Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Nội Dung Và Phân Biệt Của Bồ Tát Giới

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8853)
Chương 2: Nội Dung Và Phân Biệt Của Bồ Tát Giới

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu
Chương 2: Nội Dung Và Phân Biệt Của Bồ Tát Giới

I. BỒ TÁT GIỚI LÀ GÌ?

Sau khi chúng ta đã hiểu rõ ý nghĩa về Bồ tát tiếp theo dây cần phải thảo luận về vấn đề Bồ tát giới, bởi vì lý do của Bồ tát xưng là Bồ tát chẳng phải vô cớ, cũng không tự mình cho mình là Bồ tát, người khác là Bồ tát. Danh từ Bồ tát xuất phát từ Phật pháp, như muốn thành Bồ tát tự nhiên phải cầu điều ấy nơi Phật pháp. Nói một cách giản đơn Bồ tát là do thọ Bồ tát giới mà ra. Lại, vì thế, Bồ tát giới là cái nôi dưỡng dục tam thế chư Phật.

Vậy Bồ tát giới là gì? Giới của Bồ tát thọ, gọi là Bồ tát giới. Muốn làm Bồ tát trước tiên phải thọ Bồ tát giới, như trong Kinh Phạm Võng nói: “Bồ tát giới là bản nguyên của chư Phật, là căn bản của Bồ tát, là căn bản của đại chúng Phật tử”. Người không hành Bồ tát đạo tuy tìm Phật nhưng vĩnh viễn không thể thành Phật. Muốn hành Bồ tát đạo phải thọ Bồ tát giới. Vì thế, Bồ tát giớinguyên nhân căn bản của tất cả chư Phật thành Phật, cũng là chỗ căn bản của Bồ tát để thành Bồ tát. Một từ “Phật tử” trong các kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa giải thích rất nhiều, căn cứ vào kinh luận Đại thừa cho rằng phải là Bồ tát mới có thể nhân vì có chủng tử thành Phật mới xưng là Phật tử. Tỷ như Kinh Lăng Già gọi Bồ tát Đệ bát địaTối thắng tử, Luận Phật Tánh gọi Bồ tát Sơ địaPhật tử. Kinh Phạm Võng nói người phát bồ đề tâm thọ Bồ tát giới đều được gọi là Phật tử. Căn cứ vào quan điểm của Tiểu thừa như Tứ Phần Luật cho rằng: Người tiếp nhận vào biển lớn Phật pháp, dù là Tiểu thừa, cho đến chỉ thọ tam quy ngũ giới của Tiểu thứa, đều là Phật tử. Chúng ta có thể thấy, Đại thừa lấy chủng tử thành Phật làm Phật tử. Nay giảng Đại thừa Bồ tát giới, chỗ gọi là “Căn bản của Phật tử” đương nhiên là chỉ căn bản của chủng tử thành Phật.

Trong Kinh Phạm Võng lại nói: “Tất cả người có tâm đều nên thọ Phật giới, tức nhập vào địa vị chư Phật, vì đồng bậc Đại giác, chân thật là Phật tử”. Bồ tát giớinguyên nhân căn bản của tất cả chư Phật thành Phật. Vì thế, từ trên nhân vị nói, gọi là Bồ tát giới; từ trên quả vị nói, gọi là Phật giới. Cho nên, trong điều thứ 41 của Kinh Phạm Võng còn gọi: “Bồ tát giới là Đại giới của ngàn Phật”, ý muốn nói ngàn Phật ở trong kiếp Trang Nghiêm thời quá khứ do thọ trì Bồ tát giớithành Phật, ngàn Phật ở trong kiếp Tinh Tú thời vị lai cũng thọ trì Bồ tát giới mới được thành Phật, cho đến suy ra ngàn Phật của quá khứ tam thế tam kiếp, ngàn Phật của vị lai tam thế tam kiếp, ngàn Phật của quá khứ vô lượng tam thế tam kiếp. Tóm lại, tất cả chúng sinh, tất cả Bồ tát, tất cả chư Phật, không một ai không do thọ trì Bồ tát giới mà được thành Phật. Do đây đủ biết sự lớn lao của công năng Bồ tát giới không thể nghĩ bàn.

II. NỘI DUNG CỦA BỒ TÁT GIỚI

Bồ tát giới đáng tôn đáng quý là do vì nó bao hàm và còn vượt hơn tất cả giới. Bồ tát giớiBa la đề mộc xoa (Biệt giải thoát giới), ngoài giới của 7 chúng Ưu bà tắc, Ưu bà di, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na ni, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Thân phận của Bồ tát có thể trong 7 chúng, cũng có thể ở ngoài 7 chúng. Ưu bà tắc, Ưu bà di được thọ Bồ tát giới, cho đến Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cũng được thọ Bồ tát giới, đây là trong 7 chúng thọ thêm Bồ tát giới. Theo Kinh Phạm Võng nói: “Chỉ cần hiểu được lời nói của Pháp sư đều được thọ giới”. Vì thế, súc sinh cho đến người biến hoá như quỷ thần đều có tư cách thọ Bồ tát giới và được gọi là Bồ tát, đây là đơn thọ Bồ tát giới ngoài 7 chúng. Những Bồ tát đơn thọ này, trên trình độ phát tâm mà nói, tuy vượt qua 7 chúng của Tiểu thừa, nhưng những người ấy không có địa vị trong 7 chúng, nên cũng không được đặt trước 7 chúng. Bởi vì thứ tự của Phật chế, lấy 7 chúng làm chuẩn chứ không lấy Bồ tát làm chuẩn.

Nội dung của Bồ tát giớiTam tụ tịnh giới, cộng chung chỉ có ba câu nhưng lại bao quát hết pháp môn tự độ, độ tha, trên cầu thành Phật, dưới hoá độ chúng sinh. Ba câu này là:

1. Trì tất cả tịnh giới, không một tịnh giới nào chẳng trì.

2. Tu tất cả thiện pháp, không một thiện pháp nào chẳng tu.

3. Độ tất cả chúng sinh, không một chúng sinh nào chẳng độ.

Trong kinh, Phật gọi Tam tụ tịnh giới này là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiều ích hữu tình giới. Tam tụ tịnh giới nghĩa là tập hợp tất cả Phật pháp vào ba môn lớn: Trì luật nghi, Tu thiện pháp, Độ chúng sinh làm cấm giới để thọ trì. Trong 7 chúng của Tiểu thừa thì làm ác là có tội, không tích cực tu thiện không có tội, sát sinh là có tội, không tích cực cứu hộ sinh mạng cũng không có tội. Vì thế, Tiểu thừa chỉ tích cực bỏ ác, tiêu cực làm thiện, tích cực giới sát, tiêu cực cứu hộ sinh mạng. Bồ tát giới thì phải tích cực bỏ ác làm thiện, cũng phải tích cực giới sát, cứu hộ sinh mạng, đem không tu thiện và không cứu hộ sinh mạng liệt vào phạm vi của cấm giới, nhân đây Bồ tát giới không những bao hàm thất chúng giới mà còn vượt hơn thất chúng giới.

Nội dung của Tam tụ tịnh giới có thể nói là bao hàm hết thảy: Nhiếp luật nghi giới hàm dung tất cả giới luậtoai nghi của Đại thừa, Tiểu thừa; Nhiếp thiện pháp giới bao hàm 8 vạn 4 ngàn pháp môn xuất ly; Nhiêu ích hữu tình giới bao quát từ bi hỷ xả hoằng nguyện và tinh thần rộng độ tất cả chúng sinh.

Vì thế, Tam tụ tịnh giới cũng bao quát cả tinh thần của Tứ hoằng thệ nguyện.

 blank

Nội dung của Bồ tát giớiTam tụ tịnh giới. Tinh thần của Tam tụ tịnh giớipháp môn học Phật tích cực, làm tất cả điều thiện, đầy đủ các đức, bao hàm muôn pháp thảy đều không sót, không công đức nào không thành tựu.

III. CHỦNG LOẠI CỦA BỒ TÁT GIỚI

Bồ tát giớiBiệt giải thoát giới ngoài thất chủng giới, vì thế người thọ thất chúng giới rồi cố nhiên được thọ thêm Bồ tát giới, người chưa từng thọ thất chúng giới cho đến người không đủ tư cách thọ thất chúng giới cũng được thọ Bồ tát giới. Cho nên, tính chất của Bồ tát giới cũng tương tự như Bát giới. Bát giới cũng là một thứ Biệt giải thoát giới ngoài thất chúng giới, điều này trong thiên Bát Quan Giới Trai đã có nói đến.

Nhưng, trong Bồ tát giới có điểm tương tợ với Bát giới là Đốn lập giới, lại có điểm bất đồng với Bát giới mà tương tợ với Tiệm thứ giới của thất chúng giới. Do đó, chủng loại của Bồ tát đại thể phân ra làm hai tính chất: Một loại là Bồ tát giới đốn lập có thể đơn thọ, một loại là Bồ tát giới tiệm thứ, thọ thêm sau khi đã thọ tam quy ngũ giới.

Từ xưa đến nay, trong Tạng Kinh đã thu tập Bồ tát Giới Bổn hoặc Bồ tát Giới Kinh dịch thành Hán văn, gồm có 6 loại:

1. Kinh Bồ tát Anh Lạc Bổn Nghiệp.

2. Phạm Võng Kinh Bồ tát Giới Bổn.

3. Du Già Luận Bồ tát Giới Bổn.

4. Bồ tát Địa Trì Kinh Giới Bổn.

5. Bồ tát Thiện Giới Kinh Giới Bổn.

6. Ưu bà tắc Giới Kinh Giới Bổn.

Nếu phân loại theo Đốn, Tiệm, thì Kinh Anh Lạc, Phạm Võng thuộc loại Đốn lập. Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Người mới hành đạo Bồ tát, hoặc trong tín nam, tín nữ các căn không đủ, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, nô tỳ, người tiến hóa đều thọ đắc giới”. Đủ thấy chẳng hạn cuộc nơi loài người đều được thọ Bồ tát giới. Kinh Phạm Võng quyển hạ cũng có nói: “Người thọ Phật giới, không kể là Quốc vương, Vương tử, bá quan, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, 18 cõi phạm Thiên, Thiên tử 6 tầng trời cõi Dục, thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, nô tỳ, bát bộ quỷ thần, thần kim cang, súc sinh, cho đến người biến hóa, hễ hiểu được lời của Pháp sư đều thọ đắc giới”, mà không nói chẳng thọ thất chúng giới thì không được thọ Bồ tát giới, chỉ cần nghe hiểu lời của Pháp sư giảng về nội dung của giới pháp Bồ tát, giả sử người chưa từng tiếp xúc với Phật pháp cũng có thể thọ giới, đắc giới. Vì thế nói đây là Đốn lập.

Còn 4 loại Giới Kinh: Du già, Địa Trì, Thiện Giới, Ưu bà tắc là thuộc về Tiệm thứ giới. Kỳ thật nguyên bản chữ Phạn của 4 bộ này chỉ có 2 thứ, vì Du già, Địa Trì, Thiện Giới đều thuộc đồng bổn dị dịch của phẩm Bồ tát Địa trong Luận Du già sư địa, vì thế đồng một hình thức, chỉ cần nêu ra một loại là gồm cả ba.

Như trong Thiện Giới Kinh nói: “Bồ tát Ma ha tát nếu muốn thọ trì Bồ tát giới, trước tiên phải tịnh tâm thọ thất chúng giới”. Điều này nói rõ ràng: Bồ tát giới không được đơn thọ hoặc đốn thọ, trước tiên phải thọ toàn bộ hay thiểu bộ của thất chúng giới, hoặc một phần của một chúng giới rồi sau đó mới được thọ Bồ tát giới.

Bồ tát giới của Ưu bà tắc Giới Kinh vốn là Đại thừa giới của người tại gia chứ chẳng phải là Bồ tát giới. Đây cũng là một loại Tiệm thứ giới rất khó được thọ của Đại thừa giới. Trước khi thọ giới phải theo thứ tự lớp cúng dường cha mẹ, sư trưởng, vợ con, hiện tại tri thức, nô tỳ, đạo nhân xuất gia, và hỏi chín thú giá nạn: Gia thuộc không cho, thiếu nợ người khác, thân tâm có bệnh, ô tịnh phạm hạnh, làm tội ngũ nghịch, trộm pháp tặc trụ, khó phân biệt phái nam hay phái nữ, giết người có tâm đạo, vọng ngữ trước chúng. Nếu phạm một điều thì không được thọ giới. Trước khi thọ Bồ tát giới 6 trọng, 28 khinh, phải thực hành tam quy ngũ giới. Tuy đã thọ ngũ giới, cũng phải trải qua 6 tháng xem xét, rồi ở trong 20 Tỳ kheo tăng làm pháp yết mà thọ giới. Đủ thấy ở đây không phải không phân phẩm loại mà thọ được Bồ tát giới. Tại sao phải nghiêm khắc như thế? Trong phẩm Thọ Giới của Kinh này quyển ba nói: “Giới Ưu bà tắc này làm căn bản của Sa di thập giới, Đại Tỳ kheo giới, Bồ tát giới, cho đến A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chí tâm thọ trì Ưu bà tắc giới sẽ được vô lượng lợi ích của các giới ấy”. Đây là nói bản thân của Ưu bà tắc giới là căn bản của Sa di giới, Tỳ kheo giới, Bồ tát giới; thọ Ưu bà tắc giới rồi mới được vô lượng lợi ích của Sa di giới, Tỳ kheo giới, Bồ tát giới.

Nói đến vấn đề giới tại gia và giới xuất gia, chúng ta cần phải phân biệt nói thêm. Căn cứ vào tinh thần của Bồ tát giới mà nói, đã là Bồ tát đều phải đoạn trừ dâm dục, hoặc vì phương tiện độ chúng sinh mà có hành vi dâm dục, song không được có niệm dâm. Tiểu thừa trọng giới hạnh, Bồ tát trọng giới tâm, Bồ tát tại gia của Thánh vịbi tâm độ chúng sinh mà không ngại hành dâm, tuyệt không đồng với phàm phutham luyến khoái lạc dâm dục nên hành dâm. Vì thế, tinh thần căn bản của Bồ tát giớiđoạn dâm, đã đoạn dâm thì sự phân biệt tại gia, xuất gia cũng chỉ là hình tướng hóa hiện bất đồng mà thôi. Nhưng trong 6 loại Bồ tát Giới Bổn do nơi đối với cơ nghi bất đồng nên có sự phân biệt tại gia, xuất gia và thiên khinh, thiên trọng.

Sự phân biệt tại giaxuất gia là lấy giới dâm làm tiêu chuẩn. Giới dâm của Kinh Anh Lạc là “không được cố dâm”. Du già Giới Bổn nói: “Bồ tát xuất gia không được hành phi phạm hạnh”. Bồ tát tại gia “thấy có nữ sắc, lúc đó tâm không dính mắc, dù làm pháp dâm dục mà tâm của Bồ tát vẫn tiếp tục không dính mắc”, “nếu thỏa mãn dâm dục của người nữ kia một cách tự tại rồi thì khéo dùng phương tiện dẫn dắt khiến cho người nữ kia vun trồng thiện căn”, “Bồ tát trụ tâm từ mẫn hành phi phạm hạnh”.

Giới khinh của Địa Trì Kinh Giới Bổn tuy giới mục đồng với Du già Giới Bổn, chỉ riêng chưa liệt kê điều văn tánh giới nói về phương tiện khai phạm 7 chi của thân miệng (sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ), vì thế xem đồng như chỉ có giá mà không có khai. Trong giới khinh của Thiện Giới Kinh Giới Bổn có nêu ra: Giới vào nhà bạch y chẳng được thuyết pháp, giới đồng đi một đường với Tỳ kheo ni, giới chứa đồ vật của bạch y, giới giường cao quá tám ngón tay, đều thuộc giới hạnh của người xuất gia. Giới trọng của Ưu bà tắc Giới Kinh là giới Tà dâm, giới khinh là giới Phi thời phi xứ hành dâm.

Từ những điều văn đã nêu ra ở trên, chúng ta có thể phân biệt một cách đại khái: Anh LạcPhạm Võngđoạn dâm mà chẳng phải tuyệt không dâm hạnh, lấy người xuất gia làm chủ và kiêm cả tâm hạnh tại gia; Du già thì gồm ca tại giaxuất gia; Địa Trì và Thiện Giới thì xuất gia; Ưu bà tắc Giới Kinh thì tại gia.

Nay đem tính chất của 6 loại giới bổn này lấy đốn lập và tiệm thứ, xuất giatại gia liệt kê theo biểu đồ như sau:

 blank

Ở đây chúng tôi cần phải nói thêm: Tinh thần căn bản của Bồ tát giớituyệt đối ly dục, song không ngại gì thị hiệnvợ con mà hành phạm hạnh, vì thế, có thể hiện hình tướng tại gia; Ưu bà tắc giới là căn bản của Bồ tát giới, nhưng không phải là Bồ tát giới, chỉ thuộc về Đại thừa giới, người đã thọ Đại thừa giới, thực hành lục độ, cho nên cũng có thể gọi là Bồ tát tại gia. Đây là điều cần phải biết rõ.

Căn cứ theo sự phân loại của Luật sư Linh Chi: “Bồ tát giới có hai tông, một là tông Hoa Nghiêm bộ, hai là Pháp Hoa bộ” (Chi Uyển Di Biên, quyển 2). Ngài cho rằng Phạm Võng gồm cả hai môn đốn tiệm, thuộc Hoa Nghiêm bộ; Thiện Giới Kinh tiệm thứ thọ, thuộc Pháp Hoa bộ. Biểu đồ bút giả liệt kê ở trên cũng chỉ là phân biệt đại thể mà thôi.

IV. NGUYÊN DO CỦA BỒ TÁT GIỚI

Nói đến nguyên do của Bồ tát Giới có thể phân biệt làm ba loại: Anh LạcPhạm Võng là một loại; Du Già, Địa Trì, Thiện Giới là một loại; Ưu bà tắc Giới Kinh riêng thành một loại. Nay phân ra thuật như sau:

1. Loại Anh Lạc, Phạm võng

Có người cho rằng Kinh Phạm Võng thuộc Hoa Nghiêm bộ: Phật mới thành Chánh giácDiệu Quang Đường tụng ra Phạm Võng. Thái Hiền Cổ Tích Ký nói:

“Diệu Quang Đường, Kinh Hoa Nghiêm gọi là Phổ Quang Đường, nhân Phật phóng quang mà đặt tên, tại nước Ma Già Đà nơi đạo tràng tịch diệt, cách cây bồ đề 3 dặm”. Đủ biết Phạm Võng Giới, Phật thuyết trong nước Ma Già Đà dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La, cách cây bồ đề của Phật thành đạo chỉ có 3 dặm.

Duyên khởi thuyết pháp của Kinh Anh Lạc cũng là: “Một thuở nọ, Đức Phật trở lại nước của vua Bình Sa tức là Tần Bà Sa La, nơi thành Chánh giác dưới cội Bồ đề Ngài ngồi lại chỗ cũ, lại phóng ra 42 tia sáng”. Sau khi phóng quang, Ngài nói cảnh giới 52 ngôi vị Bồ tát, tiếp theo ở quyển hạ, Ngài nói về phương pháp thọ giới của Thập Vô Tận Tạng Giới. Thời gian nói Kinh Phạm Võng tuy sớm hơn Kinh Anh Lạc, nhưng địa điểm phóng quang trước khi nói kinh thì giống nhau. Kinh Phạm Võng cũng trước phóng quang minh, kế nói về ngôi vị của Bồ tát, rồi đến quyển hạ nói điều văn giới tướng của 10 trọng, 48 khinh. Chỗ không đồng nhau là Kinh Anh Lạc không có phương pháp thọ giới, nhưng Anh LạcPhạm Võng vẫn còn nhiều chỗ đồng nhau.

Phạm Võng Giới Kinh là một loại Bồ tát Giới Kinh được lưu thông rộng rãiTrung Quốc hơn hết. Nhưng đối với vấn đề chân ngụy của Phạm Võng là việc đã có từ xưa, các nhà kinh lục cựu thời đã đem Phạm Võng liệt vào loại nghi phẩm. Theo bài tựa Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới nói: “Kinh này gồm có 112 quyển, 61 phẩm”. Trong Bồ Tát Giới Bổn Sớ quyển 1 của Đại sư Pháp Tạng nói: “Nếu luận về bản đầy đủ, Ngài La Thập tương truyền, nói Tây Vức có 61 phẩm 10 vạn bài tụng, dịch đủ thành 300 quyển”. Vì Đại Bộ của Kinh Phạm Võng 2 quyển thượng, hạ của Trung Quốc là do Ngài Tam Tạng La Thập miệng tụng phẩm thứ 10 là phẩm Bồ Tát Tâm Địa Pháp Môn của toàn bộ Kinh Phạm Võng. Nhưng văn tự của quyển thượng rất khó giải thích, văn của bài tựa và hậu ký cũng có khả nghi, điều văn giới tướng cũng rất khó hiểu, đến nỗi bị các học giả cho là người Trung Quốc ngụy tạo. Tuy nhiên đây là một bộ Bồ Tát Giới Kinh rất được hoan nghinh, vì thế trải qua nhiều thời đại có nhiều sự tranh luận. Thời gần đây, Đại sư Thái Hư cũng có một bài “Phạm Võng Kinh và Thiên Bát Kinh Quyết Ẩn”, Ngài cho rằng: “Văn tự của Kinh Phạm Võng quyển thượng nói về Thập phát thú, Thập địa cùng với nửa quyển thứ 7 đến quyển thứ 9 của Kinh Đại thừa Kim Cương Tánh Hải Mạn Thù Thất Lỵ Thiên Tý Thiên Bát Đại Giáo Vương nói về 40 tâm vị thập phát thú v.v… văn tự rõ ràng hơn và ý nghĩa đồng với phẩm Tâm Địa của Kinh Phạm Võng quyển thượng”, và Ngài nói: “Chỗ nói Kinh Phạm Võng 112 quyển hoặc Kinh Thiên Bát để chứng minh có Phạn văn căn cứ, thì có thể bỏ được cái ý kiến nghi nó là ngụy tạo”. Đây là kiến giải chủ trương Kinh Phạm Võngchân thật chứ không phải ngụy. Nhưng theo ý kiến của Pháp sư Tục Minh lại có một lối nhìn riêng, Ngài nói:”Do nơi văn của bài tựa và hậu ký có nhiều dấu tích giống nhau, dường như không phải của Ngài Tăng Triệu viết, cho nên có người nghi kinh này không phải do Ngài La Thập dịch, lại nghi bài tựa không phải do Ngài Tăng Triệu viết, do nghi bài tựa nên càng nghi kinh!”. Lại nói: “Kinh Phạm Võng quyển thượng, xét về văn tự cùng với các kinh sách do Ngài La Thập phiên dịch không hợp, tra cứu lại thì thấy có một đoạn văn nghĩa tương đồng với Kinh Thiên Bát Đại Giáo Vương dịch vào đời Đường. Nhưng vì ngoài hai kinh ấy ra còn thiếu những chứng cứ khác, nên khó luận đoán như thế nào” (xem Giới Học Thuật Yếu). Căn cứ vào sự khảo chứng của Pháp sư Tục Minh, Ngài nhận rằng văn bài tựa và hậu ký của Kinh Phạm Võng là có vấn đề. Kinh văn quyển thượng cũng chẳng phải là của Ngài La Thập dịch, và suy đoán theo hình thức, Ngài cho rằng Kinh Phạm Võng chắc chắn cũng có căn cứ của Đại Bổn, đồng thời Ngài cũng nói: “10 trọng 48 khinh của Phạm Võng giới không phải như tương truyền nói là một phần của phẩm Tâm Địa Pháp Môn, mà từ trong các phẩm của Đại Bổn trích ra”. Một phát minh này rất đáng quý!

Tôi cũng muốn bổ sung vào một chút ý kiến: Đoạn trước đã nói, chỗ tương đồng của Phạm VõngAnh Lạc rất nhiều, cả hai đều là đốn lập giới, đều ở tại nước Ma Già Đà gần Bồ đề đạo tràng, một lúc nói ra đồng là nói 10 điều giới trọng như nhau. Vậy chúng ta có thể tin rằng Kinh Phạm Võng của bản dịch hai quyển là do chịu ảnh hưởng hình thức của Kinh Anh Lạc và phụ thêm vào quyển thượng của bản một quyển. Lại, nhân trong quyển hạ Kinh Phạm Võng đối với tên gọi chung có 42 vị Hiền thánh Bồ tát là Thập phát thú, Thập trưởng dưỡng, Thập kim cương, Thập địa, là dùng một bộ phận của Kinh Thiên Bát làm quyển thượng của Kinh Phạm Võng. Nhưng ở đây cũng có vấn đềKinh Phạm Võng của bản hai quyển Lịch Đại Tam Bảo Kỷ của Phí Trường Phòng (Đời Tuỳ, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 17) đã có rồi. Kinh Thiên Bát do Tam Tạng Bất Không đời Đường dịch ra, điều này trên thời gian bị đảo ngược, cũng có thể cho rằng Kinh Thiên Bát hoặc đồng một tính chất của bản chữ Phạn đã đến Trung Quốc sớm hơn.

Ngoài ra, Pháp sư Tục Minh còn cho rằng Phạm Võng giới có thể do từ trong tác phẩm của Đại Bổn trích ra, đây là thường lệ của giới Thanh văn. Như tôi thấy trong Ưu bà tắc Giới Kinh của Đại thừa giới: Sáu giới trọng và 28 giới khinh đều tập trung vào một phần của phẩm Thọ Giới, đủ thấy hình thức của luật Đại thừa và luật Thanh văn có chỗ bất đồng, vì thế đây là vấn đề còn đợi nghiên cứu. Đồng thời, 10 điều giới trọng của Kinh Anh Lạc cũng là nói một cách tập trung chứ không phải giải thích.

Nhưng mặc dầu như thế nào, tính tồn tại và tính chân thật của Bồ Tát giới là điều không thể phủ nhận. Bồ Tát giới tại Tây Vức cũng đã sớm lưu hành, nhưng trong Bồ Tát Giới Bổn Sớ của Pháp Tạng nói: “Lại nghe ở Tây Vức, các chùa Tiểu thừa lấy Ngài Tân Đầu Lô làm Thượng tọa, các chùa Đại thừa lấy Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng tọa, khiến đại chúng đều trì Bồ Tát giới, yết ma thuyết giới đều tác Bồ Tát pháp sư, Luật tạng thường tụng không dứt”.

2. Loại Du già

Trong loại Du già bao quát ba loại: Du già, Địa Trì, Thiện Giới. Ba loại giới bổn này đều là cùng một phẩm của Luận Du Già Sư Địa, nhưng có nhiều bản dịch khác nhau, cùng có thể do lối nhìn của dịch giả bất đồng hoặc do bản Phạn các Ngài thấy bất đồng, vì thế mà có tường tận hay giản lược, hoặc thiên trọng hay thiên khinh bất đồng. Tuy nhiên, lai lịch loại Du già này không thể hoài nghi, chỗ bất đồng lớn nhất của loại Du già và loại Anh Lạc, Phạm Võngduyên khởi và sự tổ thành của Giới Kinh. Anh Lạc, Phạm Võng là do chính miệng Phật nói ra, còn cuối Du già Giới Bổn có nói về loại Du già như sau: “Các việc khởi ra như thế này: Bồ tát học xứ (giới) trong các Kinh Phật đã tùy cơ rải rác tuyên nói, đó là y luật nghi giới, Thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới, nay nói Luận Bồ Tát này là nói tổng hợp”. Nói một cách khác, loại Du già là do Bồ Tát Di Lặc căn cứ vào các kinh Phật nói rải rác những gì quan hệ đến bộ phận của giới luật góp nhặt biên tập thành. Vì thế, đồng là Bồ Tát giới của Phật nói, loại trước trực tiếp hình thành, loại sau gián tiếp biên thành. Đây chỗ không đồng nhau ở trên nguyên nhân thành lập, nhưng vẫn đều là Bồ Tát giới Phật nói.

3. Loại Ưu bà tắc Giới

Đây là do trưởng giả Thiện Sanh cầu Phật, hỏi pháp, rồi do chính miệng Phật nói ra, gồm có 7 quyển 28 phẩm, rất hợp với căn khí của người tại gia cho đến ngoại đạo đương thời. Đây là một bộ kinh điển rất hay, lịch trình từ một người tục mới phát tâm tin Phật thẳng đến thành Phật đều được chỉ dẫn kỹ càng. Nhưng từ trên nhân duyên thọ giới, đắc giới mà nói, thì đây là một thứ Đại thừa giới rất khó thọ, khó đắc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33292)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6555)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11305)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30417)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7994)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12220)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11619)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12850)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34810)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9858)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52283)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10764)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10728)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16304)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21864)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9635)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7137)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12781)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12804)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16248)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16547)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13877)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16613)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12140)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13847)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14339)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11767)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11290)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16352)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14367)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16211)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12096)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11806)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15684)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14030)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15005)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11974)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13141)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14566)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20741)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13247)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10977)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20733)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14379)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant