xoa ma ni 2 năm phải tùy thuận học 18 việc”. Nhưng trong Tăng Kỳ Luật chưa liệt kê lục pháp và cũng chưa liệt kê lục tùy pháp. Muời tám việc là:”Ăn uống dưới tất cả Tỳ kheo ni, trên tất cả Sa di ni. Đối với Thức xoa bất tịnh thực, Tỳ kheo ni tịnh. Đối với Tỳ kheo ni bất tịnh, đối với Thức xoa cũng bất tịnh. Được cùng Tỳ kheo ni ngủ đồng một phòng ba đêm, cùng Sa di ni cũng chỉ ba đêm. Được Tỳ kheo ni trao thức ăn, trừ hỏa tịnh năm thứ sanh chủng rồi, tự mình nhận thức ăn từ Sa di ni. Tỳ kheo ni không được nói với Thức xoa về Ba la đề mộc xoa (danh tự của giới ngũ thiên thất tụ) của Tỳ kheo ni, chỉ được nói không được dâm, không được trộm, không được giết người. Không được nghe trộm Bố tát, tự tứ. Đến ngày Bố tát, tự tứ, đến trước Thượng tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, thưa như vầy: “Con…..thanh tịnh ức niệm trì”. Nói ba lần như vậy rồi lui ra. Bốn Ba la di sau (Tỳ kheo ni gồm có 8 Ba la di, so với Tỳ kheo ni thì còn có thêm 4 Ba la di sau) là:

1. Cùng với người nam có tâm nhiễm ô xúc chạm thân thể từ nách trở xuống, đầu gối trở lên.

2. Cùng với người nam có tâm nhiễm nắm tay nắm áo vào chỗ khuất, cùng đứng, cùng ngồi, cùng nói chuyện, cùng đi, thân dựa vào nhau, cùng hẹn hò.

3. Biết Tỳ kheo ni có tội trọng mà che giấu không nói cho người biết.

4. Thuận tòng cúng dường Tỳ kheo bị tăng cử tội mà không cho cộng trụ.

Nếu phạm một giới nào phải thọ lại lục pháp. Nếu phạm 19 Tăng già bà thi sa trở xuống (Tăng Kỳ Luật, Tỳ kheo ni có 19 giới Tăng tàn, Tứ Phần Luật chỉ có 17 điều ) tất cả làm pháp sám hối Đột kiết la. Nếu phá 5 giới: “Ăn phi thời, ăn vặt, thường nhận vàng bạc và tiền, uống rượu, đeo tràng hoa, tùy theo ngày phạm phải bắt đầu học giới lại”.

Chúng ta thấy trong ba bản luật dẫn ở trên đều có sự quy định bất đồng. Nhưng ở Trung Quốc chỉ hoằng dương Tứ Phần Luật, nếu lấy sự quy định của Tứ Phần Luật làm pháp thức cơ bản của Thức xoa ma ni đương nhiên thích nghi hơn. Còn sự quy định của hai bản luật kia cũng không ngại gì tham khảo tuân hành, trì được thêm một vài giới đều là đáng mừng. Điều đáng tiếc là Phật giáo Trung Quốc trước mắt không có giai đọan Thức xoa ma ni, thời xưatrải qua hay không, tôi chưa từng thấy tài liệu ghi chép. Nói theo luật chế, phái nữ xuất gia nếu trước không trải qua 2 năm Thức xoa ma ni thì không được thọ Tỳ kheo ni giới. Giả sử thọ Tỳ kheo ni giới cũng không đắc giới. Vì thế, tôi rất ước mong chị em Ni chúng đại tâmchí nguyện, có tuân thủ, có thành tín, có năng lực, phải nên vì sự trùng hưng luật thống và luật chế, nỗ lực một phen, không nên cẩu thả lười biếng để vĩnh viễn làm đồ phụ thuộc không ra gì.

Nghi thức Thức xoa ma ni bạch nhị yết ma và thọ lục pháp cũng rất đơn giản, vì hiện nay Phật giáo Trung Quốc đã chẳng tuân hành nên không cần phải ghi ra. Nếu như một mai tuân hành, tự tìm trong luật bản ra ứng dụng cũng không khó.

IV. PHÁP HỐI TỘI

Sau cùng là hối tội, pháp sám hối của tội Đột kiết la. Tội Đột kiết la gồm có hai thứ: Một là cố ý phạm, hai là vô ý phạm. Vì thế, pháp sám hối cũng có hai thứ: Một là đối trước một vị Đại đức sám hối, hai là tự hối trách tâm sám.

Người sám phải đầy đủ oai nghi hướng về một vị Đại đức quỳ gối chấp tay bạch như vầy:”Đại đức ức niệm con là…sa di (ni) cố phạm tội Đột kiết la…nay hướng về Đại đức phát lồ sám hối, xin Đại đức ức niệm xót thương”. Đại đức thọ sám liền nói: “Tự trách lấy tâm ngươi”. Đáp: “Vâng”.

Tự trách tâm sám cũng nên đầy đủ oai nghi đến trước Phật đốt hương lễ bái, quỳ gối chắp tay bạch: “Con là sa di (ni)…lầm phạm Đột kiết la. Nay phát lồ sám hối không dám làm nữa”. Cũng có người cho rằng lúc tự trách tâm sám không cần ở trước Phật, tùy lúc phạm tâm liền hối lỗi cũng được.

Thức xoa ma ni trừ việc phạm lục pháp có cách xử lý riêng, ngoài ra phạm các điều khác cũng chỉ có một tội Đột kiết la, phương pháp sám hối đồng với Sa disa di ni.

Tỳ kheo không được nhờ Tỳ kheo ni làm sám chủ để hướng về Tỳ kheo ni hối tội. Tỳ kheo ni phải hướng về Thượng tọa Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo thanh tịnh đồng học đồng pháp mà hối tội. Còn Sa di địa vị dưới Tỳ kheo ni, lý đáng có thể hướng Tỳ kheo ni hối tội, nhưng Sa di là người theo Tỳ kheo và trụ ở tự viện của Tỳ kheo, nên cũng không cần phải bỏ chỗ gần đến chỗ xa hướng về Tỳ kheo ni hối tội.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12486)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14087)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10838)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10509)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11162)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11971)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13606)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33625)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11309)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12884)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13025)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11593)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17854)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11395)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11811)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18946)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12512)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11301)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13117)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15727)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11673)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12731)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12609)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13924)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12901)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13262)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12736)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12660)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11704)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11692)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12302)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12367)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19805)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11931)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16862)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12654)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15045)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16084)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12853)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12203)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11896)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11909)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13132)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13213)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12462)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11790)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19818)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11236)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10387)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11067)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10945)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10009)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11723)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant