Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 5: Phương Pháp Thọ Bồ Tát Giới

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8208)
Chương 5: Phương Pháp Thọ Bồ Tát Giới

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu
Chương 5: Phương Pháp Thọ Bồ Tát Giới

I. CHỦNG LOẠI CỦA SỰ THỌ BỒ TÁT GIỚI

Căn cứ vào Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Thọ giới có ba thứ: một là ở trước Phật. Bồ Tát hiện tại đắc chân thật thượng phẩm giới. Hai là sau khi Phật, Bồ Tát diệt độ, trong vòng ngàn dặm có người đã thọ giới Bồ Tát, thỉnh người ấy làm Giới sư truyền giới cho mình, trước hết phải đảnh lễ và thưa như sau: “Thỉnh Đại Tôn giả làm thầy truyền giới cho con”. Người đệ tử ấy được chánh pháp giới là trung phẩm giới. Ba là sau Phật diệt độ, lúc trong vòng ngàn dặm không có Pháp sư, phải ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát quỳ gối chắp tay tự thệ thọ giớihạ phẩm giới”.

Căn cứ vào điều giới khinh thứ 23 của Phạm Võng nói: “Sau Phật diệt độ, người hảo tâm muốn thọ Bồ Tát giới ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát tự thệ thọ giới, phải ở trước Phật sám hối 7 ngày, thấy hảo tướng thì đắc giới. Nếu không được thấy hảo tướng thì phải sám hối 21 ngày đến một năm, cho đến khi thấy hảo tướng rồi mới ở trước tượng Phật, Bồ Tát thọ giới. Nếu không thấy được hảo tướng thì tuy trước tượng Phật thọ giới cũng không đắc giới. Nếu hiện tiền ở trước vị Pháp sư đã thọ Bồ Tát giới, không cần phải thấy hảo tướng. Vì cớ sao? Vì Pháp sư này, sư truyền thọ, vì sinh tâm kính trọng nên đắc giới. Nếu trong ngàn dặm không có thọ giới sư thì trước hình tượng Phật, Bồ Tát thọ giới, nhưng cần phải thấy hảo tướng”.

Tổng hợp các điều của Anh lạc, Phạm Võng điểm đại đồng mà có tiểu dị. Anh Lạc nêu ra ba thứ pháp thọ giới: Từ Phật hiện tiền thọ, là thượng phẩm; sau Phật diệt độ từ thầy thọ, là trung phẩm; không thầy tự thọ, là hạ phẩm. Phạm Võng tuy chưa đề cập từ Phật hiện tiền thọ, nhưng chỉ biểu thị rõ ràng “Sau Phật diệt độ” có hai cách: ở trước thầy thọ và tự thệ thọ. Thật ra cũng ám chỉ một phương pháp ở thời Phật hiện tiền thọ. Nhưng trong Anh Lạc, tự thệ thọ chưa nói tới cần phải thấy hảo tướng mới đắc giới, bằng không, thì không đắc giới.

Đây cũng là một vấn đề làm cho các vị Cổ đức cảm thấy cần phải tìm cách giải thích. Nhưng tự thệ thọ giớicần hay không cần phải thấy được hảo tướng, cuối đời Minh, Đại sư Ngẫu Ích trong bộ Tỳ Ni Hậu Tập Vấn Biện có một giải thích chiết trung, Ngài nói: “người cầu giới nên tự xét, nếu có thể niệm cùng bi trí tương ứng, trên gánh vác Chánh pháp, dưới thương xót chúng sinh, thì có thể tuân theo Anh Lạc, Địa Trì, giả sử không gặp thầy, phải cầu hảo tướng. Nếu hiện có minh sư, tâm lại kiêu mạn không theo minh sư cầu thọ giới, lại hướng về hình tượng Phật, Bồ Tát cầu đây là điều mà hai Kinh Anh Lạc, Phạm Võng không cho, ngũ hối (là pháp sám hối do Đại sư Trí Giả lập ra gồm 5 mục: 1. Sám hối, 2. Khuyến thỉnh, 3. Tùy hỷ, 4. Hồi hướng, 5. Phát nguyện) trọn không thành công.

Căn cứ vào Giới Sớ của Đại sư Trí Giả, đem phương pháp thọ giới phân làm ba loại:

1. Đối chư Phật thọ giới, có 2 thứ:

a- Chân Phật: Như Diệu Hải Vương và ngàn người con từ Xá Na Phật thọ Bồ Tát giới.

b- Tượng Phật: Như tượng Phật bằng vàng đồng, gỗ, đá, đất, hoa v.v… trong ngàn dặm không có thầy,được hướng về tượng Phật cầu dược thấy hảo tướng để tự thệ thọ giới.

2. Đối thánh nhân thọ giới, cũng có hai thứ:

a- Chân Thánh: Thập địa Bồ TátĐẳng giác Đại sĩ lúc hiện tiền có thể đối với các Ngài là duyên phát giới.

b- Tượng Thánh: Tức hình tượng Bồ Tát; nếu chỉ dùng hình tượng Bồ Tát e thành ra cái lỗi khinh thường. Kinh Địa Trì chỉ nói tượng Phật, chưa nói tượng Bồ Tát; trong Kinh Phạm Võng, Anh Lạc nói: Phật, Bồ Tát là ý nói bên Phật có Bồ Tát.

3. Đối phàm phu Pháp sư thọ giới

Sau khi Phật diệt độ, nếu người muốn cầu thọ Bồ Tát giới, tuy có hai pháp thức: Từ thầy thọ và tự thệ thọ, nhưng thật ra lấy từ thầy thọ giới làm chính, làm gốc. Tự thệ thọ giới là một pháp phương tiện bất đắc dĩ.Nếu như không coi ai ra gì, cho rằng không có người nào đủ tư cách làm Giới sư cho mình mà tự thệ ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát thọ, thì rất khó đắc giới.

Nay đem chủng loại của sự thọ Bồ Tát giới liệt vào biểu đồ sau:

 blank

Bồ Tát giới cũng giống như ngũ giới có thể thọ toàn bộ hay tùy phần. Điều này xuất xứ từ trong Kinh Anh Lạc quyển ha. Có người thọ 1 giới gọi là nhất phần Bồ Tát, cho đến 2 phần, 3 phần, 4 phần, 10 phần gọi là Cụ túc thọ giới. Điều này trong Thái Hiền Phạm Võng Cổ Tích Ký quyển hạ nói rõ hơn: “Một phần thọ, tùy theo ý thích của người thọ lãnh nhận được hoặc thọ một giới hoặc nhiều đều được thành giới, gọi là Bồ Tát. Còn giới Thanh văn, bắt buộc thọ trì tất cả, nếu thọ một phần không dược gọi là Tỳ Kheo, nghĩa là nếu muốn hiện thời đắc A la hán viên mãn quỹ tắc, kiến lập học xứ, thì phải thọ đủ thập giớiCụ túc giới. Bồ Tát không như vậy, nghĩa là không phải hiện đời thành Phật, vì phải trải qua vô số đại kiếp tu hành. Tuy chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư, chỉ thọ một giới còn hơn tất cả công đức của Nhị thừa. Công đức của La hán chỉ vì tự thân, đối với hữu tình không có ân phần. Một giới Bồ Tát vì độ tất cả chúng sinh, không một chúng sinh nào không mang ân”. Đây là đạo lý đối với tùy phần thọ trì Bồ Tát giới đã rõ ràng rồi. Công đức của Bồ Tát là từ phần của tất cả chúng sinh mà được, như trì một giới sát thì ở trong phần tất cả chúng sinh đều được công đức của bất sát, thế nên công đức lớn. Tiểu thừa giới chỉ vì tự thân chẳng thọ sinh tử, chỉ nghĩ đến sinh tử của chính mình, chứ không phải nghĩ vì chúng sinh, cho nên công đức nhỏ. Thành Phật là một sự nghiệp vĩ đại của nhiều kiếp, Bồ Tát đạo là nhân thành Phật, thế nên Bồ Tát không cần hiện đời thành Phật, tùy phần thọ giới không có quan hệ. La hánthể hiện đời tu chứng, do đó không thể tùy phần thọ giới. Đương nhiên Bồ Tát giới hoan nghinh chúng sinh mãn phần thọ giới, mãn phần thọ là thọ hết tất cả giới pháp của Tam tụ tịnh giới.

II. PHÁP TỰ THỆ THỌ GIỚI

Trong Bồ Tát Giới Thọ Tuỳ Cương Yếu Biểu của Đại sư Hoằng Nhất nói: “Văn tự thệ thọ giới thấy trong Luận Du Già sư địa, Phạm Võng cần phải thấy hảo tướng. Nếu y theo Kinh Chiêm Sát Bổn Nghiệp và Luận Du Già là có thể thọ ngay”. Về vấn đề cần thấy hảo tướng hay không, đã thảo luận ở tiết trên.

Tự thệ thọ giới, phương pháp thọ như thế nào? Nay đem “Bồ Tát Anh Lạc Tự Thệ Bồ Tát Ngũ Trọng Giới Pháp” do Đại sư Hoằng Nhất y kinh soạn ra, tôi xin chép ra đây để cùng tham khảo.

1. Lễ kính Tam Bảo

(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Phật.

(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Phật.

(Nhất tâm kính lễ, hiện tại tế tận hiện tại thế nhất thiết Phật.

(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Pháp.

(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Pháp.

(Nhất tâm kính lễ, hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Pháp.

(Nhất tâm kính lễ, quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Tăng.

(Nhất tâm kính lễ, vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Tăng.

(Nhất tâm kính lễ, hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Tăng.

2. Thọ tứ y

Từ nay đến tận vị lai tế thân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y Pháp giới (nói 3 lần).

3. Hối tội

(Nếu hiện tại, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.

(Nếu vị lai, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.

(Nếu quá khứ, thân, miệng, ý tội thập ác nguyện tuyệt đối không phạm, tận vị lai tế.

Sám hối như vậy rồi, ba nghiệp thanh tịnh như lưu ly trong ngoài chiếu sáng (nói 3 lần).

(Phát tứ hoằng thệ nguyện)

4. Tự thệ thọ giới

“Con là …bạch thập phương Phật và đại địa Bồ Tát,con học Bồ Tát ngũ trọng giới (nói 3 lần).

5. Nói giới tướng

 (Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này, không được cố sát sinh. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh; không được phạm, trì được không?

Được. (Tự đáp)

(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian này không được cố vọng ngữ. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không?

Được. (tự đáp)

(Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này không được cố dâm. Nếu có phạm, không phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không?

(tự đáp): Được. 

 (Từ nay cho đến thành Phật, trong khoảng này không được cố bán rượu. Nếu có phạm, chẳng phải là hạnh Bồ Tát, mất 42 pháp Hiền thánh, không được phạm, trì được không ?

(tự đáp) : Được.

1. Tán thán giới đức.

Thọ giới rồi vượt qua tứ ma, thoát cái khổ tam giới, đời đời không mất giới này, thường theo người hành trì cho đến thành Phật.

(Hồi hướng)

Một pháp tự thệ thọ giới này của Đại sư Hoằng Nhất có thể là do sự tham khảo pháp thọ giới Bồ Tát của Đại sư Ngẫu Ích chiếu theo các Kinh Phạm Võng, Anh Lạc, Địa Trì trùng định mà ra, nhân vì phương thức biên đính của hai pháp thọ giới này đại thể tương đồng, chỉ khác ở tường tận hay sơ lược, và Đại sư Hoằng Nhất lấy tài liệu của Kinh Anh Lạc làm chủ yếu.

III. PHÁP NƯƠNG THEO THẦY THỌ GIỚI

Nghi quỹ nương theo Bồ Tát Pháp sư thọ giới, từ ngài Tam Tạng La Thập và ngài Đàm Vô Sấm đến nay, các nhà tham khảo tổng hợp biên đính hơn 10 loại. Trong Giới Sớ của Đại sư Trí Giả đã nêu ra 6 loại : Phạm Võng, Địa Trì, Cao Xương, Anh Lạc, Tân Soạn, Chế Chỉ, ngoài ra còn có bổn của Pháp sư Huyền Sướng chưa liệt vào trong 6 loại này. Về sau lại có Pháp sư Nghĩa Tịch, Luật sư Linh Chi Kiến Nguyệt, Đại sư Ngẫu Ích đều có biên đính. Đến ngày nay, gần đâyPháp sư Tục Minh biên đính một pháp thọ giới. Pháp sư Tục Minh rất suy tôn pháp thọ giới của Đại sư Ngẫu Ích, Ngài nói :”Nghi quỹ truyền Bồ Tát giới nhiều đời biên đính, thấy lưu hành đến đời nay được hơn 10 loại, đại để đều lấy các Kinh Anh Lạc, Phạm Võng, Du Già Giới Phẩm và Bổn cổ Cao Xương tổng hợp thành. Bồ Tát Giới Sớ của Thiên Thai đưa ra 12 môn, Đại sư Trạm Nhiên có “Thọ Bồ Tát Giới Nghi” thứ lớp hoàn toàn đồng, văn cú hơi khác. Đại sư Ngẫu Ích có “Trùng Định Thọ Bồ Tát Giới Pháp” ghi trong bộ Luật Yếu Hậu Tập, đáng được xem là giản dị, vừa chừng, được lưu hành nhưng không phổ biến, thật ít thấy nghe” (xem Giới Học Thuật Yếu).

Nhưng trong Bồ Tát Giới Thọ Tùy Cương Yếu Biểu nói : “Các Sư nêu ra nghi quỹ bất đồng, Nghi quỹ của Luật sư Linh Chi soạn là hay và hoàn bị hơn hết, được ghi chép trong Chi Uyển Di Biên”.

Bút giả tự xét không cao minh bằng Cổ đứcchư hiền đồng thời, nên không dám biên đính một pháp thọ Bồ Tát giới mới. Tuy nhiên, luận theo chỗ cần thiết, pháp thọ giới viết bằng văn ngôn không hợp với sự vận dụng của người thời nay. Bởi vì nội dung của văn ngôn trong khi thọ giới không dễ gì nghe qua một lần mà hiểu, nên thọ giới cũng không được đắc giới. Nhưng tôi vẫn dám hạ bút biên đính nghi quỹ thọ giới theo văn ngữ thể. Do đó chỉ giới thiệu cho độc giả xem pháp thọ giới được người tôn sùng để cùng tham khảo và vận dụng.

1. Truyền Thọ Bồ Tát Giới Chánh Phạm

Bộ này do Luật sư Kiến Nguyệt cuối đời Minh biên đính. Ngài nói trong văn Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp và Di Lặc Bồ Tát Sở Thuyết Bồ Tát Giới Yết Ma đều nói, cho nên nay hội hợp thêm vào nghi quỹ để tuân hành có căn cứ. Chỉ vì bộ này hành văn quá dài, quá nhiều, cho nên đây là một thứ nghi quỹ dùng thích hợp cho giới tràng lớn thọ giới tập thể, cũng là một loại pháp thọ giới lưu thông rất rộng trong thời gian gần đây. Vì văn nghĩa quá dài, ở đây chỉ ghi lại môn loại của nó như sau:

 1. Phu tòa kết đàn giới.

 2. Pháp thỉnh sư nhập đàn.

 3. Pháp lễ kính Tam Bảo.

 4. Pháp chánh thỉnh sư.

 5. Pháp khai đạo giới.

 6. Pháp thỉnh Thánh.

 7. Thọ tứ bất hoại tín.

 8. Pháp sám hối quá.

 9. Pháp phát nguyện.

 10. Pháp phát giới thể.

 11. Pháp duyên giới tướng.

 12. Kết tán hồi tướng.

2. Thọ Đại Thừa Bồ Tát Giới Nghi

Đây là loại nghi quỹ được Đại sư Hoằng Nhất khen là “hay đẹp và hoàn bị hơn hết”. Bộ này do luật sư Linh Chi Nguyên Chiếu soạn, được thu thập vào Chi Uyển Di Biên quyển 2. Trước nghi quỹ thọ giới có chừng hai ngàn chữ thuyết minh phân biệt khai thị về nguyên do và chủng loại của Bồ Tát giới và nói về ý nghĩa của giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng. Về nội dung của nghi quỹ thọ giới, chưa đem giới tướng của 48 giới kinh vào, so với Truyền Giới Chánh Phạm là thiếu, nhưng trừ điều văn của 10 giới trọng đã liệt ra, giới khinh chỉ nói sơ lược ba điều : một là giới uống rượu, hai là giới ăn thịt, ba là giới ăn ngũ tân. Đây cũng có thể thấy duyên cớ Luật sư Linh Chi đặc biệt coi trọng ba điều giới khinh có quan hệ đến sự ăn uống này.

Theo tôi thấy, nọi dung bộ nghi quỹ của Luật sư Linh Chi biên đính đích xác là rất “hay đẹp và hoàn bị”. Văn tự giản dị, nôi dung đầy đủ, gần như đem các thứ yếu nghĩa và nghi tiết của Bồ Tát giới bao quát hết vào trong. Chỗ bất đồng lớn của nghi quỹ này với Truyền Giới Chánh Phạm là sự phô bày giới tràng đã có thể dùng cho nhiều người đồng thọ, cũng có thể dùng cho một người thọ. Đối với nhân số Giới sư cũng chủ trương chỉ thỉnh một vị A xà lê giáo giới thôi. Truyền Giới Chánh Phạm đồng như Tỳ kheo giới, phải thỉnh Tam sư đăng đàn, ở giữa là Bồ Tát Pháp sư, hai bên là 2 vị A xà lê, đây là căn cứ theo Phổ Hiền Quán Kinh. Vì thế, nghi quỹ của Luật sư Linh Chi không có thiết trí hình thức lớn lao. Còn có một điểm bất đồng nữa là Truyền Giới Chánh Phạm liệt kê 12 môn, Luật sư Linh Chi chỉ nêu ra 10 môn. Vì nội dung quá nhiều ở đây chỉ giới thiệu cương mục của 10 môn:

1. Cầu sư truyền pháp.

2. Thỉnh Thánh chứng minh.

3. Cầu Phật gia hộ.

4. Sách đạo khuyến tín.

5. Phát lồ sám hối.

6. Thỉnh sư cầu xin giới.

7. Lập thệ hỏi giá nạn.

8. Gia pháp nạp thể.

9. Thuyết tướng thị giới.

10.Thán đức phát nguyện.

3. Trùng Định Thọ Bồ Tát Giới Pháp.

Đây là pháp thọ giới Bồ Tát do Đại sư Ngẫu Ích biên đính, nội dung giản đơn mà thiết yếu, đáng tiếc là ít được lưu thông, lại ít có người ứng dụng, cho nên tôi đem toàn văn sao lục như sau để truyền bá rộng và ước mong có người ứng dụng. Nghi quỹ này đối với xã hội ngày nay thì tiếc kiệm được thời gian mà lại thọ giới đúng như pháp, thật là điều rất quý! Dưới đây là nguyên văn, phần trong dấu ngoặc là lời bạch của nghi quỹ, nguyên bản không có dấu ngoặc, dùng chữ nhỏ để chú, hiện tạiphương tiện ấn loát nên đổi lại cùng dấu ngoặc, mong độc giả thông hiểu.

(Nếu các Bồ Tát muốn học Bồ Tát Tam tụ tịnh giới, hoặc tại gia, hoặc xuất gia trước hết đối với Vô thượng Bồ đề phát hoằng nguyện rồi, xét kỹ cầu Bồ Tát Pháp Sư công đức đầy đủ, có trí, có lực, trước lễ thầy, trịch áo bày vai hữu, quỳ gối chấp tay cung kính,thỉnh như sau):

(Đại đức ức niệm, con là …ở chỗ Đại đức xin thọ tất cả tịnh giới Bồ Tát, duy trong chốc lát không từ lao nhọc xót thương cho con được thọ (nói 3 lần).

(Đã thỉnh sư rồi, đi đến trước tượng đốt hương thành kính, hoặc thanh chúng cử bài Hương tán, hương tán xong nhất tâm cung kính, hướng thập phương Tam bảo chí thành lễ bái):

(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết chư Phật.

(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết chư Phật.

(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết chư Phật.

(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết tôn Pháp.

(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết tôn Pháp.

(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết tôn Pháp.

(Nhất tâm đảnh lễ quá khứ thế tận quá khứ tế nhất thiết Hiền thánh.

(Nhất tâm đảnh lễ vị lai thế tận vị lai tế nhất thiết Hiền thánh.

(Nhất tâm đảnh lễ hiện tại thế tận hiện tại tế nhất thiết Hiền thánh.

(Mỗi câu lạy một lạy, kế đến lại khiêm hạ cung kính, quỳ gối đối trước tượng Phật, chắp tay thỉnh sư):

(Duy nguyện Đại Đức xót thương truyền cho con tịnh giới Bồ Tát.

(Thỉnh rồi chuyên niệm một cảnh, trưởng dưỡng tịnh tâm, suy nghĩ như vầy: Tôi nghĩ chẳng bao lâu sẽ đắc vô tận vô lượng đại công đức tạng. Bấy giờ, Giới sư phải hỏi rằng):

(Thiện nam tử lắng nghe: Ông phải là Bồ Tát không?

Đáp: Phải.

(Phát bồ đề nguyện không?

Đáp: Đã phát.

(Thiện nam tử lắng nghe! Các ông nay muốn ở chỗ ta thọ chư Bồ Tát tất cả học xứ, thọ chư Bồ Tát tất cả tịnh giới, nghĩa là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới. Học xứ như thế, quá khứ tất cả Bồ Tát đã đủ, vị lai tất cả Bồ Tát sẽ đủ, khắp mười phương hiện tại tất cả Bồ Tát hiện đang đủ.

Đối với học xứ này, đối với tịnh giới này, quá khứ tất cả Bồ Tát sẽ học, khắp 10 phương hiện tại tất cả Bồ Tát đang học, ông thọ được không?

Đáp: Thọ được

(Ba lần hỏi đáp như vậy xong, kế đó phải nói)

(Phật tử phải thọ tứ bất hoại tín.

(Từ đây trở xuống, ba tiết: Quy y, hối quá, phát nguyện đều phải tự nói. Nếu không tự nói được, Sư phải dạy nói):

(Từ nay cho đến tận vị lai tế, thân quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy chánh pháp giới (nói 3 lần).

Phật tử! kế đây phải sám hối tam thế tội :

(Nếu quá khứ, thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.

(Nếu hiện tại thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.

(Nếu vị lai, thân, miệng, ý, tội thập ác, nguyện cứu cánh không khởi, tận vị lai tế.

 (nói 3 lần)

Phật tử! Hối quá như thế rồi, ba nghiệp thanh tịnh như tịnh lưu ly trong ngoài chiếu sáng. Kế đó phát tứ hoằng thệ nguyện:

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Pháp môn vô thượng thệ nguyện học.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 (nói 3 lần)

Phaät tử đã phát tứ hoằng thệ nguyện xong, tôi sẽ vì ông bạch ba phen chứng minh thọ giới. Ông nên nhất tâm lắng nghe và tác ý tư duy. Phải biết: Bạch lần đầu xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp do tâm nghiệp lực thảy đều chấn động. Bạch lần thứ hai xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp như mây như lọng phủ che trên đảnh ông. Bạch lần thứ ba xong, mười phương thế giới diệu thiện giới pháp từ đảnh môn của ông chảy vào thân tâm sung mãn chánh báo, tận vị lai tế hằng làm Phật chủng. Đây là vô tác giới thể, vô lậu sắc pháp, do thiện tâm tăng thượng của ông cảm được, thế nên ông phải chí thành đảnh thọ.

(Bấy giờ người thọ giới quỳ gối như cũ. Giới sư đứng dậy đối trước tượng Phật,cung kính cúng dường khắp 10 phương hiện tại Tam Bảo, đảnh lễ chắp tay bạch như vầy):

 (Ngưỡng khải thập phương vô biên vô tế. Phật Bồ Tát trong các thế giới. Nay trong đây hiện có Bồ tát… ở chỗ Bồ tát tôi nói 3 lần thọ Bồ tát giới, tôi vì làm chứng. Duy nguyện thập phương vô biên vô tế chư Phật Bồ tát trong các thế giới là bậc chân thánh đệ nhất, hiện hoặc không hiện thân bậc Giác ngộ ở chỗ tôi đây tác chứng cho việc thọ giới Bồ tát (nói 3 lần)

(Kế đó Giới sư ngồi lại tòa nói giới tướng của thập trọng và khuyên trì):

Thiện nam tử lắng nghe! Bồ tát có 10 vô tận giới, nếu có phạm, chẳng phải hạnh Bồ tát, mất 42 pháp Hiền thánh, ông nên thọ trì:

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố sát sinh, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố trộm cướp, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố dâm, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố vọng ngữ, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cốbán rượu, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố nói lỗi của Bồ tát tại gia, xuất gia, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố tự khen mình chê người, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố xan tham, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố giận hờn, trì được không?

Đáp: được

§ Từ thân này cho đến thân Phật, trong khoảng này không được cố phi báng Tam bảo, trì được không?

 Đáp: được

§ Phật tử! Thọ 10 vô tận giới rồi, người thọ giới vượt qua tứ ma, thoát khổ tam giới, đời đời không mất giới này, giới này thường theo người hành trì cho đến thành Phật. Phải biết tịnh giới này của Bồ tát đã thọ là tối thắng vô thượng, vô lượng vô biên đại công đức tạng đi theo, đệ nhất tối thượng thiện tâm ý lạc phát khởi, hay trừ diệt hết thảy các ác hạnh của tất cả hữu tình; tất cả biệt giải thoát luật nghi đối với Bồ tát luật nghi giới này trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một số phần, kế phần, tóan phần, dụ phần, cho đến ô ba ni sát đàm phần (dịch là cận thiểu, nghĩa là vi trần, là phần cận thiểu của sắc) cũng chẳng bằng một, vì nhiếp thọ tất cả đại công đức.

(Người truyền và thọ Bồ tát giới đều đứng dậyđảnh lễ thập phương Tam bảo, thanh chúng đồng tụng):

 Thọ giới công đức thù thắng hạnh

 Vô biên thắng phước đều hồi hướng

 Nguyện khắp các chúng sinh chìm đắm

 Chóng qua cõi Phật Vô Lượng Quang

 Thập phương tam thế hết thảy Phật

 Tất cả Bồ tát Ma ha tát

 Ma ha Bát nhã Ba la mật

( Lễ Tam bảo xong , người thọ giới Bồ tát phải lễ tạ Giới sư và chư đại chúng rồi cung kính lui ra )

 

 

LỜI BẠT

 

Xét thấy Tỳ kheo thọ giới, Luật có định pháp thức năm bộ tuy khác, nhưng phần lớn đồng, chỉ có chút phần nhỏ khác, cho nên phải chuyên tuân theo bộ Tứ Phần, bỏ bớt phần rườm rà. Pháp thọ Bồ tát giới, kinh luận đều riêng khác Phạm Võng, Anh Lạc, Địa Trì, Thiện Giới, và Tâm Địa Quán tùy theo trường hợp riêng biệt, tân tường hay sơ lược khác nhau. Thế nên chế chỉ, giáo hành v.v.. mỗi lọai giữ ý riêng của mình, lập theo khoa điều, tuy văn từ đẹp đẽ, ý nghĩa tinh tường, nhưng hoặc nghĩa vì văn mà ẩn, nên không thẳng tắt bằng kinh luận. Ngày nay, pháp thọ giới của Phạm Võng đã thất truyền, chỉ cón bóng dáng sơ sài. Duy có Địa Trì, Anh Lạcy nguyên. Tôi châm chước ba bộ hội thành một pháp thức khiến cho rõ ràng, giản dị, để người truyền, người thọ đều được dễ dàng, khỏi vướng phải cái lỗi rườm rà.

Trên đây là toàn văn của pháp thọ Bồ tát giới do Đại sư Ngẫu Ích trùng định. Vì tôi nhận thấy đây là một loại nghi quỹ rất thiết yếu trong số những nghi quỹ thọ giới Bồ tát do Cổ đức biên định nên tôi không ngại nhọc mà sao lục tòan bộ ra đây đồng thời vì muốn độc giả hiểu rõ điểm xuất phátmục đích của sự biên đính kia, nên tôi cũng sao lục cả lời bạt sau văn thọ giới.

Sau cùng tôi muốn giới thiệu một lọai pháp thọ Bồ tát giới của người gần đây do Pháp sư Tục Minh biên đính cũng giản đơn, thiết yếu. Pháp thọ giới của Đại sư Ngẫu Ích còn có khuyết điểm là chưa có liệt vào một môn“Vấn giá nạn”, nên chỉ có cái thiện của cảm giới mà không hỏi cái ác của chướng giới, trừ phi việc ấy trước đã phạm tội thất nghịch; bằng không thì không thể được. Trong pháp thọ giới của Pháp sư Tục Minh biên đính tất cả phân làm 12 môn, “Vấn giá nạn” là một môn trong số ấy. Đây là điều đáng nhận lấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12568)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12095)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10594)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant