Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Bồ tát giới - Bồ tát danh và thiệt

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7589)
6. Bồ tát giới - Bồ tát danh và thiệt

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

BỒ-TÁT GIỚI

 
Bồ-tát giới là thông giới, khác với Tỳ-kheo giới là biệt giới. Bồ-tát giới thì chỉ cần nghe hiểu là thọ được, còn Tỳ-kheo giới thì phải lục căn hoàn bị mới thọ được.

 

Bồ-tát dịch từ chữ Buddhisattva (Buddhi: giác ngộ; sattva: hữu tình, chúng sinh, tức một chúng sinh có thể giác ngộ thành Phật). Trong kinh Phạm Võng nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính. Nhữ thị đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật, thường tác như thị tín, giới phẩm dĩ cụ túc”. Hết thảy chúng sinh đều có thể thành Phật. Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành. Ai mà tin ở điều đó thì giới phẩm đã thành tựu rồi, còn về giới tướng là để thực thi tâm Bồ-đề này mà thôi. Giới Bồ-tát được nói trong Phạm Võng.

 

I. Phạm Võng.

 

Vì sao gọi là Phạm Võng? Vì Phật nhìn lên trên lưới của trời Đế-thích như cái võng có nhiều mắc. Chính lưới có mắc ấy nó đang chiếu phản ánh lẫn nhau thành vô tận. Kinh Hoa Nghiêm ví cho lý trùng trùng duyên khởi cũng như lưới Đế-thích.

 

Một mặt gương phản chiếu ánh sáng qua trăm ngàn cái gương khác. Trăm ngàn cái gương khác chiếu lại trong một cái gương này, như vậy là trùng trùng vô tận, không biết bao nhiêu cái gương, bao nhiêu ánh sáng chiếu qua chiếu lại; nhân đó Phật nói kinh Phạm Võng. Kinh này ý nghĩa đồng như kinh Hoa Nghiêm, gồm 61 phẩm. Phẩm Bồ-tát tâm địa giới là do Ngài La-thập dịch.

 
II. Tâm địa giới.

 

Thế nào là tâm địa giới?

 

1. Pháp môn thì nhiều nhưng không ra ngoài tâm. Cho nên nêu tâm là nêu đủ các pháp. Tâm là bổn nguyên của thánh và phàm. Ngộ được bổn nguyên đó là thành Phật, thành Bồ-tát; không ngộ thì thành chúng sinh lưu chuyển. Bồ-tát vốn ngộ tâm đó cho nên mới thọ Bồ-tát giới này và y theo giới tâm địa mà làm. Nhân thì giống như đại địa. Đại địa có hai tính cách:

 

a. Muôn vật muôn thú từ nơi đó mà phát sinh; muôn giới muôn đức cũng từ đó mà phát sinh.

 

b. Tâm Bồ-tát như đất, không phân biệt tịnh uế; đổ nước hoa cũng được, nước thối cũng xong, với một tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh; ai khen cũng được, ai chê cũng không sao, cốt làm thế nào tự lợi lợi tha, không vì tiếng tốt xấu khen chê mà bỏ mất tự lợi lợi tha. Tâm Bồ-tát cũng như đất, không có hiềm chuyện tốt xấu, khen chê, sạch nhớp nên gọi là tâm địa.

 

Phẩm này có hai phần thượng và hạ. Phần thượng là hóa thân đức Thích-ca hỏi đức Lô-xá na, do nhân duyên gì mà Bồ-tát thành tựu được Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác Phật? Ngài Lô-xá-na vì đại chúng mà nói: Thập phát thú tâm, Thập trưởng dưỡng tâm, Thập hồi hướng tâm. Thanh văn có 4 quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Còn Bồ-tát biệt giáo thì có 52 vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giácDiệu giác.

 

1. Thập tín: Phật dạy: Thập tín chỉ mới là bước đầu, tâm cùng lý hợp, lòng tin đối với lý không có ngại. Ví dụ, đối với lý Tứ đế hay lý “hết thảy chúng sinh là Phật sẽ thành”, có những người họ không tin, nhưng đối với chúng ta nghe lý Tứ đế, Phật tính là tin. Trong Bồ-tát, cái lòng tin đó tương đương với Thập tín. Nghĩa là “tâm dữ lý hợp” (tâm của mình đối với lý Tứ đế, Phật tính nó hợp chứ không chống trái). Nói Khổ đế là mình tin, cho đến Tập, Diệt, Đạo cũng đều tin như vậy. Nói cách khác, tâm với lý khế hợp chứ không chống trái nhau. “Tâm dữ lý hợp” chứ không có nghi ngờ gì hết. Đó là bước đầu để “tùng phàm nhập thánh”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật

pháp như biển cả, do lòng tin mà được vào” (Phật pháp như đại hải, do tín năng nhập). Lòng tin đó là bước đầu tiên để đi lên bậc thánh. Đối với lý Tứ đế thì có tin mới học, mới tu. Có tin rồi mới giải, mới hành, mới chứng; nếu không tin thì tìm hiểuTứ đế làm gì; nếu không hiểu thì làm sao mà tu,. không tu thì làm sao mà chứng? Cho nên phải tin. Tin là bước đầu tiên để vào đạo.

 

2. Thập trú: Khi đã tin thì khởi tâm quyết liệt, dứt khoát để đi vào diệu đạo. Do tâm dứt khoát nên lòng tin đứng yên, bất động không xao lãng nên gọi là trú. Thập trú trong Phạm Võng có một từ khác là Thập phát thú, Thập giải; tức là mười lòng tin hướng tới đạo. 

 

3. Thập hạnh: Từ Thập trú bước lên Thập hạnh, mà Thập trụ đã là Phật tử rồi, bởi lòng tin đã đứng yên lrên lý của Phật rồi. Như vậy là đã đầy đủ phần tự lợi, nhưng còn phải hướng tới phần lợi tha nữa, nên phải từ Thập lrụ hướng đến Thập hạnh. Hạnh là hành mọi điều thiện để lợi tha. Thập hạnh cũng có một từ khác là Thập trưởng dưỡng. Trưởng dưỡng là gì? Vì lên địa vị này là cứ Tăng tấn tu các điều thiện, làm cho điều thiện Tăng mãi lên, gọi là trưởng dưỡng. Tức mười bậc trưởng dưỡng các hạnh lợi tha, để từ đây bước lên Thập hồi hướng.

 

4. Thập hồi hướng: Trong Phạm Võng cũng có một từ khác là Thập Kim cang, kiên cố bất động; cũng gọi là Thập nguyện. Ở Thập tín, Thập hạnh, tâm muốn thoát tục thì nhiều, nhưng tâm đại bi, lợi tha thì ít. Đến Thập hồi hướng là hướng tâm thoát tục trở về với tâm đại bi lợi tha để hòa quang đồng trần, cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Chữ “hồi hướng” là hồi chơn hướng tục–Khi kia tâm xuất tục là hồi tục hướng chơn, bây giờ hồi chơn hướng tục, tức là từ nơi tâm xuất tục nhiều, hướng nó về cái tâm đại bi, lợi tha nhiều hơn nữa. Hồi trí hướng bi– khi kia là nặng về trí, bây giờ hướng về bi. Trí là tự lợi, bi là lợi tha. Trí là chứng Bồ-đề, bi là lợi tha. Bây giờ hồi trí hướng bi, chơn tục viên dung, bi trí bất nhị, đầy đủ thần thông; đến địa vị này gọi là hồi hướng, tức là hồi chuyển mười thiện hạnh hướng tới ba chỗ:

a. Hướng tới chơn như thật tế (lý), tức hồi sự hướng tới diệu lý.
 

b. Hướng tới Vô thượng Bồ-đề (hướng tới trí giác), (bên kia là lý, bên này là trí, nhưng trí Vô thượng), tức hồi nhân hướng quả.

 

c. Hướng tới tất cả chúng sinh, tức hồi tự hướng tha.

 

Đó là bốn gia hạnh. Qua khỏi Thập hồi hướng là tu bốn gia hạnh: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất. Thập địa–cuối Thế đệ nhất, đoạn trừ kiến hoặc, chứng lý Nhị không, bước lên Kiến đạo sở hoan hỉ địa, tu tập thành tựu Giới Ba-la-mật. Tiếp theoLy cấu địa, từ kiến đạo vị tiến lên địa này, y theo chơn lý nhị không đã chứng được mà tu tập đoạn trừ tu hoặc, cho đến địa thứ mười là Pháp vân địa, tất cả vô minh lậu hoặc hai chướng hiện hànhchủng tử đều dứt sạch, thành tựu trọn vẹn mười Ba-la-mật, đủ vô biên công đức, như đám mây lđn, mưa pháp cam lồ tưới mát chúng sinh. (Xem rõ Mười địa trong luận Thành duy thức). Bồ-tát tâm địa giới phẩm thượng–nói

cách khác, ở Bồ-tát tâm địa giới phẩm thượng thuyết minh về hàng Bồ-tát do sức định tuệ tu chứng tam hiền, thập thánh. Còn ở Bồ-tát tâm địa giới phẩm hạ là thuyết minh thập trọng tứ thập bát khinh giới, để cho hàng Bồ-tát y theo tâm địa giới đó mà tu tập Giới, Định, Tuệ. Thành ra. thượng phẩm chỉ cho quả vị Bồ-tát tu chứng tam hiền thập thánh–còn phẩm hạ chỉ về thánh nhân, tức chỉ về giới; tức phẩm hạ nói về nhân, phẩm thượng nói về quả.

 

Kết luận: Học giới là để cho chúng ta thấy có những lời dạy của Phật rất hay để mà tu thân, khẩu, ý. Ví dụ, Phật dạy những lời “ác sự hướng tự kỉ, hảo sự dữ tha nhân”; hoặc “Không được khen mình chê người” thật đơn sơ nhưng rất cao thượng và khó thực hành. Chúng sinh thì luôn luôn vị ngã, có khi không tán thán mình một cách trực tiếp, nhưng tự tán thán mình bằng cách hủy tha, khẩu xuất đao kiếm, chê tất cả, trừ mình. Học như vậy để biết ai giữ giới ai không, ai tu ai không tu. Nếu không nhờ những lời dạy ấy, ta dễ trở nên người nhỏ mọn, hẹp hòi. Khen mình, chê người là chuyện rất dễ làm, nhưng so với đạo lý là thật còn rất xa, đó là làm theo hạnh chúng sinh chứ không phải theo Phật, Bồ-tát.

 
III. Tam tịnh giới.

 

Giới Bồ-tát gồm trong ba tụ tịnh giới là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giớiNhiêu ích hữu tình giới.

 

Một là gom tất cả gọi là “nhiếp”. Nếu có luật nghi gì thì luật này đều gom hết, gọi là Nhiếp luật nghi giới.

 

Hai là nhiếp thiện pháp giới, là có bao nhiêu điều thiện thì giới này gom hết; lục độ vạn hạnh đều nằm trong đó.

 

Ba là Nhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp luật nghi là “chư ác mạc tác”, đoạn tất cả ác. Nhiếp thiện pháp là “chúng thiện phụng hành”. Nhiêu ích hữu tìnhlợi lạc chúng sinh. Hai việc nhiếp luật nghi và nhiếp thiện pháp cũng lợi lạc chúng sinh nhưng gián tiếp, tiêu cực, còn lợi lạc hữu tình là trực tiếp, tích cực. Ví dụ, không sát sinh thì cũng lợi lạc chúng sinh, nhưng phóng sinh còn hơn thế, hợp với câu kệ “tự tịnh kỳ ý”. Không làm ác cũng là tự tịnh kỳ ý nhưng còn thấy có người có ta nên chưa rốt ráo, phải đến chỗ “tam luân không tịch”, theo tinh thần kinh Kim-cang mới là tự tịnh kỳ ý. Nếu khôngtinh thần đó thì rất dễ chán. Khi phát tâm độ chúng sinhchúng sinh bạt tai mình, làm sao chịu nỗi sự ngang ngược ấy! Cũng là bố thí nhưng với tinh thần khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Một câu kệ cũng đủ tam tụ tịnh giới, đủ theo đó để tu hạnh Bồ-tát. Hoặc như bốn hoằng thệ nguyện, thì “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” là Nhiêu ích hữu tình giới. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là đoạn nhất thiết ác, là Nhiếp luật nghi giới. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là tu nhất thiết thiện, là Nhiếp thiện pháp giới. Như vậy, bốn hoằng thệ nguyện cũng là ba tụ tịnh giới; đó là giới thể. Còn gọi là giới tướng thì phải là 10 giới trọng, 48 giới khinh như trong kinh Phạm Võng.

 
IV. Thọ giới Bồ-tát.

 

Có hai cách thọ: Một là tự thệ thọ, là đối trước Tam Bảo phát bốn tâm tịnh tín, đối với Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh bất hoại. Lòng tin thành tựu viên mãn (tứ bất hoại tín) và cầu Phật gia hộ, khi thấy tướng hảo thì đắc giới. Hai là tùng sư thọ, là do thầy truyền thọ giới Bồ-tát truyền lại.

 
V. Mất giới Bồ-tát.

 

Sau khi thọ giới, trường hợp mất giới Tỳ-kheo là do năm nhân duyên: Chết, đổi hình (nam thành nữ hay ngược lại), không tin nhân quả (đoạn thiện căn), tác pháp (nói ra lời “tôi không tu, không làm Tỳ-kheo nữa” với bất cứ người nào nghe, hiểu được và phạm trọng). Bồ-tát giới thì chỉ có hai trường hợp mất giới là phạm trọng do thượng phẩm phiền não trói buộc (ví dụ, cố ý sát nhân mà tâm niệm hành động sát nhân hiện hành liên tục không biết tàm quý, đó là thượng phẩm phiền não). Còn có trường hợp gọi là “ô trọng giới”, như ngộ sát, thì không đến nỗi mất giới. Trường hợp hai là xả Bồ-đề tâm, ví dụ nói: “Tôi không tin việc làm Phật, không phát tâm Bồ-đề nữa”.

 

Bồ-tát mệnh chung không mất giới, vì phát nguyện thọ từ kim thân cho đến Phật thân, trừ có hai duyên cớ mất giới như đã nói trên.

(Chú thích: Khai đạo giới tử thọ Cụ túc giới năm 1970)


BỒ-TÁT DANH VÀ THIỆT

 
Thiện Sanh thưa: “Bạch đức Thế Tôn, Phật dạy có hai hạng Bồ-tát: một là giả danh Bồ-tát, hai là thiệt nghĩa Bồ-tát”.

 

1. Thế nào là giả danh Bồ tát?

 

Thiện nam tử, nếu chúng sinh đã phát Bồ-đề tâm rồi, lại còn ưa lãnh thọ, đọc tụng, ngợi khen, nhớ nghĩ các kinh điển, pháp thuật của ngoại đạo, và lấy pháp ấy mà giáo hóa chúng sinh; hoặc chỉ vì thân mạng mình, vui trong đường sinh tử mà không sát hại sinh mạng kẻ khác, tạo các ác nghiệp thì không tránh khỏi quả khổ tương lai; không ưa tu từ bi, đối với Tam Bảo lòng sinh nghi ngờ, không chánh tín, quý mến tự thân, không biết nhẫn nhục, ăn nói sổ sàng, hối hận, buông lung không thể chứng đặng Bồ-đề, e sợ phiền não mà không cố gắng siêng năng tu tập các phiền não phá hoại kiết sử; tâm hay tham lam, ganh tị, giận hờn, gần gũi bạn ác, đắm chìm trong vô minh, không tin lục độ, không ưa tu phước, không quánlỗi lầm của sinh tử và ưa thọ trì những lời hung dữ của Bồ-tát. Như thế gọi là giả danh Bồ-tát.

 

Và những chúng sinh đã phát tâm Bồ-đề, mong đặng Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, nhưng khi phải khổ hạnh tu hành trải qua vô lượng kiếp rồi mới đắc đạo, thì sinh lòng thối chí, tuy có hành đạotâm không chơn thật, không tàm quý, không thương xót, hay theo ngoại đạo hại sinh mạng để tế trời, dẫu có chút lòng tin nhưng không vững chắc, đắm say ngũ dục, gây nhiều điều ác, ỷ sắc lực, tài của, lòng kiêu mạn làm việc điên đảo, không biết lợi ích cho người; vì cái vui trong sinh tửbố thí; vì cái vui trong cõi trờithọ trì cấm giới; và vì thọ mạng lâu dàitu thiền định. Như thế gọi là giả danh Bồ-tát.

 

2. Thế nào là thật nghĩa Bồ-tát?

 

Trái lại, thật nghĩa Bồ-tát là biết gần gũi cúng dường sư trưởng, cha mẹ, thiện hữu, thọ trì đọc tụng mười bộ kinh của Như lai; vì Phật pháp mà không tiếc thân mạng, tài sản; không tự khinh rẻ mình, dang tay làm việc bố thí không tiếc thân mạng; thường dồi mài trí tuệ; tuy học ngoại điển nhưng cốt để phá các tà kiến và thắng các tà kiến; khéo biết phương tiện để điều phục chúng sinh; siêng tu tinh tấn, khi rẻ phiền não, làm cho chúng không được tự do, về cõi Niết-bàn; giữ gìn tinh tấn, cứu hết thảy khổ não; quán rõ hết thảy tội lỗi sinh tử, tín tâm bền chắc, tu lập từ bi mà không trông cầu quả báo; từ bi đối với ke oán người thân, tâm vẫn không hai; khi bố thí vẫn bình đẳng, khi xả thân cũng bình đẳng; biết tướng vô thường không tiếc thân mạng, biết rõ thế đế nên tùy thuận chúng sinh; khi ít của cải thì cấp cho người nghèo cùng trước, rồi sau mới cho người phước điền; trước vì người nghèo khổ, sau mới vì người giàu có; thường khen việc lành của người và khai thị cho họ vào Niết-bàn; có kỹ nghệ gì đều muốn cho họ học, và thấy học hơn mình thì sinh lòng vui mừng, chẳng hề vì mình; thường vì người khác. Như thế là thiệt nghĩa Bồ-tát.

(Lược dịch trong kinh Bồ-tát U-bà-tắc-giới 1950)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15781)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11084)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53672)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13003)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16534)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15412)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19174)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19949)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15565)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15363)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15155)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20358)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23974)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15502)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13054)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20162)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13296)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29032)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11720)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18313)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16653)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13256)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12816)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13263)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13003)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13025)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13560)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11726)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14255)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17754)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22622)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13460)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105801)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14616)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19806)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38446)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15544)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16069)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11367)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15678)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13724)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19393)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27043)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13156)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13490)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21625)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17993)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21927)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14220)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16086)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16160)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19135)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24797)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant