Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Phần 51 - 56

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7924)
4. Phần 51 - 56

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

51. Thế nào là Tăng?
52. Đại giới.
53. Giới trường.
54. Thất diệt tránh.
55. Kiết-ma.
56. Điều kiện của kiết-ma.

51. Thế nào là Tăng?
 

Tăng, Phạn tự là Sangha, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng. Vắn tắt gọi là Tăng. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, sơ chuyển Pháp luân Tứ đế để độ cho 5 anh em Kiều-trần-như (Ajnata Kaudingha), A-thấp-bà (Asvlit), Bạt-đề (Bhadrika), Ma-ha Ma-nam (Màhamànan) và Thập-lực-ca-diếp (Dàshadakasypa). Ngôi Tam bảo hình thành từ đây. Về Ni, Phật đã độ cho Ma-ha Ba-xà-bà-đề (Maha Prajapati) và Công chúa Da-du-đà-la (Yasodara) cũng được Phật độ cho xuất gia, từ đấy Tỳ-kheo-ni bắt đầu hình thành.

 

Thường thường khi nói đến Tăng, in tuồng chỉ cho Tỳ-kheo, chư Tăng là chỉ cho Tỳ-kheo, chư Ni chỉ cho Ni bộ. Nói như vậy có hơi gượng ép, áp đặt. Thật ra chữ Tăng là nói chung hết. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Tăng. Tăng có nghĩa là hòa hợp chúng. Chúng đây gồm 4 người trở lên. Chúng này phải hòa hợp, gọi là Tăng. Ni cũng vậy. Bên Tăng gọi là Tỳ-kheo Tăng, bên Ni gọi là Tỳ-kheo-ni Tăng. Khi gọi là Tăng, một người cũng gọi là Tăng thì không đúng. Một người sở dĩ gọi là Tăng vì họ ở trong đoàn thể bốn người trở lên, đồng giới, đồng thuyết giới, đồng kiết-ma... riêng một cá nhân thì gọi là Tỳ-kheo thôi. Cho nên, khi gọi Tăng là nhóm 4 người trở lên, còn gọi Đại đức Tăng có hàm ý tôn trọng toàn thể các vị xuất gia, các vị có tu hành, có giới hạnh

 
52. Đại giới.

 

Trong Luật nói: Bên Tăng kiết giới rộng nhất là 10 Câu-lô-xá, tức khoảng 18 ki-lô-mét. Nếu ở giữa là giới trường thì bên này 9 km, bên kia 9 km để Tăng ở hai bên cùng tới dự Bố-tát cho tiện. Nếu vị nào sợ đi không kịp thì phải đi sớm để kịp Bố-tát. Còn phía bên Ni, kiết đại giới là một Câu-lô-xá, tức khoảng 1,8 km, đó là đại giới lớn nhất.

 

Còn đại giới nhỏ nhất là trong một già-lam. Thí dụ tại chùa Từ Đàm, tôi kiết một đại giới, nếu chúng Từ Đàm có 4 người trở lên thì nửa tháng phải thuyết giới. Sự thuyết giới đó có nghĩa rằng, với các vị Tăng cùng sống chung, nửa tháng phải họp mặt lại để kiểm điểm hành động của nhau, như giới mình thọ có giữ đúng không, phạm hay không phạm, nhắc nhở cho nhau trong vấn đề tu hành. Nếu có phạm phải lo sám hối. Cho nên nếu trong chùa có đủ 4 người trở lên, có thể kiết giới trường trong một già-lam để thuyết giới, mỗi nửa tháng là đúng Luật. Khi đã kiết giới rồi, đến giờ thuyết giới, nếu trong chúng hôm đó có ai vắng mặt, vì lý do gì, không dữ dục là mắc tội biệt chúng. Ở Hà Nội, chùa Quán Sứchùa Bà Đá cách nhau một ki-lô-mét, nhưng bên nào thuyết giới bên đó, chứ chư Tăng không đi qua lại. Khi chùa có vị khách Tăng đến ở trọ, gặp ngày thuyết giới, vị khách đó coi như đồng thuyết giới với chúng Tăng đó. Nếu vị Tăng không thuyết giới và không nói dữ dục thì coi như biệt chúng. Vì vậy, tôi và Hòa thượng Minh Châu ra công tác Phật sự tại Hà Nội, ở chùa Quán Sứ, khi đúng ngày thuyết giới, có một vị Tăng Tri sự trong chùa đến tin cho biết, thưa hai Hòa thượng, sáng nay Bố-tát. Nếu mình làm thinh là chấp nhận đi Bố-tát; nếu bận việc thì nói tôi xin dữ dục, còn không nói mà đi là mắc tội biệt chúng. Trường hợp mình là khách Tăng, họ không cho mình biết mà cứ thuyết giới là kiết-ma phi tướng. Truởng hợp đó cũng y như tại Giáo hội tỉnh Thừa Thiên ngày trước, các chùa vẫn đến thuyết giới tại chùa Linh Quang, mà tại chùa Báo Quốc, Hòa thượng Trí Thủ vẫn kiết giới cho chúng Tăng bên đó thuyết giới. Và ngay bây giờ, phía bên Ni cũng có 3 chỗ thuyết giớiDiệu Đức, Hồng ÂnDiệu Viên, như vậy vẫn đúng Luật. Sở dĩ lâu nay có nơi Giáo hội tập trung chung một tỉnh tại một điểm để thuyết giới, đó là ngầm đồng ý với nhau và để nhắc nhở nhau trong vấn đề tu hành. Trong đó, người khôn vẻ cho người dại, người hay nhắc cho người dở, là ý như thế. Còn nếu để từng chùa riêng, chùa lôi bốn người mà người nào cũng kém hết, thuyết giới cũng được đó nhưng không thông thì không hay. Thôi, thì hòa đồng chung, trong đó người hay kèm người dở thì nó hay hơn. Phải hiểu rõ nội dung đó và phải biết đại giớigiới trường là như vậy đó.

53. Giới trường.
 

Vì sao phải kiết giới trường? Ví dụ, trong chúng có 30 người, thông báo sáng nay đến thuyết giới. Khi đến, thầy này tới góc này đợi, thầy đến góc kia đợi, thầy khác tới góc nọ ngồi, ngồi đợi nhau mãi hoài không biết thuyết chỗ nào. Vì thế phải quy định một chỗ, một giới trường nhất định nào đó để thuyết giới. Cho nên, khi đến thuyết giới ai cũng đến đó hết. Ai không đến được thì xin dữ dục. Khách Tăng có mặt trong ngày thuyết giới cũng phải dự thuyết giới, nếu Tăng địa phương hay Tăng thường trú không báo cho họ biết để thuyết giới là kiết-ma phi tướng. Họ không biết không đến không dữ dục là mang tội biệt chúng.

 

Tóm lại, sở dĩkiết giới trường là vì đại giới rộng quá, nếu không kiết một chỗ cho chúng Tăng biết thì khi có việc cần bốn người, hoặc 10 người làm mà bắt chúng Tăng 30, hay 40 người họp lại thì phiền phứcmất thì giờ quá. Thí dụ, việc thọ đại giới cho Tỳ-kheo cần 10 người thôi, mà bắt chúng Tăng 20 người ngồi chờ cả ngày thì phí thì giờ.

 

Pháp kiết-ma nói: Lớn thì có đại giới, giới trường, nhỏ hơn nữa thì có tịnh trù tịnh địa, tịnh khố, nhiếp y giới. Nhiếp y giới cũng gọi là Bất thất y giới. Nếu đại giới nhỏ hơn hoặc bằng đất Tăng già-lam thì khỏi kiết giới này. Nếu đại giới rộng hơn đất Tăng già-lam thì phải kiết giới này. Khi kiết phải thêm câu: “Trừ thôn, thôn xá ngoại”. Tức y không được để vào chỗ dân cư. Phạm vi giới này chung với đại giới.

 

Trường hợp đại giới không có giới trường thì đại giới đó chỉ có tướng bên ngoài mà thôi, vì bên trong này không có gì hết. Nhưng trường hợpkiết giới trường thì nó có 3 giới hạn:

 

 

Giới trường ngoại tướng: Từ giới trường này để một khoảng đất trống một đến hai thước, để trong khi kiết giới, nếu có người đi ngang qua lại thì không phạm. Từ khoảng đất trống có đường ranh giới gọi là đại giới nội tướng, là tướng bên trong của đại giới. Đường ngoài gọi là đại giới ngoại tướng, tướng bên ngoài của đại giới. Như vậy, nếu có giới trường thì nó sẽ có ba tướng (ba giới hạn), tướng ngoại của giới trường, tướng nội và tướng ngoại của đại giới. Khi kiết thì kiết giới trường trước, rồi mới đến kiết đại giới nội tướng và cuối là kiết đại giới ngoại tướng. Sau khi tập Tăng lại, cử một vị cựu trú Tỳ-kheo hay một vị rành nơi vị trí đó, đứng ra xướng các giới đó rằng: hôm nay chúng Tăng kiết giới, tôi là người cựu trú Tỳ-kheo, quen biết khu vực này, xin nêu các tiêu tướng. Đông giáp mốc giới A, tây giáp mốc giới B, nam giáp mốc giới C, bắc giáp mốc giới D. Đó là giới trường để mỗi khi thuyết giởi, thọ giới v.v... thì tụng giới, tác pháp sự, giới trường nhỏ nhất, hẹp nhất cũng phải đủ chỗ cho 21 người ngồi để phòng khi xuất tội Tăng tàn. Nếu rộng nữa càng tốt. Từ giới trường trở ra là tướng bên trong của đại giới. Nhưng kiết đại giới rộng nhất cũng chỉ là 10 câu-lô-xá, tức 18 km và Ni là 1,8 km. Đại giới hẹp nhất là một chùa, một trú xứ. Đại giới còn gọi là nhiếp Tăng giới. Nếu có công việc gì của chúng Tăng trong đại giới thì chúng Tăng phải tham dự, nếu không tham dự chính thức thì phải dữ dục. Nếu không tham dự và không dữ dục là mắc tội biệt chúng, còn ai ở ngoài đại giới thì thôi. Nếu trường hợp có một khách ở trong đại giới, khi thuyết giới không báo cho thầy ấv biết để dự, hoặc có báo mà thầy không dự và không dữ dụcthuyết giới là mắc lội kiết-ma phi tướng. Cho nên trong Luật nói tính chất hòa hợp, nhưng hòa hợp triệt để chứ không phải lấy tính cách thiểu số phục tùng đa số như hội nghị thông thường.

 

Thuyết giới, thọ giới đều nằm trong giới trường. Còn các việc khác không vô giới trường mà tập Tăng ở chỗ nào trong đại giới làm cũng được. Thí dụ, kiết-ma làm sạch và xanh môi trường nhà chùa đang sống, thì khi tập Tăng lại và tuyên bố, sáng nay xin chúng Tăng ra trồng cây là được, không cần vào giới trường.

 

Ngoài ra còn có tự nhiên giới (tức tiểu giới). Ngoài đại giới, khi đi đâu đó, gặp ngày Bố-tát thì quây quần lại, ngồi vòng quanh sát nhau lấy đó làm khu vực giới để thuyết giới hay để Tự lứ. Xong việc rồi, xả bỏ đi, tức lấy mình làm mốc giới, chứ không phải lấy cái mốc này, mốc kia làm ranh giới gì cả; đó gọi là tìểu giới trong tự nhiên giới. Nếu khi kiết tiểu giới mà có một số người cùng đi không đồng ý, thì mình tìm ai đồng ý quây quần nhau lại mà kiết tiểu giới hay Tự tứ, xong rồi thì giải tiểu giới ấy đi. Đó là kiết tiểu giới

 

Khi kiết thì kiết giới trường truớc, kiết đại giới sau. Khi xả thì xả đại giới trước, xả giới trường sau. Như khi mặc áo thì áo trong trước, áo ngoài sau; khi cởi thì cởi áo ngoài trước, áo trong sau.

54. Thất diệt tránh.
 

Tức là bảy cách thức chấm dứt sự tranh cãì giữa chúng Tăng. Chúng Tăng thường có 4 sự tranh cãi là:

 

1. Ngôn tránh: Tranh cãi về pháp tướng đúng hay sai. Do sự tranh cãi ấy mà khởi lên sự bất hòa trong Tăng chúng, gồm có 18 việc đưa đến tranh cãi.

 

2. Mích tránh: Do sự tìm lỗi của người khác mà khởi lên tranh cãi, nhân khi dùng ba cách cử tội là bất kiến cử, bất sám cử và bất xả cử để xét tìm tội thuộc phá giới, phá kiến hay phá oai nghi do thấy, nghe, hay nghi. 

 

3. Phạm tránh: Tức bình luận sự phạm giới của ông Tỳ-kheo hư hay thật, đúng hay không đúng; có thật hay chỉ là sự đồn đại mà ra...

 

4. Sự tránh: Tranh cãi về việc kiết-ma như vậy như pháp hay không như pháp. Ví dụ, việc như vậy nên bạch nhị, bạch tứ kiết-ma hay đơn bạch; bạch như vậy là đúng pháp hay phi pháp.

 

Do bốn việc vừa nêu mà khởi lên tranh cãi. Muốn chấm dứt sự tranh cãi đó, phải dùng bảy phương pháp sau đây để chấm dứt sự tranh cãi (diệt tránh: chấm dứt sự tranh cãi).

 

1. Ưng dữ hiện tiền Tì-ni đương dữ hiện tiền Tì-ni: Hay nói tắt là hiện tiền Tì-ni, cũng có từ khác nữa là Diện tiền chỉ tránh luật, tức luật chấm dứt sự tranh cãi giữa hiện diện.

 

Hiện tiền Tì-ni là gì? Là có vụ tranh cãi và cần có vụ đối chất giữa hai bên A và B. Vấn đề tranh cãi ấy phải có mặt A và B đối chất nhau để giải quyết. Trong lúc hiện tiền, cần dẫn chứng lời dạy trong kinh Phật hoặc dẫn Luật để xét đoán việc tranh cãi có đúng với Kinh pháp hay không đúng với kinh pháp của Phật. Đem lời pháp của Phật để giải quyết sự tranh cãi đó. Thí dụ: Bữa kia, có người ăn cơm không hết và sau đó đem đổ, người khác lại không có ăn nên chúng Tăng đem ra cãi nhau. Khi ấy phải dẫn Kinh ra để thuyết phục: Thầy nên biết, trong phép Lục hòa có lợi hòa đồng quân, thầy không giữ phép Lục hòa, không chia cho người khác, như vậy là không đúng. Chỉ cho hai bên thấy để chấm dứt sự tranh cãi.

 

2. Ưng dữ ức niệm Tì-ni đương dữ ức niệm Tì-ni: Cũng gọi là ức chỉ tránh luật. Đây là Luật nhắc nhở người phạm biết mình làm, để chấm dứt việc tranh cãi. Ví dụ: Trong khi cãi nhau về chuyện có tội hay không có tội, trước hết phải người có tội nên nhớ lại. Vậy nên hỏi: Thầy nhớ lại thầy có phạm tội hay không phạm. Nếu thầy nhớ là thầy không phạm mà chúng Tăng cứ gạn hỏi hoài, thì thầy xin Tăng bạch tứ kiết-ma cho thầy nhớ lại (ức niệm). Từ đó cho qua, không ai được phép hỏi. Cho qua trong trường hợp thầy đó sống nghiêm túc sống đúng luật, có hạnh, có tu, sống gần thiện tri thức, chứ còn thầy đó sống bê tha, thiếu nghiêm túc... hỏi thầy, thầy nói tôi không nhớ thì không cho qua được.

 

3. Ưng dữ bất si Tì-ni đương dữ bất si Tì-ni: Cũng gọi là bất si chỉ tránh luật. Chấm dứt sự tranh cãi bằng bất si. Tức người phạm giới trong lúc tinh thần bị bấn loạn, bất thường, bị thần kinh, thì phải kiết-ma bất si Tì-ni để chờ khỏi bệnh mới đem xét để thầy sám hối, chứ bây giờ thầy đang lên cơn điên mà đem ra xét (bất si) thì không xét được. Khi nào thấy tỉnh rồi mới xét.

 

4. Ưng dĩ tự ngôn trị đương dữ tự ngôn trị: Cũng gọi là tự phát lộ chỉ tránh luật. Ngôn trị đây là để người đó tự nói lên cái lỗi của mình phạm mà trị. Có những lỗi tự nói lên là có thể theo đó mà xử không cần gạn hỏi, tra vấn, ép bức.

 

5. Ưng dữ mích tội tướng, đương dữ mích tội tướng: Cũng gọi là cư chỉ tránh luật. Tức người phạm tội không nói tội của họ ra, cứ nói quanh co, mâu thuẫn, lộn ngược lộn xuôi, nói điên đảo. Khi đó phải nêu từng tướng một thầy ấy phạm, phải lý giải tội không thể chối cãi củ a thầy ra để bắt thầy nhận tội. Ví dụ tội ăn cắp. Khi hỏi thầy có ăn cắp không, thầy ấy chối và nói không ăn cắp. Bây giờ chúng Tăng phải trưng bằng chứng: bữa đó tới chỗ đó, khi thầy đi ra người ta mất đồ. Bữa trước thầy không có tiền, nay thầy lấy tiền đâu mà mua cái này, sắm thứ nọ, vậy tiền đâu thầy có?... Phải trưng bằng cớ để xét tội ăn cắp của vị ấy. Người bị như vậy phải phạt tội suốt đời, không cho vị ấy làm 8 việc như độ người xuất gia, nhận nuôi người, làm y chỉ... 

 

6. Đa nhân mích tội, ưng dữ đa nhân mích tội tướng đương dữ đa nhân mích tội tướng: Cũng gọi là triển chuyển chỉ tránh luật, nghĩa là Luật ngăn dứt tranh cãi bằng cách triển chuyển. Triển chuyển là thế nào? Tức là hai bên tranh nghị nhau mãi, không làm sao giải quyết được hết. Vậy bây giờ tập trung các vị Tăng hữu đức lại mà thẩm đỉnh tội đó, lấy ý kiến đa số, phạm như thế nào thì y như vậy mà xử.

 

7. Ưng dữ như thảo phú đia đương dữ như thảo phú đia: Hoặc gọi như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Luật chấm dứt sự tranh cãi y như vứt miếng vải rách. Câu này có hai cách cắt nghĩa:

 

a. Khi hai bên đều tỉnh lại cả, hai bên đều nhận lỗi cả, thì lỗi đó đều bị vứt đi như miếng vải rách vứt xuống đất.

 

b. Hai bên đều có lỗi (lỗi nhẹ), lỗi tùm lum, nếu khươi ra thì nó lắm chuyện, không làm sao xử được. Thôi thì như lấy cỏ lấp đất trên mặt cho yên, hoặc như thảo phú địa. 

 

Đó là thất diệt tránh.

 

(Còn trong đời sống chúng ta hịện giờ, có một số việc nó đi ra ngoài, tuy không phạm Kinh phạm Luật gì lắm. Ví dụ: Tổ chức Giáo hội, tổ chức đoàn thể mà cãi thì đem Luật nào để xử! Khó lắm. Cho nên ta phải biết, khi nói về Giới luật, ta đem giới luật để nói, còn khi nói về Giáo hội, tổ chức hành chánh thì ta đem Giáo hội, tổ chức hành chánh để nói, không hẳn đem Giới luật ra mà nói đưọc. Tỉ dụ như chuyện thọ giới. Chúng Tăng truyền thọ Cụ túc khi kiêt-ma thì không cho Ni, cư sĩ dự vào. Nhưng mở một Đại hội Phật giáo gồm cả Tăng, Ni, cư sĩ, bầu Ban trị sụ, giải quyết một việc gì trong Ban trị sự không có Ni, không có cư sĩ không được. Cho nên nói Giới luật là chỉ để giải quyêt về vấn đề giới luật, còn tổ chức thì là nguyên tắc của hành chánh. Vì trong Luật có chỗ nào nói bầu Ban trị sự đâu. Cho nên Luật nói Luật, nguyên tắc hành chánh nói nguyên tắc hành chánh thì mới không phức tạp)

55. Kiết-ma.
 

Kiết-ma, tiếng Phạn là Kamla, nghĩa là Nghiệp. Nghiệp trong kinh đức Phật dạy là, việc gì mình làm có dụng ý, cố ý làm thì thành nghiệp; nếu làm vô tâm thì không thành nghiệp.

 

Do vậy, bất cứ cá nhân, đoàn thể hễ có động tác hành, có động tác làm đều gọi là nghiệp. Nếu trong đoàn thể tập họp, biểu quyết một việc gì đó cũng là một hành động, cũng gọi là nghiệp. Vì vậy trong Luật, Phật dùng chữ kiết-ma. Kiết-ma coi như là một phương thức biểu quyết để xử lý mọi công việc Nếu mọi công việc của chúng Tăng mà không đi qua sự biểu quyết này thì công việc không thành, hay có ép thành cũng không hợp pháp. Cho nên Luậl định nghĩa chữ Kiết-ma là tác pháp biện sự. Vì vậy, cá nhân tụng kinh cũng là nghiệp, thuyết giới cũng là nghiệp, dự việc chung của chúng Tăng cũng là nghiệp; cho đến thủ tục giải quyết công việc chung của chúng Tăng gọi là kiết-ma, cũng là nghiệp.

56. Điều kiện của kiết-ma.
 

Muốn kiết-ma một việc gì thì phải có một thủ tục biểu quyết. Do đó, kiết-ma còn được hiểu là một phương thức, một phương pháp hay là một thủ tục biểu quyết. Muốn biểu quyết thì cần phải có bốn điều kiện: pháp, nhân, sự và xứ.

 

I. PHÁP.

 

Vậy Pháp là gì? Là nguyên tắc, thủ tục, phương thức kiết-ma. Luật Tứ phần nói có 3 cách thức biểư quyết: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ. Trong luật Tăng kỳ thêm mộl điều nữa là cầu thính. Tức trước khi đem một chuyện gì đó ra đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ phải cầu thính, tức phải thưa trước vị chủ trì trong chúng kiết-ma đó biết. Hoặc muốn nêu tội của ai thì cũng nói trước người đó biết, chứ không nêu sự việc lên một cách đột ngột; nếu báo cho vị chủ trì biết (chủ pháp sự) hay bỉnh pháp biết, là để tránh câu chuyện thưa ra sẽ bị động, tác hại tâm lý không ổn trong chúng, cần phải tránh.

 

a. Đơn bạch: Là vấn đề gì muốn làm, chỉ cần trình ra cho đại chúng biết, chứ không cần lấy ý kiến biểu quyết. Ví dụ: Trong giới đànthỉnh giáo thọ, thì chỉ cần nói: Đại đức Tăng thính, kim thời đáo Tăng sai vị Tỳ-kheo tên A, tên B làm giáo thọ. Bạch như thị, chứ không có kiết-ma thành phủ. Nghĩa là không cần lấy ý kiến biểu quyết. Thí dụ khác là Tự tứ, thì bạch: Hôm nay chúng Tăng Tự tứ, xin trình cho chúng Tăng biết gọi là đơn bạch. Đơn bạch cũng là một hình thức biểu quyết dành cho những việc thông thường. 

 

b. Bạch nhị: Bạch nhị là một vấn đề đưa ra cần lấy ý kiến. Việc đưa ra này có hơi quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Tức một vài vấn đề đưa ra giữa chúng Tăng và xin kiết-ma thành phủ, tức là ai đồng ý việc đó thì im lặng, ai không đồng ý xin nói lên. Công thức là: một lần bạch, một lần kiết-ma, gọi là bạch nhị .

 

c. Bạch tứ: Có những vấn đề quan trọng hơn, lấy ý kiến một lần chưa đủ, phải lấy ý kiến ba lần, gọi là bạch tứ (một lần bạch, ba lần kiết-ma). Thí dụ, một vấn đề đưa ra như: thọ đại giới chẳng hạn (một lần bạch), xong rồi kiết-ma: Tôi xin hỏi sự việc như vậy, ai đồng ý thì im lặng, ai không đồng ý thì nói lên (l lần), rồi kiết-ma lần hai, lần ba cũng như vậy. Công thức: một bạch, ba lần kiết-ma, nên gọi là bạch tứ.

 

Trong Bạch nhất kiết-ma có nêu: Đơn bạch có 24 sự việc, Tứ phần luật nên có 40, Kiết-ma chỉ nam nêu có 44. Bạch nhị có nêu ra 47 sự việc. Bạch tứ có nêu 30 sự việc, Tứ phần luật nêu 38, Kiết-ma chỉ nam nêu 39. Ngoài đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ như vậy gọi là Tăng bỉnh kiết-ma (bỉnh là cầm), là thứ kiết-ma giữa chúng Tăng. Đơn bạch cũng là loại bạch giữa chúng Tăng đông người, bốn người trở lên). Bạch nhị, bạch tứ cũng vậy. Nhưng trường hợp chỉ có 3 người, hai người, một người thì sao? Có hai cách: một là đối thú và hai là tâm niệm.

 

1. Tâm niệmtrường hợp một người, một cá nhân. Ví dụ: Phạm tội Đột-kiết-la chỉ tâm niệm sám hối là hết tội. Tâm niệm pháp có 3 cách:

 

a. Đản tâm niệm: Là chỉ có mình tâm niệm với mình mà thôi, vì vấn đề nhỏ.

 

b. Đối thú tâm niệm: Vấn đề cần đối thú (hai đến ba người). Ví dụ: Kiết giới Tự tứ cần đối thú trước người khác mà nói lên, nhưng ở trong nội giới không có ai để cho mình đối thú hết, buộc lòng phải tâm niệm, gọi là đối thú tâm niệm.

 

c. Chúng pháp tâm niệm: Việc này đáng phải đối giữa chúng mà làm, nhưng bây giờ ở trong nội giới đơn độc một mình, không có chúng để làm nên phải tâm niệm. Như tâm niệm kiết giới, tâm niệm Tự tứ. Tâm niệm Tự tứ là không có ai, còn nếu có thì bỏ tâm niệm để làm đúng theo đối thú hay chúng pháp.

 

2. Đối thú kiết-ma có 2 trường hợp:

 

a. Đản đối thú: Thí dụ, một người phạm hối quá pháp, phạm Ba-dật-đề thì chỉ cần đối với một người có thể sám hối là hết tội.

 

b. Chúng pháp đối thú: Vấn đề cần đối thú giữa chúng mà sám hối, nhưng nội giới không có chúng để đối thú, vì vậy phải chúng pháp đối thú (đối giữa hai người mà làm, vì không đủ bốn người). Dầu có đối thú tâm niệm, là đối thú khi mình đối trước người khác, cũng phải nói: Trước Tam Bảo, con hôm nay có phạm lỗi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, hối quá pháp, con xin sám hối. Trong khi An cư, thọ thuyết tịnh, thọ dược, thọ thất nhật... là việc phải đối thú. Ví dụ: Khi thọ An cư, mặc dầu chúng rất đông nhưng chỉ đối thú một người (vị chủ pháp sự) chứ không phải giữa chúng. Tuy đông, nhưng chỉ đối ngay một người mà thọ An cư, chứ không phải đối cả chúng. Khi đối thú phải nói lên, nếu không nói thì bất thành.

 

Chúng pháp tâm niệm: điều này có nghĩa nguyên phải đối giữa chúng Tăng mà nói ra, nhưng trong nội giới không có chúng, đơn độc một mình, cho nên tâm niệm mà miệng phải nói lên (như thuyết giới, Tự tứ).

 

Gọi là đối thú thì phải từ một đến 3 người. Nếu một người thì gọi là tâm niệm, còn bốn người trở lên gọi là chúng pháp.

 

II. NHÂN.

 

Tức nói về Tăng số. Sự việc đem ra kiết-ma cần bao nhiêu người. Nếu đẳng tâm niệm thì một người, việc đối thú thì 2 hoặc 3 người; việc thuyết giới thì 4 người; việc biên địa thọ giới, tức nơi ít Tăng thì 5 người; việc nơi nhiều Tăng, Tăng đông, khi thọ Cụ túc giới thì phải mười người, tức trung quốc thọ giới, nếu không đủ thì bất thành. Việc kết tội thì chỉ cần 4 người và xuất tội Tăng tàn phải giữa 20 người. Về phía Ni thì xuất tội Tăng tàn đều phải đủ 20 Tăng và 20 Ni, thành 40 người.

 

Nhưng người nào được kể đủ trong số đó? Một nguời là tâm niệm. Tăng 2, 3 người là đối thú; Tăng 4 người thì chỉ trừ việc thọ đại giới, Tự tứ, còn tất cả việc khác đều có thể kiết-ma làm được hết. Tăng 5 người, thì trừ xuất tội Tăng tàntrung quốc thọ giới ra, tất cả việc khác đều có thể làm được hết. Tăng 10 người thì trừ việc xuất tội Tăng tàn, còn tất cả việc khác đều làm được hết. Tăng 20 người thì tất cả mọi kiết-ma đều làm được hết.

 

Tăng như thế nào mới tham dự đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ đó? Có 4 trường hợp:

 

1. Tăng mãn số bất khả ha: Trường hợp Tăng mãn số bất khả ha. Ví dụ: Trường hợp kiết-ma Ha-trách một vị Tỳ-kheo nào phạm tội hay để tẩn xuất một vị Tỳ-kheo phạm tội, thì tuy vị Tỳ-kheo đó phạm tội nhưng khi Tăng chưa kiết-ma xử trị thì ông đó vẫn là Tăng và vẫn được kể vào mãn số Tăng. Đến khi kết tội Ba-la-di là bất cộng trú thì ông đó không còn là Tăng, mới không kể ông vô mãn số. Ví dụ ông phạm tội Tăng tàn thì ông vẫn là Tăng. Tăng đương tàn nhưng vẫn là Tăng. Trong khi chúng Tăng kết tội ông thì ông không có tư cáchthẩm quyền chặn kiết-ma không cho Tăng làm. Đó là Tăng mãn số bất khả ha (ha: có nghĩa là ngăn, và cũng có nghĩa là ngăn không cho kiết-ma, phủ nhận kiết-ma). Hoặc ông Tăng ra chọc tức, quấy rầy nhà cư sĩ, bấy giờ chúng Tăng kết tội ông, ngăn không cho tới nhà cư sĩ đó nữa, ông không có tư cách chặn lại không cho kết tội.

 

2. Tăng mãn số khả ha: Thí dụ trong lần kiết-ma đó, ai cũng thanh tịnh hết, như pháp hết, nhưng có một vị Tăng không đồng ý, vị Tăng đó có quyền ngăn kiết-ma (khả ha: ngăn) không cho kiết-ma đó thành, mà vị đó là một vị Tăng như pháp, thanh tịnh thì mới ngăn được.

 

3. Bát mãn số khả ha: Ví dụ: có một vị xin vô thọ giới giữa Thập sư. Thập sư là Tăng số Tỳ-kheo, còn giới tử đó không thể kể vô số Thập sư được, nên gọi là bất mãn số, nhưng khả ha. Thí dụ, Thập sư mới kiết-ma lần thứ hai, hỏi thành không, thì ông nói: Thôi thôi, tôi không thọ nữa, rút lui thì Thập sư cũng chịu thua (khả ha). Gọi là bất mãn số mà khả ha, tức không được kể vào số trong Tăng chúng những người đó có quyền ngăn chặn kiết-ma đó cho không thành tựu. Thập sư cũng chịu, kiết-ma sao được, kiết-ma làm gì!

 

4. Bất mãn số bất khả ha: Ví dụ như Tăng kiết-ma, bên Ni có ngồi đó cũng ngồi cho vui vậy thôi, làm sao kể vào mãn số với Tăng, như vậy ha sao được. Nhưng trừ ba trường hợp (Ghi chú: cho nên đức Phật ngày xưa, nói bên Ni đừng buồn. Nhiều khi các vị học chưa chu đáo, trách đức Phật sao Ngài bất công quá, bắt Ni thọ bát kỉnh pháp, gặp mấy ông thầy chi chi cũng phải Bát kỉnh pháp, buồn quá! Té ra, ngày xưa Phật khi đưa Bát kỉnh pháp đó ra, bất đồ bị mấy ông Lục quần Tỳ-kheo bắt bẻ Ni đủ điều đủ cách. Đụng đâu đưa ra bát kỉnh pháp nấy, làm cho Ni đau dầu chịu không nổi, sau Phật biết việc đó nên khai ra ba trường hợp):

 

a. Bên Tăng kiết-ma về việc của Ni phải có mặt của Ni đó. Ví dụ, thọ đại giới cho Ni, Tăng kiết-ma thọ đại giới cho Ni, bên Thập sư Ni cũng có mặt.

 

b. Kết tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt.

 

c Xuất tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt.

 

Đó là ba việc của Tỳ-kheo kiết-ma cho Ni, Ni phải có mặt. Ngược lại, Ni cũng có 3 trường hợp kiết-ma về Tăng là, nếu ông Tăng có điều vô lý xúc phạm đến Ni, thì Ni kiết-ma không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường cho vị Tăng ấy.

 

Hoặc giả ông Tỳ-kheo đã bị diệt tẩn, Ni cũng kiết-ma đối với ông Tăng đó; không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường. Nếu Ni ủng hộ thì Ni phạm tội

 

Trường hợp có một ông Sa-di đến chùa Ni phá phách, vị Ni lớn có thể kêu ông Sa-di tới khuyên răn; khuyên không được, Ni cũng có quyền kiết-ma không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường đối với 2 vị Hòa thượnggiáo thọ của ông Sa-di đó, vì Sa-di chưa đủ 18 tuổi nên hai vị Hòa thượng thọ giới cho vị Sa-di đó phải chịu trách nhiệm.

III. SỰ.
 

Là sự việc. Tức nói rõ sự việc đem ra kiết-ma. Đem kiết-ma về việc gì? Sự việc đem ra biểu quyết cần bao nhiêu người để sắp đặt kiết-ma. Sự việc ấy cần bạch nhị hay bạch tứ? Sự vụ thì có 101 kiết-ma. Đó là nêu đại khái, thật ra còn có nhiều hơn nữa, nhưng tóm lại không ngoài hai loại: một là thành thiện kiết-ma; hai là trừ ác kiết-ma.

 

– Thành thiện kiết-ma: Loại kiết-ma để hoàn thành công việc tốt đẹp, như công việc tiến tu đạo hạnh là công việc thiện. Ví dụ, như kiết-ma thọ giới, thuyết giới, An cư, Tự tứ... là thành thiện. Những kiết-ma như vậy là thành thiện kiết-ma.

 

Trừ ác kiết-ma: Ngược lại kiết-ma trừ ác là loại kiết-ma trị tội. Ví dụ, kiết-ma trị tội Đột-kiết-la, Ba-dật-đề, Đề-xá-ni, Thâu-lan-giá, Tăng tàn, Ba-la-di, gọi là trừ ác. Kiết-ma trừ ác trong Luật nêu ra có 7 cách trị tội: 

 

1. Ha-trách kiết-ma; 2. Tẩn xuất kiết-ma; 3. Y chỉ kiết-ma; 4. Giá bất chí bạch y gia kiết-ma; 5. Bất kiến cử kiết-ma; 6. Bất sám cử kiết-ma; 7. Ác kiến bất xả cử kiết-ma.

 

1. Ha-trách kiết-ma: Nguyên do, trong Luật có kể như sau: Có hai vị Tỳ-kheo, một tên Trí tuệ, một tên Lôi-ê-na, chuyên tìm tòi chuyện hay dở của nhau để cãi cọ đấu đá nhau. Việc cãi vã bằng binh khí miệng lưỡi này không còn là chuyện cãi vã giữa hai người mà nó lây lan ra những người khác, khiến cho việc trong chúng chưa có, bây giờ nó xảy ra, trước có ít bây giờ nó tiếp tục lớn ra. Theo trong văn ta thấy có nói: Hãy tác ha kiết-ma Ha-trách bạch tứ đối với hai ông Tỳ-kheo đó. Nhưng muốn cử tội thì phải tuần tự: kiết-ma cử tội (nêu tội ra). Sau khi nêu tội ra, hỏi thầy có nhớ tội khẩu như đao kiếm không? (tác ức niệm). Khi tác ức niệm, hỏi thầy có nhận tội đó không? (tự ngôn). Nếu thầy không nhận thì chúng Tăng sẽ cử tội thầy (thầy có tội ấy). Khi cử tội thì phải tập Tăng, bạch tứ kiết-ma. Thí đụ: Đại đức Tăng lắng nghe: nay có 2 thầy Tỳ-kheo này đã cùng nhau tìm tòi lỗi hay dở của nhau, dẫn đến cãi cọ nhau, miệng tuôn ra lời như đao kiếm chém nhau, nên hôm nay Tăng vì hai thầy Tỳ-kheo này tác Ha trách kiết-ma. Nếu về sau vẫn chứng nào tật nấy thì sẽ gia Tăng thêm tội nữa. Bạch như thị (kính trình

như vậy) xong rồi mới ba lần kiết ma Ha-trách. Người bị tội Ha-trách trong thời gian chưa giải tội chưa sám hối thì không được làm thầy y chỉ cho người, không được thuyết giới, không được thọ đại giới cho người. Tăng có sai đi giáo thọ cho Ni cũng không được nhận. Ở giữa chúng Tăng có hỏi giáo lý cũng không được phép đáp, Tăng sai làm cũng không được làm. Tăng có thảo luận, bình nghị về giáo điển cũng không được dự vào. Nếu sau đó biết ăn năn sám hối: Nay tôi xin từ bỏ, không dám miệng xuất ra lời như dao kiếm nữa, xin Tăng giải tội cho. Muốn giải tội cũng phải tập Tăng kiết-ma bạch tứ giải tội cho thầy. Trường hợp thầy cứ phạm mãi thì cử tội tẩn xuất, không cho ở trú xứ cũ .

 

2. Tẩn xuất kiết-ma: Đây là phạm Tăng tàn ô-tha-gia hành ác hạnh (trong Tăng tàn có tội ô tha gia hành ác hạnh, Tăng tàn thứ 12). Đó là trường hợp của 2 thầy Tỳ-kheo A-tháp-bà và Phú-na-bà ở tại Kỳ-liên. Họ ăn rồi chuyên trồng cây hoa lá đem tặng cho cư sĩ, cùng người nữ ngồi chung thân mật nói chuyện, đờn ca xướng hát, múa may quay cuồng, đi đứng thiếu oai nghi, nhìn qua liếc lại, chân trước chân sau xoay qua đá lại. Việc làm như vậy ai thấy cũng chê bai (ô tha gia hành ác hạnh cu hữu kiến văn là câu chuyện trong Luật có nói, là chuyện sờ sờ trước mắt, ai cũng thấy, ai cũng nghe hết), nhưng cũng có một số người hoan nghênh hùa theo.

 

Thời gian đó cũng có một số Tỳ-kheo ở nơi xứ Gia-thi-di-đế du hành nhân gian khất thực, ai nấy nghiêm trang, mắt cứ nhìn thẳng mà bước, không nhìn qua ngó lại, không cười giỡn. Các cư sĩ trong vùng đó bàn tán: Mấy vị này ở đâu tới mà nghiêm trang, coi bộ khó thân cận quá, không như hai thầy Tỳ-kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà vui vẻ, nói cười tươi tắn. Họ bèn bảo nhau: Thôi, chúng ta không cúng cho mấy ông mới này nữa, mà chỉ riêng cúng cho A-thấp-bà và Phú-na-bà mà thôi. Đức Phật nghe chuyện lạ quá, sai đi hỏi, mới biết cơ sự như vậy, bèn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đem Tăng chúng qua Kỳ-liên bạch tứ kiết-ma để tẩn xuất hai thầy Tỳ-kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà ra khỏi trú xứ đó. Khi bị tẩn xuất, hai thầy còn nói lại với dân chúng đó rằng: “Tôi nói cho các vị biết, ông Xá-lợi-phất cùng ông Mục-kiền-liên, ông thì thuyết pháp hay, ông thì thần thông giỏi, các vị nên coi chừng kẻo bị mấy ông dụ dỗ mê hoặc đó. Các ông đó dễ sợ lắm. Tụi tui đi thì đi, ở nhà các vị phải canh chừng, đừng theo mấy ổng”.

 

3. Y chỉ kiết-ma: Trường hợp Thầy Tỳ-kheo tên Sô vô tríphạm tội. Thầy xen lộn với bạch y, ở chung ở chạ với họ, gần gũi với họ, không thuận theo Phật pháp. Phật nghe vậy khiến các Tỳ-kheo khác kêu thầy về, sai bạch tứ kiết-ma bắt phải y chỉ. Từ nay thầy phải y chỉ trú, tức là phải tìm một vị Tỳ-kheo đa văn, giới đức để dựa vàohọc Luật, học pháp, để mà tu hành.

 

4. Giá bất chí bạch y gia kiết-ma: (Nhà của người bạch y tức là cư sĩ). Tức kiết-ma ngăn không cho họ đến nhà của người bạch y. Nguyên do là vì ở trong Mật lâm có thầy Tỳ-kheo tên Thiện Pháp, thầy ở trong đó tu và được ông cư sĩ Chất Đa hay đến cúng dường. Thời gian sau có Tôn giả Mục-kiền-liên và Xá lợi phất đến Mật lâm thuyết pháp, ông cư sĩ nghe pháp thích thú, hoan hỉ quá và mời hai vị về thọ trai cúng dường. Thế là thầy Thiện Pháp đi qua nhà dòm ngó, thấy thức ăn cúng cho mình khác với cúng 2 Tôn giả, liền sinh lòng ganh tức nói: Té ra ông cúng mình như vậy mà lại cúng dường cho 2 vị hơn mình như thế, bèn châm chọc nhà cư sĩ rằng: Thức ăn gì cũng ngon hết, cũng tốt hết, nhưng thiếu dầu ép gia vị (hồ ma-tể) nên cũng hóa ra cúng đồ ăn tồi”. Thầy vừa nói vừa chắp tay sau lưng đi qua đi lại. Ông cư sĩ nghe vậy cũng nói lại: Thầy này lạ chưa, nghe thầy tu hành giữ giới hạnh, tu thiền định, theo chánh pháp sao thầy nói gì mà hà tiện vậy, chẳng khác gì một nước không có gà, rồi một người đem một con gà mái tới cho rập với con quạ đen sinh ra gà nhưng mà nửa gà nửa quạ kêu Ô kê (gà quạ). Phật nghe chuyện đó, sai người gọi về, họp chúng lại, kiết-ma cử tội Giá bất chí bạch y

gia. Thường thường đi khất thực thì thứ đệ khất thực, không phân biệt, bình đẳng khất thực, ai cho gì lấy nấy, trừ các đồ sống và đồ hạt sống, từ nhà này đến nhà khác, không cho thì đi, chứ không phải người ta mới bước ra cửa đem đồ cho lại xông vào nhà liền. Trong Luật nói: Đó là tác bất ưng tác– nghĩa là làm việc không nên làm. Phép khất thực thì đến trước nhà người im lặng, có cho thì lấy, không cho thì đi qua nhà khác, không phân biệt gì cả. Nhưng đối với trường hợp thầy Thiện Phápcư sĩ Chất-đa thì sao? Phải làm phép kiết-ma, không cho thầy tới nhà cư sĩ này nữa, và cũng phải kiết-ma cử người đến nhà cư sĩ Chất-đa xin lỗi.

 

Người cử đi phải đủ 8 pháp: 1 . Đa văn, có trí 2. Khéo nói (thiện thuyết). 3. Tự mình biết mình, tức tự thân đã giải được tội rồi; 4. Biết ý người khác, 5. Biết nghe lời người khác nói: 6. Người đó có thể nhớ sự việc; 7. Không có tì vết, khuyết điểm gì; 8. Hiểu rõ được trong câu nói lành hay dữ.

 

Xét trong chúng, chỉ có Tôn giả A-nan là đủ 8 điều đó nên cử đi. Tôn giả A-nan dắt thầy Thiện Pháp đi theo, nhưng bắt đứng ngoài chỗ xa xa, Tôn giả A-nan vào nhà cư sĩ Chất-đa nói rằng: Thưa ông cư sĩ, ông là người trọng Phật, trọng Pháp, kỉnh Tăng, mà có lời lẽ thô lỗ như vậy, thiết tưởng cũng nên sám hối, vì đã xúc phạm đến Tam Bảo. Nếu ông cư sĩ nhận lỗi và xin sám hối thì thôi, nhược bằng không chịu sám hối, thì phải ra dắt thầy Tỳ-kheo phạm tội tới. Ông cư sĩ đứng ở chỗ mắt thấy nhưng tai không nghe, bảo vị ấy sám hối, nhưng phải cốt để ông cư sĩ Chất-đa thấy bóng dáng, xong rồi trở về nhà cư sĩ nói: Này ông cư sĩ, thầy Tỳ-kheo ấy đã xin sám hối rồi. Ông cư sĩ chấp nhận thì tốt, còn không thì bắt thầy đến ngay ông cư sĩ Chất-đa mà sám hối (rất công phu).

 

Có 10 sự việc bị Tăng kiết-ma cấm Tăng đến nhà cư sĩ. 10 sự ấy là gì?

 

1. Dùng lời nói thô tục mắng chửi cư sĩ.

 2. Dùng các phương tiẹn làm cho kẻ bạch y tổn giảm.

 3. Làm việc khóng có lợi ích (bất nhiêu ích sự)

 4. Làm cho cư sĩ mất nơi cư trú .

 5. Làm náo loạn nơi sinh hoạt của cư sĩ.

 6. Đối trước nhà bạch y mà hủy báng Phật.

 7. Đối trước nhà bạch y mà hủy báng Pháp.

 8. Đối trước nhà bạch y mà hủy báng Tăng.

 9. Đối trước bạch y nói những lời hạ tiện, mất tư cách.

 10. Thất hứa, thất tín với cư sĩ, làm họ mất tin tưởng.

 

 

5. Bất kiến cử kiết-ma: Thầy Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng hỏi thầy có thấy tội không? Thầy cứ một bề nói không thấy. Tăng bạch tứ kiết-ma cử tội “không thấy” của thầy. Người đã bị Tăng kiết-ma. Loại này thì không được thọ đại giới cho người, không được độ người, không làm y chỉ cho người, không được thuyết giới.

 

6. Bất sám cử kiết-ma: Thầy Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng nói thầy phạm tội thì nên sám hối. Thầy nói không sám. Chúng Tăng cử tội “bất sám” (bất sám tội cử).

 

7. Ác kiến bất xả cử kiết-ma: (Có ác kiến mà khuyên không chịu bỏ). Có thầy Tỳ-kheo Lôi-trà nói: Theo chỗ tôi hiểu, dâm dục không phải là pháp chướng đạo. Các Tỳ-kheo khác khuyên thầy không nên nói như vậy. Như Lai không dạy như vậy, nhưng thầy khư khư không bỏ. Phật nghe và gọi thầy tới quở trách, tập chúng kiết-ma cử tội “có ác kiến mà không chịu bỏ” (ác kiến bất tội cử).

 Tóm lại, mục đích của kiết-ma là thành thiện và ngăn ngừa điều ác (trừ ác). 

 Kiết-ma để làm gì? Có 3 loại:

 

a. Vị nhân tác kiết-ma: Đó là pháp kiết-ma nhân nơi người. Vì người mà thiết lập nên gọi là vị nhân tác. Ví dụ, kiết-ma thọ giới, kiết ma sám hối, kiết-ma trị tẩn. Loại này có thể phân làm hai loại:

 

– Vị nhân tác tư sự: Chỉ có lợi cho cá nhân chứ không phục vụ việc công. Ví dụ, kiết ma thọ giới. Ai thọ giới thì người đó có lợi, ai sám hối thì người đó được nhờ.

 

– Vị nhân tác công sự: Lợi ích được phổ cập cho nhiều người. Ví dụ, kiết-ma thuyết giới, Tự tứ. Trong đó ai cũng được lợi ích, chứ không riêng gì cho ai.

 

b. Vị pháp tác kiết-ma: Vì một pháp sựtác pháp kiết-ma. Ví như thuyết giới, Tự tứ, kiết tập King tạng... nhờ việc này mà có lợi ích đến mọi người.

 

c. Vị sự tác kiết ma: Vì một sự việc nào đó mà tác pháp kiết-ma. Ví như, kiết tịnh địa, tịnh khố (để chứa đồ dùng), tịnh trù (để đồ ăn thức uống)...

 

Ngoài ra còn có loại kiết-ma vị nhân, vị pháp và vị sự, như thọ công đức, thuộc vị pháp và vị sự kiết-ma. Kiết giới đồng thuyết giới đồng lợi dưỡng là pháp kiết-ma vị pháp, vị sự và vị nhân. Vì cả hai bên cùng hòa hợp với nhau.

 

IV. XỨ.

 

Xứ kiết-ma là nói về xứ kiết giới. Việc kiết giới phải có phép tắc. Ví dụ kiết-ma ở đâu, phải có chỗ đàng hoàng chứ không phải bạ đâu làm đó. Chỗ đàng hoàng là chỗ kiết giới. Giới có hai loại: tự nhiên giới và tác pháp giới.

 

Tự nhiên giới là chỗ tự nhiên mà thành nơi cư trú của Tăng, chứ không phải do kiết ma qui định, như chùa, viện, a-lan-nhã, thôn xóm. Thủy giới cũng là tự nhiên giới, nhưng không phải chỗ trú xứ của Tăng.

 

Tác pháp giới cũng gọi là nhiếp Tăng giới. Tức là giới hạn cho Tăng sinh hoạt mọi việc pháp sự trong đó. Lớn thì có đại giới, giới trường; nhỏ thì có tịnh trù, tịnh khố và tiểu giới để dùng trong khi đi đường không thể đến trong giới trường để thuyết giới, Tự tứ. Giới này do tập Tăng kiết-ma mà thành, cho nên gọi là tác pháp giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17864)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11130)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11521)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12663)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9763)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19533)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant