Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9002)
Chương 5: Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu
Chương 5: Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối

I. PHÁP YẾT MA LÀ GÌ? 

Yết ma là dịch âm chữ Phạn: Karma, dịch ý là “Nghiệp”, nghĩa là thọ giới, thuyết giới, sám tội, và các thứ xử lý của Tăng sự; vì thế còn được giải là “Biện sự” hoặc “Tác sự”. Đây thuộc về giới tác trì.

Hành Sự Sao quyển I, thượng, nói: “Minh Liễu Luận Sớ phiên dịch Sở tác là nghiệp, cũng phiên dịch là tác sự. Bách Luận gọi là sự, nếu tìm theo nghĩa, phiên dịch là “Biện sự”.

Huyền Ưng Âm Nghĩa quyển 14 nói: “Yết ma Trung Hoa dịch là Tác pháp biện sự”.

Nếu giải thích theo thuật ngữ hiện đại, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự hoặc pháp hội nghị riêng của Phật giáo. Tính trọng yếu của pháp yết ma trong Phật giáo tương tự như tính trọng yếu của dân quyền được kiến thiếtbước đầu của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Không có pháp nghị sự kiện tòan chắc chắn sẽ khó sinh ra chế độ dân chủ lý tưởng, tăng đoàn Phật giáo hoàn toàn hợp được với tinh thần dân chủ là do công hiệu của pháp yết ma.Nội dung của chế độ dân chủ hiện đại là dân trị, dân hữu, dân hưởng. Mục đích của pháp yết ma trong Phật giáo là tạo thành lục chủng hòa kính: Thân hòa ở chung, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng chia đều. Từ trên nguyên tắc mà nói: Lục hòa kính của Phật giáosinh hoạt dân chủ của dân chủ tuyệt đối. Sự duy trìbảo hộ một tinh thần dân chủ này là trách nhiệmcông năng của pháp yết ma. Thông thường nói: “Tăng sự, tăng đoán” cũng là lấy ý kiến và lực lượng của đại chúng trong tăng đoàn để giải quyết các việc trong đại chúng tăng đoàn, đoàn kết được đại chúng trong tăng đoàn là nhờ pháp yết ma, trừ khử ác nghiệp cũng phải nhờ pháp yết ma. Chủ tể của sự thành thiện khử ác tuy là đại chúng trong tăng đoàn, nhưng đại chúng trong Tăng đoàn thành thiện khử ác được là nhờ pháp yết ma mà thành. Vì thế, một đoàn thể khônghội nghị quyết chắc không phải là đoàn thể của dân chủ, một Tăng đoàn không cử hành pháp yết ma không thể là Tăng đoàn của lục hòa kính. Tòng lâm của Trung Quốc, thanh chúng có thể bình dầu ngã không cần đỡ dậy, mọi việc đều có các vị chấp sự của thường trụ phụ trách. Nhìn ở mặt thô, thì đây là vì thành tựu sự chuyên tâm tu hành của thanh chúng, thanh chúng của tòng lâm là người an ổn, là người có phước. Song nhìn ở một góc độ khác, tất cả sự vụ của Tăng đoàn, hoàn toàn do một thiểu số chấp sự bao biện mà không cho thanh chúng tham dự, thậm chí chỉ do trung ương tập quyền của phương trượng giám viện, đó là điều không phù hợp với tinh thần lục hòa kính.

II. PHÁP YẾT MA CÓ MẤY THỨ?

Chủng loại của pháp yết ma, phân ra có 101 thứ của 3 loại lớn:

1. Đơn bạch yết ma: Hoặc gọi là Bạch nhất yết ma, nghĩa là “Xướng ngôn”, đây là đối với việc không cần trưng cầu đồng ý, hướng về đại chúng tuyên cáo việc thường làm, quen làmcần phải làm, nói lên một lần là thành. Gồm có 24 thứ.

2. Bạch nhị yết ma: Đây là tuyên cáo một lần, rồi nói lại một lần nửa để trưng cầu sự đồng ý của đại chúng. Gồm có 47 thứ.

3. Bạch tứ yết ma: Đây là trước tiên tuyên cáo một lần, ba lần trưng cầu đồng ý. Nếu như nhất bạch tam yết ma xong, trong đại chúng im lặngbiểu thị không có dị nghị mà tuyên bố yết ma đúng như pháp, nghị án thành lập nhất trí thông qua. Gồm có 30 thứ (chủng số danh mục xin tự tham duyệt yết ma của Luật Bộ).

Tinh thần của pháp yết ma so với trình tự nghị hội của hiện đại thì trang nghiêmthiêng liêng hơn. Đề án nghị hội của hiện đại thông thường là 2 phần 3 số phiếu tán thành thì được thông qua, có khi chỉ cần có quá phân nữa là chuẩn, có khi chỉ cần hơn 3 phần 4 là chuẩn, nhưng rất ít khi nào yêu cầu nhất trí thông qua. Trong Tăng, chỉ cần có một người dị nghị là tăng không hòa hợp thì yết ma không thành. Chỉ có pháp yết ma Diệt tránh là đầu phiếu (bỏ thăm) lấy đa số biểu quyết.

Nhưng trong pháp yết ma cũng có quy định: Phàm, pháp yết ma đúng như pháp, như luật, không cho phép vô lý kình chống mà phá hoại. Nếu một người vô lý kình chống, phá hoại yết ma đúng như pháp, như luật, thì Tăng đoàn có thể làm pháp yết ma đối với một người ấy. Như có một tập đoàn nhỏ 4 người trở lên kình chống làm yết ma riêng thì phạm tội phá yết ma tăng. Vì thế, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự cực kỳ thiêng liêng và lại rất chu đáo tỏ tường. Tăng già Trung Quốc ngày nay không cử hành pháp yết ma, thật là một điều đáng than tiếc.

Sự quy định của pháp yết ma là dùng để phán đoán pháp yết ma có hợp với sự yêu cầu hay không. Sự quy định ấy phải đủ bốn điều kiện yết ma mới thành lập được. Bốn điều kiện ấy là:

1. Pháp: Tức là bản thân của pháp yết ma phải là xuất từ trong chủng loại của pháp yết ma. Pháp có ba loại: Tâm niệm pháp, đối thú pháp, chúng pháp.

2. Sự: Hoặc sự của phạm tội, hoặc sự của sám hối, hoặc sự của thọ giới, đó là những điều cần phải cử hành pháp yết ma. Sự có ba loại: Hữu tình sự, phi tình sự, tình phi tình hợp sự.

3. Nhân: Nhân số tham sự phải được quy định trong khi cử hành pháp yết ma nào đó, tức là số người. Người có 6 đại loại: Một người, 2 người, 4 người, 5 người, 10 người, 20 người.

4. Xứ: Cử hành yết ma cần phải có xứ sở, một xứ sở này gọi là giới. Giới có phân làm hai đại loại: Tác pháp giớiTự nhiên giới. Tác pháp giới lại phân ra ba thứ: Đại giới, giới tràng, tiểu giới. Tự nhiên giới cũng phân ra có bốn thứ: Tụ lạc (xóm làng), lan nhã, đạo hành, thủy giới. Làm một chủng loại yết ma nào cũng điều có giới riêng dùng để quy định.

Bốn điều kiện này tôi hợp lại đưa ra một thí dụ. Tỷ như thọ giới: Bản thân của thọ giới là sự, nghi thức truyền giới là pháp, Hòa thượngA xà lê, tham dự là nhân (người), giới tràng thọ giới là xứ. Nói về số người tham gia yết ma gồm có 6 loại:

1. Một người: Đây là Tâm niệm pháp, tỷ như Tỳ kheo tâm niệm tự trách, sám trừ lở phạm tội Đột kiết la. Thật ra, trường hợp này chưa nhập vào pháp yết ma.

2. Hai người: Đây là Đối thú pháp, một Tỳ kheo đối với một Tỳ kheo thanh tịnh khác nhau làm, như sám trừ tội Ba dật đề. Nói một cách nghiêm khắc thì trường hợp này cũng chưa nhập vào pháp yết ma.

3. Bốn người: Trừ không thể xuất tội tăng tàn thọ giới, biên địa thọ giới tự tứ ra, tất cả yết ma đều có thể bốn người thành tựu.

4. Năm người: Đây là số người tối thiểu của tự tứ yết mabiên địa thọ giới yết ma. Trừ không thể xuất tội Tăng tànthọ giới ra, tất cả yết ma đều có năm người thành tựu.

5. Mười người: Trừ không thể xuất tội Tăng tàn ra, tất cả yết ma đều có thể thành tựu, chủ yếu là số người cần thiết để truyền giới Cụ túc.

6. Hai mươi người: Đây là số người tối thiểu để xuất tội Tăng tàn, và là số người có thể thành tựu tất cả yết ma.

Nhưng, phần tử được tham gia yết ma, trong Tỳ kheo tăng phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo phạm mà chưa sám trừ, không đủ số cũng không được tham dự. Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni,Sa di ni, cho đến tất cả người tục, dù không đủ số, cũng không được tham gia. Yết ma của Tỳ kheo ni, Tỳ kheo cũng không được tham dự.

Nhưng hai bộ Tăng Ni đều riêng có ba thứ yết ma tương đối thực hành:

1. Tỳ kheo có thể vì Ni chúng làm thọ giới yết ma, Ma na đỏa (Ni phạm tội Tăng tàn, làm 35 điều Tùy chúng ý) yết ma, xuất tội (Tăng tàn) yết ma.

2. Tỳ kheo ni có thể làm ba pháp yết ma đối với Tỳ kheo là không lễ bái, không cùng nói chuyện, không kính sợ. Giả như Tỳ kheo vô lý xúc não Tỳ kheo ni, Tỳ kheo ni có thể dùng ba pháp yết ma này đối phó Tỳ kheo.

Chỗ bất đồng là: Tỳ kheoTỳ kheo ni làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo ni phải hiện diện trước Tỳ kheo; Tỳ kheo niTỳ kheo làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo không cần phải hiện diện trước Tỳ kheo ni.

III. PHÁP SÁM HỐI

Đại thừa giới chưa đến Phật quả, không thể tuyệt đối không phạm, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Tiểu thừa giới chưa đến quả A la hán, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Vì thế, phàm là Phật giới, trừ tội trọng ra, đều có phương pháp hối tội. Đây là phương tiện từ bi của Phật, nếu như tất cả giới chỉ có pháp phạm mà không có pháp hối thì không có một chúng sinh nào có khả năng học Phật, thành Phật.

Hai chữ Sám hối, Thiên Thai Chỉ Quán quyển 7 giải thích: “Sám là trình bày tội ác đã làm, hối là sửa đổi lỗi trước, từ nay về sau không làm nữa”. Trên thực tế, bốn ý của Sám hối cùng với sự giải thích trên có chút thêm bớt. Vì hai chữ Sám hối là hợp dịch âm nghĩa của Phạn ngữ: Ksamayati, dịch âm là Sám ma, dịch nghĩa là Hối quá, hợp thành Sám hối. Đã giữ âm lại thêm vào nghĩa.

Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Ký quển 3: hai chữ Sám hối là cùng nêu lên hai âm. Phạn ngữ Sám ma, Trung Hoa gọi là Hối quá”.

Nam Sơn Giới Sớ quyển 1, hạ: “Sám hối, hối là tiếng Trung Hoa, sám là nói tắt của tiếng Ấn Độ, như tiếng Phạn vốn nói là Sám ma”.

Nam Hải Ký Quy Truyện quyển 2: “Cựu dịch là Sám hối, không quan hệ đến thuyết tội. Vì sao? Sám ma là âm tiếng Ấn Độ, nghĩa là tự phải nhẫn; Hối là chữ Trung Hoa nghĩa là truy hối; không có can hệ gì với nhau”.

Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da quyển 15, chú thích: “Nói sám ma, Trung Hoa định nghĩa là: Xin tha thứ, xin cho sửa lỗi, đối diện xin lỗi. Nếu lỡ phạm người hiện diện, muốn xin người hoan hỷ, đều nói sám; bất luận lớn nhỏ đều đồng như thế. Nếu hối tội gọi là A bát đề xá na (Apati-désanà), A bát để là tội, đề xá na là thuyết, đáng lẽ dịch là thuyết tội. Nói sám hối, sám là tiếng Ấn Độ, hối là Tiếng Trung hoa, chẳng phải xin tha thứ tội, cũng chẳng phải là thuyết tội, thật là khó phân biệt rõ”.

Nói theo nguyên ý, sám ma (xin dung thứ) cùng A bát để đề xá na (thuyết tội) không thể hỗn hợp giải thích, cũng không thể hỗn hợp ứng dụng, nhưng ở Trung Quốc đã đem giới hạn của hai thứ này hỗn hợp lại một khối. Vì thế, nói đến sám tội cũng hàm có hối tội, nói đến hối tội cũng hàm có sám tội. Như tác pháp sám, thủ tướng sám, vô sanh sám đã được gọi là ba thứ hối pháp, cũng có thể gọi là ba thứ sám pháp.

Nhưng trong luật phần nhiều dùng pháp hối tội đại biểu cho hai chữ sám hối.

Pháp sám tội, trên thực tế cũng là một pháp yết ma. Pháp yết ma 101 thứ, địa phận thiết yếu không ra ngoài hai loại lớn là thành thiện và khử ác: Tỷ như thọ giới, thuyết giới, tự tứ, kiết tịnh địa, thọ y ca hy na, phân tọa cụv.v… đều là yết ma thành thiện. Lại như Khổ thiết, Khu tẩn, Biệt trụ, Ma na đỏa, hướng bạch y sám hối (Tỳ kheo vô lý xúc não bạch y phải ở trong Tăng bạch nhị yết ma, do một Tỳ kheo khác làm bạn đồng đi qua chỗ của bạch y sám hối), cử tội Tỳ kheo…, đều là yết ma khử ác.

Pháp sám hối gồm có ba thứ và có thể hợp thành hai loại theo biểu đồ như sau:

blank

Tác pháp sám diệt được giới tội mà không diệt được phiền não tánh tội. Thủ tướng sám diệt được phiền não tánh tội nhưng không diệt được vô minh chướng ngại trung đạo quán. Vô sanh sám diệt được vô thỉ vô minh. Tác pháp sám là pháp hối tội của Tỳ kheoTỳ kheo ni mà chương này cần phải giới thiệu, là tác pháp y theo sự quy địnhthuyết tội, hối tội. Thủ tướng sám tức là như trong Phạm Võng Bồ tát Giới Bổn nói: “Phải dạy sám hối, ở trước hình tượng Phật, Bồt tát ngày đêm sáu thời tụng 10 giới trọng, 48 giới khinh, khẩn thiết lễ tam thế ngàn Phật, được thấy hảo tướng”. “Hảo tướng là thấy Phật đến xoa đảnh, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các thứ tướng lạ, liền được diệt tội”. Hai pháp hối tội này đều là dùng sự thông đạt thành mục đích hối tội, vì thế gọi là sự sám. Vô sanh sám là chánh tâm ngồi ngay thẳng, thầm quán vạn pháp “Không, Như” mà lại tức tục, trung đạo hiện tiền, mở Phật nhãn, phá vô minh. Một sám pháp này nếu tu hành tối thiểu là từ cảnh giới Sơ địa trở lên. Vì thế, Thủ tướng sám đã khó quán thành công, Vô sanh sám càng khó quán thành công hơn. Thủ tướng sámVô sanh sám là pháp sám phổ thông của Hóa giáo, là thông dụng của Đại thừa, Tiểu thừa, cũng thông dụng cho cả hai chúng tăng tục. Tác phápsám pháp của thế giáo, là hạn cuộc nơi Tiểu thừa, chủ yếu đối với Tăng Ni, phụ đối với người tục. Nếu chỉ y theo sám pháp tội của Hóa giáo, tuy diệt tánh tội mà giới tội vẫn còn. Nếu chỉ y theo sám pháp sám tội của thế giáo, giới tội hiện tiền tuy diệt nhưng nghiệp đạo tánh tội từ vô thỉ đến nay vẫn còn. Vì thế, tốt nhất là hỗ tương ứng dụng cả ba thứ sám pháp: Thủ tướng, Tác pháp, Vô sanh; hiện tại chúng tôi muốn nói chính là Tác pháp sám, đây cũng là một pháp sám tội dễ được thành công nhất. Nay xin giới thiệu về Tác pháp sám.

Tỳ kheoTỳ kheo ni giới gồm có 6 thứ tội danh. Bởi vì tội Ba la di không thể dùng Tác pháp sám để hối trừ, vì thế tội danh năng hối chỉ có 5 thứ. Nhưng lại không phải là phương thức một thứ tội danh đối với một thứ hối tội, mà trong đó có một thứ tội danh phải dùng 2 thứ cho đến 5 thứ phương thức hối trừ. Hiện tại liệt kê theo biểu đồ như sau:

 blank

Tội Ba la di, vốn chỉ có pháp phạm mà không có pháp hối, nhưng người lần thứ nhất phạm căn bản giới dâm, lập tức phát lồ, hướng Tăng đoàn lập tức tự thú tự bạch thống thiết cải hối, tuy mất giới Tỳ kheo và cũng mất thân phận Tỳ kheo mà không bị diệt tẩn. Sau khi ở trong 20 vị Tăng cầu hối, phải thọ trì 35 việc, thành Dự học Tỳ kheo (Thập Tụng Luật gọi là Dự học Sa di), suốt đời ở dưới Tỳ kheo thanh tịnh và trên tất cả Sa di, suốt đời mất hết tất cả Tăng quyền, không được tham gia bất cứ pháp yết ma nào, suốt đời hầu hạ phục dịch đại chúng Tỳ kheo.

Tội Tăng tàn có thể hối trừ, song cần phải ở trong 20 vị Tỳ kheo thanh tịnh xuất tội. Tỳ kheo Ni phải ở trong hai bộ Tăng và Ni tăng và Tỳ kheo tăng mỗi bộ 20 người xuất tội. Tỳ kheo phạm Tăng tàn nếu phú tàng (che dấu) một ngày, phải làm yết ma 6 đêm Ma na đỏa, hành pháp Biệt trụ, trong thời gian này bị tước đoạt tất cả Tăng quyền, tùy thuận đại chúng, phục dịch đại chúng, hành 35 việc. Sáu đêm hoàn tất, được ở trong 20 vị Tỳ kheo tăng thanh tịnh xuất tội Tăng tàn rồi trở lại thành Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo ni phạm Tăng tàn, trước tiên làm nửa tháng Ma na đỏa, sau đó mới hướng vào trong hai bộ Tăng mỗi bộ 20 người để xuất tội. Đây là vì sự tiện lợi của mỗi nửa tháng Bồ tát, không đến nửa tháng, bất tiện qua trong Tỳ kheo tăng cầu hối xuất tội, vì thế cần phải nửa tháng Ma na đỏa.

Theo sự quy định này, hiện thờiTrung Quốc đã không cử hành yết ma, phạm tội Tăng tàn cũng không làm sao sám trừ. Về sám hối tội Tăng tàn, không thể nói một cách đại khái như nhau được. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp quyển 4 nói: “Có sáu loại người phạm tội chúng giáo (tức Tăng tàn) đối trước một Bí sô thuyết trừ tội ấy được gọi là thanh tịnh.

1. Người trì khắpKinh tạng.

2. Người trì khắp Luật tạng.

3. Người trì khắp Luận tạng.

4. Người tánh rất hổ thẹn, nếu nói lỗi của người ấy, người ấy ôm lòng hổ thẹn đến chết.

5. Bậc Thượng tọa già nhất trong chúng.

6. Người có đại phước đức”.

Hành Sự Sao quyển 4 nói: “Có 6 loại người phạm tội Tăng tàn được tâm niệm hối:

1. Thượng tọa phạm Tăng tàn, e bị mọi người sinh khinh mạn. Phật dạy: Nếu nhất tâm sinh niệm: Từ nay về sau không làm nửa, liền được thanh tịnh.

2. Bậc đại đức được nhiều người quen biết.

3. Người nhiều hổ thẹn, nếu bắt làm pháp ở trong 20 vị tăng xuất tội, người ấy thà xả giới.

4. Bệnh nặng không thể quỳ, không có sức lực để sám.

5. Trụ xứ không đủ 20 vị Tỳ kheo thanh tịnh, lúc đi qua nơi khác cầu hối tội, dọc đường bị giặc hại mà chết.

6. Chúng không thanh tịnh, qua nơi khác cầu chúng thanh tịnh hối tội, dọc đường gặp giặc hại mà chết.

Sáu loại người này, Phật nói: “Nhất tâm sinh niệm, sám hối đúng như pháp là người được sinh lên trời”.

Người xuất giaTrung Quốc ngày nay, nếu đoàn thể sinh hoạt trên 20 người, tốt nhất là dùng pháp yết ma để hối trừ tội Tăng tàn. Nếu như số người không đủ, không có cách nào cử hành pháp yết ma đúng như luật, thì cũng nên theo pháp đối một người sám hối hoặc dùng pháp tâm niệm, hối trừ tội Tăng tàn. Trên thực tế, Tăng Ni Trung Quốc đã không biết dùng pháp yết ma để hối tội.

Thâu lan giá là một thứ tội phức tạp hơn hết. Hành Sự Sao quyển 1, trung, nói: “Một tụ Thâu lan giá, tội thông cả chánh và tòng, thể gồm cả khinh trọng. Luật nêu 7 tụ mà 6 tụ đều hàm Thâu lan giá”. Đây là nói Thâu lan giá chia làm hai môn chánh và tòng: Chánh gọi là Độc đầu Thâu lan giá, Tòng gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Độc đầu là đơn độc thành lập. Tòng sinh là phụ thuộc vào 6 tụ kia mà thành lập, tội chưa thành của 6 tụ kia đều gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Trong 7 tụ, trừ 2 pháp Bất định không định phạm tội nên không có Thâu lan giá, 6 tụ kia đều có Thâu lan giá. Nhưng chánh có trọng cũng có khinh, tòng sinh cũng có trọng có khinh. Tòng sinh Thâu lan giá tuy trùm khắp 6 tụ, nhưng vẫn chủ yếu là Ba la di của thiên đầu và Tăng tàn của thiên thứ hai. Nhưng bất luận chánh tòng đều có thể phân làm ba phẩm: thượng, trung, hạ. Hiện tại đem số người đối hối của ba phẩm chánh tòng liệt kê biểu đồ như sau:

 blank

Biểu đồ này là do tham khảo từ các luật bổn nêu ra, chính xác hay không chờ hỏi bậc cao minh, vì trong các bộ luật đối với vấn đề này đều có ý kiến khác nhau, thật khó tìm sự hoàn hảo nhất trí.

Phẩm vị phân pháp của Tòng sinh Thâu lan giácăn cứ vào trình độ của tội chưa tội mà định: Tỷ như hành dâm là phải hai thân giao hợp với nhau mới thành tội Ba la di của thiên đầu; nếu khởi thân chuẩn bị hành dâm liền đình chỉ, là viễn phương tiện của thiên đầu, thành hạ phẩm tội. Nếu đã dùng tay vuốt ve đối phương chuẩn bị cởi y phục hành dâm rồi đình chỉ, là thứ phương tiện của thiên đầu, thành trung phẩm tội. Nếu đã cỡi áo trong hai thân chạm nhau, nam căn sắp nhập vào nữ căn, lúc chưa nhập liền đình chỉ, là cận phương tiện của thiên đầu, thành thượng phẩm tội. Ba phẩm thượng, trung, hạ của tội Tăng tàn chưa tội có thể so với trên mà biết được, ở đây không cần nêu ra.

Đến Thâu lan giá của tự tánh chánh tội, hoặc Độc đầu Thâu lan giá cũng phân làm ba phẩm: thượng, trung, hạ; nội dung như sau:

- Thượng phẩm độc đầu: Trộm 4 tiền, giết phi nhân (quỷ thân biến hóa thành người), trộm đồ vật của phi nhân trị giá 5 tiền trở lên, ở phi đạo (trừ âm đạo, đại tiện đạo và miệng ra, các bộ phận khác trên thân thể) hành dâm.

- Trung phẩm độc đầu: phá yết ma tăng, trộm 3 tiền trở lên, chạm xúc người hai hình và huỳnh môn; cùng với tóc, móng của người nữ chạm xúc; cùng với người nữ, một người có y phục, một người không y phục chạm xúc; làm cho người khác chảy đồ bất tịnh (thủ dâm).

- Hạ phẩm độc đầu: Chứa lược dùng chảy tóc, cạo lông ba chỗ (nách và đại tiểu tiện), dùng dầu tô thoa láng âm hộ, trần truồng đi, chứa bát bằng gỗ, mặc y ngoại đạo.

Sám tội Ba dật đề thông thường đối với một vị Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) thanh tịnh thuyết tội, hối lỗi, tùy phạm có thể tùy hối. Nếu khôngphương tiện nên đợi lúc nửa tháng thuyết giới sám hối.

Pháp hối quá là tùy phạm tùy hối, đối trước một người nói một lần liền được hối quá.

Pháp hối tội là Đột kiết la và Ba dật đề giống nhau. Nếu lỡ phạm tội Đột kiết la, tự trách tâm thống thiết, hối cải tội liền trừ diệt.

Còn có một điều quy định rất quan trọng là Tỳ kheoTỳ kheo ni không được nói tội ác của mình đã phạm với nhau đế sám hối. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật Tạp Sự quyển 32: “Phật nói Bí sô không được nói tội của mình với Bí sô ni, phải đối trước bí sô thanh tịnh đồng kiến giải phát lồ thuyết đối”.

Lại nói: “Bí sô ni không nên đến bên Bí sô phát lồ phải ở bên Bí sô ni thuyết tội”. Đến như Tỳ kheo ni phạm tội Tăng tàn phải ở trong hai bộ tăng xuất tội; ở trước Tỳ kheo Tăng, chỉ xuất tội mà không phải phát lồ thuyết tội”.

Các pháp yết ma và các pháp sám tội đều có nghi thức nhất định và lời tác bạch nhất định, vì giới hạn của tạp sách nên không thể biên chép lại đầy đủ.

Ở đây đem các loại địa ngục và số năm bị đọa do tội phạm giới ghi lại như sau:

1. Tội Ba la di: Đọa địa ngục Diệm Nhiệt 92 vạn 1 ngàn 6 trăm vạn năm.

2. Tội Tăng tàn: Đọa địa ngục Đại Hào Khiếu 23 vạn lẻ 4 trăm vạn năm.

3. Tội Thâu lan giá: Đọa địa ngục Hào Khiếu 5 vạn 7 ngàn 6 trăm vạn năm.

4. Tội Ba dật đề: Đọa địa ngục Chúng Hợp 1 vạn 4 ngàn 4 trăm vạn năm.

5. Tội Đề xá ni (Hối quá pháp): Đọa địa ngục Hắc Thằng 3 ngàn 6 trăm vạn năm.

6. Tội Đột kiết la: Đọa địa ngục Đẳng Hoạt 9 trăm vạn năm.

Đương nhiên các loại địa ngục này là nhất định, song số năm đọa địa ngục không nhất định, số năm ghi ra ở đây cũng chỉ là đại khái mà thôi. Nhân vì đồng là một thứ tội danh lại có rất nhiều cấp bậc của tội nghiệp, tỷ như Thâu lan giá phân có ba phẩm thượng , trung, hạ; pháp hối tội có 5 phương thức, nếu như không hối thì số năm cảm thọ tội báo đương nhiên cũng không nhất định.

Thiên này đến đây đã xong, đọc giả nếu muốn hiểu sâu xin mời tự nghiên cứu các bộ Quảng Luật. Nếu không nghiên cứu Quảng Luật, tôi xin giới thiệu 4 bộ sách luật: Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu của Đại sư Ngẫu Ích, Tứ Phần Luật Tỳ kheo Giới Tướng Biểu Ký của Đại sư Hoằng Nhất, Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni Giới Tướng Biểu Ký của Tỳ kheo ni Thắng Vũ, Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh. Tỳ kheo tốt nhất nên xem cả bốn bộ; Tỳ kheo ni nên xem 2 bộ sau, ít nhất cũng xem 1 bộ sau chót, vì Ni sư Phật Oánh là bác si y khoa nên đối với phương diện vệ sinh về sinh lý của Ni chúng có sự hướng dẫn tận tường. Chị em Ni chúng của Phật giáo, nếu như đồng trinh xuất gia, đối với vấn đề vệ sinh sinh lý phần nhiều không hiểu, có người bệnh, mắc cỡ không đến y sĩ điều trị. Vì thế, tôi chủ trương người xuất gia nam nữ đều phải hiểu về vệ sinh sinh lý học. Vấn đề sinh lý không phải là bí mật, chỉ có người cho rằng cấu tạo của sinh lýbí mật, nên đối với vấn đề sinh lý mới càng cảm thấy quyến rũ làm mê người mà đến nỗi thành bệnh cho đến tạo thành tội ác. Do đó, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cần xem bộ Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh biên soạn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18961)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13589)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17600)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16393)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13133)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14123)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11332)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13706)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16270)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11900)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12767)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant