Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Xuất gia hoằng Phật đạo

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7556)
7. Xuất gia hoằng Phật đạo

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

XUẤT GIA HOẰNG PHẬT ĐẠO

Các giới tử,
 
Các vị có biết hiện tại chúng ta đang ở đâu không? Các vị có nghĩ rằng chúng ta sắp làm gì không? Đây không phải là một đại trai đàn làm chay, cũng không phải là nơi hội họp thường lệ, mà đây là đại trai đàn Thiện Hòa và các vị đến đây để lãnh thọ Giới pháp của Phật. Đó là một điều hết sức quan trọng đối với đời xuất gia của các vị, mà cũng hết sức quan trọng đối với Phật pháp
 
Là một người xuất gia, không phải ra khỏi nhà thế gian đến ở chùa là đủ. Nếu ra khỏi nhà thế gian đến ở chùa, thì chỉ mới xuất được thế tục gia, nhưng còn hai điều quan trọng khác là xuất phiền não gia và xuất tam giới gia chưa thành tựu được. Khi chưa thành tựu hai điều sau này thì điều xuất gia trước không có công đứcgiá trị bao nhiêu! Bởi vì, có nhiều người dầu “đầu tròn, áo vuông”, nhưng họ là những người đến ở chùa làm công quả, và nếu căn cứ theo hình thức thì những vị đó cũng có thể gọi là xuất gia được, nhưng đó chỉ là xuất thế tục gia mà thôi. Cho nên, muốn xuất phiền não gia, xuất tam giới gia thì phải thọ trì giới pháp của Phật.
 
Phật tử, dù lại gia hay xuất gia, có hai điều cơ bản này mới thành một người Phật tử, đó là chánh kiếntịnh giới. Người tại gia thọ trì Tam quy–tin Phật, tin Pháp, tin Tăng một cách đúng đắn, sâu sắc, bền vững, kiên cố thì họ thành tựu được chánh kiến. Một người tại gia khi đã quy y Tam Bảothọ trì ngũ giới, giữ gìn năm điều luật giới tại gia của Phật chế là thành tựu được tịnh giới. Người tại gia thành tựu được chánh kiếntịnh giới thì mới gọi là đệ tử của Phật, còn nếu không thành tựu, thì dầu xưng là Phật tử cũng chưa phải là Phật tử đúng nghĩa.
 
Tại gia đã vậy thì xuất gia cũng vậy, cũng phải có haì điều kiện cơ bản đó, là chánh kiếntịnh giới. Thành tựu chánh kiến thì người xuất gia, người tại gia đều y như nhau, đều lấy Tam Bảo làm thầy; tôn thờ Phật, tôn thờ Pháp, tôn thờ Tăng làm lý tưởng cao cả của cuộc đời mình; nhằm vào đó, hướng vào đó làm mục đích để bước tới. Đó là thành tựu chánh kiến. Khi đã thành tựu chánh kiến, họ phải thành tựu tịnh giới. Nếu không thành tựu tịnh giới thì người xuất gia không thành người xuất gia. Giới tại gia có 5 giới; giới xuất gia Sa-di có 10 giới, Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới. Đó là những pháp do Phật qui định cho người đệ tử của Phật. Khi muốn làm đệ tử Phật trong hàng xuất gia, phải thành tựu giới pháp tịnh giới thì mới trở thành được một người xuất gia đúng nghĩa.
 
Các vị hôm nay đã ở chùa nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, tức đã thành tựu được xuất thế tục gia. Và ngày mai các vị bước lên giới đàn để thọ trì giới pháp của Phật, để mong thành tựu được xuất phiền não gia, xuất tam giới gia, bấy giờ mới trọn vẹn chí nguyện xuất gia của mình. Cho nên từ giờ phút này, giờ phút sắp đến đâỳ là giờ phút hết sức quan trọng đối với đời xuất gia của các vị, mà cũng hết sức quan trọng đối với Phât pháp. Nếu các vị không thọ giới pháp, tức là các vị không hoàn thành được người xuất gia đệ tử Phật, không hoàn thành được một vị Sa-di, không hoàn thành được một vị Tỳ-kheo. Tự mình không hoàn thành Sa-di, Tỳ-kheo thì không thể gọi là xuất gia. Khi đã không trở thành người xuất gia thì không thể đảm đương Phật pháp, hoằng dương Phật pháp, bấy giờ Phật pháp cũng không hoàn thành được. Cho nên sự thọ giới này chẳng những quan trọng đối với đời sống cá nhân của các vị, mà cũng là quan trọng đối với Phật pháp. Như trong Luật, đức Phật đã dạy: “Khi nào, ở đâu mà còn có 10 thầy Tỳ-kheo truyền thọ giới, hoặc có 5 thầy cùng nhau truyền thọ giới pháp, thì bấy giờ Phật pháp tồn tại. Tỳ-ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ”. Hễ Tỳ-ni tạng còn đương trụ, nghĩa là còn có người truyền giới và còn có người giữ giới, thì tức nhiên giới luật còn; giới luật còn tức nhiên Phật pháp còn. Cho nên, việc thọ giới là một việc hết sức quan trọng. Vì vậy, trong giờ phút này, các vị nên xét lại tâm nguyện của mình, hãy phát một lòng hết sức chí thành chí kính, xả bỏ tất cả, quên hết tất cả những gì làm chướng ngại việc thọ giới, để hướng vào việc thọ giới
 
Tâm của các vị được như vậy thì giới pháp, giới thể mới thành tựu trọn vẹn, viên mãn ở nơi các vị. Nếu tâm các vị không được như thế, không chí thành chí kính, không thấy đây là một điều quan trọng cho cá nhân xuất gia của mình và cho Phật pháp, thì dầu các vị có ở trước Thập sư, có dạ, có thưa thì không thể làm sao tròn được giới thể ở nơi các vị. Cho nên, trước khi các vị đăng đàn lãnh thọ giới pháp, các vị hãy gạn lọc tâm tư, xét lại lòng mình, phát một lòng tin hết sức dõng mãnh, tinh tấn đối với giới pháp, các vị mới lãnh thọ viên mãn được.
 
Nhưng vì sao các vị phải lãnh thọ giới pháp? Đức Phật dạy: “Giới luật của Phật có những công đức hết sức lớn lao”. Trong Luật đức Phật đã nêu lên 10 điều ích lợi để cho các đệ tử thấy rằng; các điều luật Phật chế không phải là chế suông, không có ý nghĩa; mà trái lại nó rất có ý nghĩa, rất có lợi ích cho những ai phát tâm muốn thọ trì. Mười điều đó là gì? Theo Luật gọi là 10 cú nghĩa. Nghĩa là 10 điều ích lợi.
 
Điều ích lợi thứ nhất: Nhiếp thủ ư Tăng. Có thọ trì giới luật mới được nhiếp thủ vào nơi Tăng đoàn. Có thọ trì giới luật mới được Tăng đoàn của Phật nhiếp trì cho. Nếu một người ở chùa chục năm, hai chục năm... mà không thọ giới thì vẫn là người cư sĩ, hoặc thọ giới Sa-di vẫn là Sa-di, chứ không thể gọi là Tỳ-kheo được Khi có thọ giới Tỳ-kheo mới nhiếp thủ vào Tăng đoàn, mới nhập vào Tăng số để trở thành một trong ba ngôi Tam Bảo, trở thành một vị chúng trung tôn. Cho nên giới pháp chính là cái để dắt dẫn chúng ta đi vào với Tăng đoàn, đi vào với ngôi vị chúng trung tôn. Thế nên, điều ích lợi của giới pháp là làm cho người xuất gia thọ giới được nhiếp thủ ư Tăng.
 
Điều ích lợi thứ hai: Linh Tăng hoan hỉ (Khiến Tăng hoan hỉ). Các điều giới của đức Phật chế ra làm cho người thọ trì được hoan hỉ. Một người thọ giới, người khác thọ giới, khi đã thọ giới Tỳ-kheo của Phật rồi, dầu người thọ giới mới một năm, hai năm, ba năm, cho đến người thọ giới 80 năm đi nữa, thì cũng đều có một Tăng thể giống như nhau. Cho nên mỗi lần Bố-tát, ở giữa chúng Tăng gọi là Đại đức Tăng. Đại đức Tăng là tiếng gọi toàn thể chung, chứ không phân biệt ông Tăng 70 hạ, 50 hạ, 40 hạ hay ông Tăng mới thọ giới. Dù người mới thọ giới cũng đều nằm trong Đại đức Tăng, không phân biệt gì hết, bởi vì giới thể là một–250 giới là một đối với Tăng, 348 giới là một đối với Ni. Khi một người đã thọ giớigiữ giới như vậy, tất nhiên ai thấy cũng vui mừng, hoan hỉ. Như một người đi tu mà thấy người khác đi tu như mình thì lấy làm hoan hỉ. Khi thọ giới rồi, cố gắng giữ giới, người này thấy người kia giữ giới thanh tịnh, hoan hỉ, người kia thấy người này giữ giới được thanh tịnh thì cũng hoan hỉ. Đó là một sự hoan hỉ trong giới luật, thấy được sự tiến bộ trong vấn đề tu trì của nhau, chứ không phải là một sự hoan hỉ vì thấy nhau làm những điều sai trái. Cho nên khi thọ giới rồi phải cố gắng tôn trọng giới, quý trọng giới, ai giữ được chừng nào thì công đức lớn lao chừng đó; nếu ai vì nghiệp duyên không giữ được nhiều thì người đó đã phạm cái giới của họ. Mặc dầu họ phạm giới, ta không thể khinh họ nhưng cũng không thể hoan hỉ với họ được. Nếu khi thấy một người phạm giới mà mình hoan hỉ theo, tức có nghĩa mình đã phụ họa theo sự phạm giới đó. Đó là sự hoan hỉ của Tăng, đúng nghĩa là một vị Tăng hoan hỉ trước sự thọ trì giới luật thanh tịnh.
 
Điều lợi ích thứ ba: Linh Tăng an ổn (Khiến Tăng an ổn). Giới pháp khiến cho Tăng đuợc an ổn. Tăng nhờ đâu mà an ổn? Khi thấy một người không thọ trì giới thì chính người đó đã có tội lỗi, khi thân, khẩu, ý đã có tội lỗi thì không những không thể an ổn cho chính người đó mà còn làm cho người khác phải khổ lây. Khi trong chúng Tăng, người này giữ giới thân, khẩu, ý được thanh tịnh, an ổn, người kia giữ giới thân, khẩu, ý được thanh tịnh, an ổn, thì sẽ có một chúng hội, một Tăng đoànai nấy đều sống trong giới pháp thanh tịnh, đều được an ổn như nhau, lấy sự trì giới thanh tịnhan ổn, chứ không phải lấy điều hơn thua, điều vật chất, địa vịan ổn. Thử hỏi, trong một đám đông từ hai người trở lên, hàng trăm hàng ngàn người mà nếu khônggiới luật thì chúng Tăng đó có thể nào an ổn không? Không, chúng Tăng đó sẽ vô kỷ luật, sẽ vô hạnh. Khi chúng Tăng vô kỷ luật, vô hạnh thì chúng Tăng đó sẽ không an ổn; không an ổn cho từng cá nhân cũng như không an ổn cho cả đoàn thể. Cho nên giới của Phật có sự lợi ích thiết thực vô cùng là làm cho chúng Tăng an ổn, an lạc.
 
Điều ích lợi thứ tư: Linh vị tín giả tín (Khiên người chưa tin thì họ phát khởi lòng tin). Chúng ta biết rằng, Tăng là một trong ba ngôi Tam Bảo. Tăng là hình dáng, hình ảnh của Phật ở tại thế gìan. Tăng có trang nghiêm, có thanh tịnh thì bấy giờ Tăng mới thành là một Tăng Bảo; thành Tăng Bảo thì mới là chỗ quy ngưỡng và phát lòng tin cho tín đồ. Nhờ giới pháp mà một vị Tăng được thanh tịnh trang nghiêm, như hình ảnh của đức Phật hiện ra ở giữa thế gian.
 
Đức Phật đã diệt độ rồi, xa quá! Cần phảihình ảnh của đức Phật sống động ở trong một vị Tăng có giới, có tuệ để làm nơi phát lòng tin Tam Bảo cho những người chưa tin. Khi một vị Tăng thanh tịnh hướng dẫn cho những người chưa tin, phát khởi lòng tin thì vị Tăng đó được chúng Tăng quý trọngtín đồ hân hoan. Trái lại, khi có một vị Tăng không tu hành trang nghiêm, không thanh tịnh, không đứng đắn, thiếu kiến thức, không có lòng chánh tín Tam Bảo, chắc chắn vị Tăng đó sẽ phá hoại lòng tin của kẻ khác. Đối trước một vị Tặng không nghiêm túc, không thanh tịnh thì chẳng những người chưa tin đã không tin, mà người có tin rồi cũng sẽ thối thất. 
 
Điều ích lợi thứ năm: Dĩ tín giả linh Tăng trưởng (Những người nào đã tin khiến cho họ được Tăng trưởng). Khi một vị Tăng giữ giới hạnh nghiêm túc, oai nghi đĩnh đạc, ngôn ngữ đàng hoàng, tâm tư rộng rãi, hiểu biết đúng đắn, vị Tăng đó chầc chắn khi người khác nhìn vào phải phát khởi lòng tin, và ai đã tin rồi thì chắc chắn sẽ Tăng trưởng thêm, kiên cố thêm chứ không bị thối thất. Sở dĩ có những tín đồ lúc đầu đến chùa hăng hái tin tường, nhưng thời gian sau bị thối thất, vì lẽ họ gặp chuyện nọ chuyện kia của riêng họ một phần, mà cũng có một phần đáng buồn là họ gặp những vị Tăng không đĩnh đạc, không đàng hoàng; vị Tăng đó chẳng những đã không lợi cho mình mà cũng không có lợi cho tín đồ, có nghĩa là không có lợi ích gì cho Phật pháp. Vậy biết rằng, một vị Tăng giữ giới luật nghiêm trang, thanh tịnh, thì đó là một hình ảnh sống động của đức Phật dẫu không toàn diện nơi thế gian, nhưng cũng đủ là nơi nương tựa cho Phật tử, họ đã tin rồi càng tin thêm, kiên cố vững chắc. Khi tín đồ càng tin Tam Bảo kiên cố vững chắc, thì đó là điều tốt lành để cho Phật pháp được phát huy, tồn tại.
 
Điều lợi ích thứ sáu: Nan điều giả linh điều (Đối với người ương ngạnh, khó điều phục khiến được điều phục). Nếu không có giới thì không biết căn cứ vào đâu mà nói người này có lỗi, người kia không có lỗi, người nọ thanh tịnh, người kia không thanh tịnh...
 
Giới luật là chuẩn mực, là thước đo để đo hành vi, ngôn ngữ, phạm hạnh của mỗi người. Khi đã có giới luật, thì người nào phạm tới đâu xử trị tới đó; lấy giới luậtxử trị phân minh, rõ ràng. Khi đó dù có ngoan cố, ương ngạnh đến đâu cũng phải bị điều phục. Nếu không điều phục được, thì theo Luật, chúng Tăng sẽ cử tội “mặc tẩn”, không cho nhập vào Tăng đoàn nữa. Như vậy, Tăng đoàn sẽ có người nhu thuận, chứ không còn có người ngoan cố, khó điều phục.
 
Điều lợi ích thứ bảy: Linh tàm quý giả đắc an lạc (Khiến người biết tàm quý được an lạc). Ngược với người khó điều phục bị điều phục bằng giới luật, thì người biết tàm quý, giữ gìn từng li từng tí để cho giới luật được trang nghiêm thanh tịnh, khi thấy một lỗi nhỏ cũng hết sức sợ hãi, thì người đó là người biết tàm biết quý. Người biết tàm quýgiữ giới thì chính họ được thanh tịnh an lạc, cũng là niềm an lạc cho cả chúng. Cho nên, người biết tàm quý mới biết tránh tội lỗi, như trong Luận đã nói: “Có năm thứ thuộc tự tánh ác, đó là tham, sân, si, vô tàm và vô quý”. Là năm cái ác tự trong bản tính, năm cái ác gốc gây ra năm cái ác khác làm tai hại cho chúng, cho cá nhân, cho đến gia đình, xã hội. Trong đó vô tàm, vô quý–nghĩa là không biết hỗ và không biết thẹn, thì chính nó cũng là ác, nằm ngay trong bản thân, đó là cái ác gốc chứ không phải cái ác ngọn. Một người đã không có tâm tàm quý thì người đó phạm cũng không biết phạm; hoặc có biết phạm cũng không lấy làm hỗ thẹn; mà người đã không biếl hỗ thẹn thì không thể làm sao giữ gìn giới luật cho thanh tịnh được. Cho nên, người có tàm quý thì dù thấy mỗi một giới nào dẫu nhỏ nhặt tới đâu cũng trang nghiêm giữ gìn không dám phạm, bởi vì phạm thì thấy rất hỗ, rất thẹn. Và như vậy, không phạm thì tất nhiên là tâm được an lạc; an lạc cho mình và an lạc cho chúng. Ngược lại, một người không biết hỗ, không biết thẹn,cứ liều phạm giới, phá giới, chắc chắn người đó không tạo nên an lạc cho mình, cũng không tạo nên an lạc cho chúng. 
 
Điều lợi ích thứ tám: Đoạn lậu hoặc hiện tại (Nhờ giới luật mà dứt trừ lậu hoặc trong hiện tại). Hữu lậu là gì? Cái gì gọi là hữu lậu? “Lậu” là một tên riêng của chữ “phiền não”. Phiền não như tham, sân, si có tính cách rỉ chảy, tươm rỉ ở nơi sáu căn của chúng sinh, làm cho sáu căn của chúng sinh bị ô nhiễm. Nếu khi mắt nhìn là mắt nhìn, thì sự nhìn đó trong sạch; nhưng nếu mắt nhìn mà có lòng tham lam, say đắm trong đó, thì cái nhìn đó trở nên ô nhiễm, trở nên xấu. Tai nghe là tai nghe, nhưng nếu nơi cái nghe đó mà có lòng tham chen vào, thì cái nghe đó trở thành ô nhiễm, trở nên xấu. Miệng nói là miệng nói, lưỡi nếm là lưỡi nếm, thân cảm xúc là thân cảm xúc, nhưng nếu có lòng tham phát sinh nơi cảm xúc đó thì sự cảm xúc đó trở thành nhớp nhúa, ô nhiễm; giống như mụt ghẻ tươm nước ra, phiền não tươm ra nơi sáu căn: thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, ý nghĩ cũng như vậy, cho nên gọi là lậu. Và những thứ đó nó làm cho chúng sinh bị lọt mãi vào trong tam giới không thoát ra được, cũng như nước trong bình lủng giọt xuống, cho nên gọi là lậu. Nói tóm lại, chữ “lậu” là một danh từ khác để chỉ cho phiền não hay chữ “lậu hoặc”. Thường thường ở trong kinh Nikàya (kinh tạng Pàli) thì gọi chung là lậu hoặc. Hoặc là sự mê lầm. Sự mê lầm đây là chỉ cho tham, sân, si, cho nên gọi chung là lậu hoặc. Còn chữ “hữu lậu” nghĩa là sao? Hữu lậu tức là có sự lậu hoặc. Như câu “tích thành hữu lậu chi nhân”, nghĩa là chứa thành cái nhân hữu lậu, là cái nhân có phiền não, để phải chịu quả báo trong ba cõi. Chúng tacon người hữu lậu, bởi vì còn các phiền não. Cái sắc gì mà ta nhìn thấy, cái tiếng gì mà ta nghe thấy, nếu nó gợi lên, làm cho ta Tăng trưởng phiền não, thì pháp đó gọi là pháp hữu lậu. Tâm ta là tâm hữu lậu; các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc là pháp hữu lậu. Vậy cái hữu lậu đó làm sao mà trừ? Lấy chi mà trừ? Không thể lấy tiền, lấy vàng, lấy danh vọng, lấy địa vị quyền thế mà trừ được. Bằng giới pháp của Phật mà trừ được các lậu hoặc trong hiện tại, đó gọi là đoạn hữu lậu hiện tại
 
Điều lợi ích thứ chín: Đoạn vị lai hữu lậu. Người giữ giới hôm nay không phải chỉ trừ phiền não hôm nay, mà đồng thời trừ được phiền não trong tương lai. Bởi vì phiền não tương lai chính là trừ phiền não ngày hôm nay làm mầm mống. Khi đã trừ được mầm mống của phiền não trong hôm nay thì đồng thời cũng trừ được phiền não trong ngày sau. Nghiệp cũ bị dứt đi, nghiệp mới không tạo nữa, đó là đích của người tu hành, mà cũng là đích của người thọ giới pháp. Đó là điều lợi ích thứ chín của giới luật.
 
Điều lợi ích thứ mười: Linh chánh pháp cửu trú (Khiến chánh pháp tồn tại mãi). Chánh pháp cửu trú, đây là điều lợi ích tổng quát Linh chánh pháp cửu trú là khiến cho chánh pháp của Phật được tồn tại lâu bền giữa thế gian. Nếu khônggiới luật thì Phật pháp không thể tồn tại lâu dài giữa thế gian được. Nếu khônggiới luật, thì Tăng không thành Tăng, cư sĩ không thành cư sĩ, tức không có người tu hành truyền bá thì Phật pháp không sao mà tồn tại giữa thế gian được. Cho nên, cái lợi ích cuối cùng của giới pháp là khiến cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
 
Như các vị đã biết, giới luậtthọ mạng của Phật pháp. Khi nào giới luật còn là Phật pháp còn, khi nào giới luật không còn thì Phật pháp không còn. Cho nên mỗi lần Phật chế một giới nào Ngài cũng đều nêu ra mười điều
lợi ích đó để chỉ rõ cho người thọ giới thấy, biết, kính trọng, quý báu để lãnh thọhành trì Vậy chuyện thọ giới là một bước quan trọng vững chắc trên con đường giải thoát. Bao nhiêu pháp môn của Phật dạy tóm lại không ngoài ba thứ Giới-Định-Tuệ mà Giới là bước thứ nhất, bước cơ bản. Có giới mới có định, có định mới có tuệ. Khi Giới-Định-Tuệ đã thành tựu rồi thì biết rằng trong giới có định, trong định có tuệ, trong tuệ có giới; ba thể là một. Một người có đủ cả giới, định, tuệ là một người viên mãn, một người có thể đoạn trừ lậu hoặc trong hiện tại và tương lai, có thể làm cho chánh pháp của đức Phật thường trụthế gian. Đức Phật thường dạy rằng: “Các ngươi hãy cố gắng tu hành, đừng làm kẻ tối hậu trong giáo pháp Ta”. “Đừng làm kẻ tối hậu trong giáo pháp Ta”, nghĩa là sao? Nghĩa là đừng cho giáo pháp của đức Phật chấm dứt ngay nơi đời mình, mà phải truyền bátruyền bá bằng cách gìn giữ giới luật nghiêm trang, tạo thành một hình ảnh đức Phật ở giữa thế gian. Giữ gìn tâm niệm thanh tịnh, sáng suốt, đem chánh pháp của đức Phật truyền bá giữa thế gian, được như vậy thì Phật pháp sẽ không chấm dứt ngay nơi ta và ta không là kẻ tối hậu của Phật pháp.
 
Lần căn dặn đó của đức Phật thắm thiết lắm. Nếu ai có chí nguyện lớn lao muốn làm đệ tử Phật, thì đối với lời dạy đó thấy rất thiết tha. Vì sao Phật lại căn dặn như vậy? Bởi vì Phật thấy rằng, chính giáo pháp của đức Phật mới đem lại an lạc chơn thật cho chúng sinh, vì chính giáo pháp của đức Phật đã do bao công lao, nhiều đời nhiều kiếp tu hành mới phát minh được, mới giác ngộ được và dạy bảo lại. Với một giáo pháp quý báu như vậy mà một người đệ tử của Phật không biết tôn trọng giữ gìn, để cho mất đi, thì đó là một điều hết sức đáng tiếc! Cho nên Ngài phải căn dặn. Có thấy rõ giới như vậy thì người muốn thọ giới Phật không phải đem cái tâm niệm tầm thường hời hợt mà thọ trì, mà phải có chí tiết trượng phu mới có thể thọ được. 
 
Như quý vị còn nhớ, khi thọ Sa-di, vị Bổn sư cầm dao cạo bỏ tóc trên đầu đệ tử vừa đọc:

Thiện tai đại trượng phu,
Năng liễu thế vô thường,
Khi tục thủ Nê-hoàn,
Công đức nan tư nghị.
Hủy hình thủ khí tiết,
Cát ái từ sở thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thệ độ nhất thiết nhân....

Tạm dịch:

Lành thay bậc trượng phu,
Hiểu được đời vô thường,
Bỏ tục hướng Niết-bàn,
Công đức khó bàn nghĩ.
Hủy hình giữ khí tiết.
Cát ái từ người thân,
Xuất gia hoằng Phật đạo,
Thề độ hết chúng sinh...
 
Đó là đọc lời tán thán người xuất gia. Là một người có chí tiết trượng phu, nhận rõ được đời vô thường nhưng không sống với đời vô thường, mà lại biết tìm con đường giải thoát khỏi sự đau khổ của đời vô thường.
 
Vì vậy, trong Luật còn gọi người xuất gia, người tu sĩ là chiến sĩ. Chiến sĩ, tu sĩ này đánh với ai? Chiến sĩ đặc biệt này đang đánh với bốn thứ giặc: thiên ma (ma ba tuần), phiền não ma, ngũ ấm matử ma (ma chết). Người xuất gia đánh bốn thứ giặc ấy bằng sự gìn giữ giới luật; nếu phạm giới là thua, là chiến sĩ bại trận. Vì vậy bốn Ba-la-di giới có khi gọi là tứ khí, vì phạm vào thì coi như cây Sa-la, cây dừa, cây cau bị chặt ngang rồi thì không sống được nữa; có khi gọi là tha thắng, vì phạm vào là bị thua và ma kia thắng.
 
Một chiến sĩ tu sĩ như vậy chẳng phải là một trượng phu sao? Không có chí tiết đại trượng phu thì không đánh nổi bốn thứ đó. Nhưng có được chí tiết đại trượng phu là khi nhận rõ được cuộc đời vô thường, chỉ trong nháy mắt với một tinh thần giác ngộ rõ ràng, người đó sẽ tìm cách để giải thoát sự vô thường đó. Đức Phật đã dạy rằng, có những người khác cũng biết rằng sinh, già, đau, chết nhưng họ không tìm đường để giải thoát khỏi chúng, còn Ta biết sinh, già, đau, chết nhưng Ta muốn tránh sự sinh, già, đau, chết đó, nên Ta xuất gia tìm đạo và được giác ngộ. Nếu tất cả người xuất gia tìm đạo không có chút nào nhận thức được lẽ vô thường đó, trái lại thứ chi cũng cố chấp, thứ chi cũng bám chặt, thứ chi cũng ham muốn, thì chắc chắn không thể nào kéo dài đời sống xuất gia, nghiêm trì giới luật và đánh hơn các thứ ma để tiến trên con đường giải thoát Niết-bàn công đức khó nghĩ nghì được. Hủy hình giữ chí tiết: cạo bỏ râu tóc, ăn mặc đạm bạc, ngủ đơn sơ, không trang sức như thế gian. Hủy hình để giữ chí tiết, xuất gia hoằng Phật đạo, thề độ tất cả mọi người. Đó là lời tán thán cái chí trượng phu của người xuất gia. Vậy chúng ta cũng tự hỏi lại chúng ta, có được là trượng phu chí tiết như thế không?
 
Đối với việc xuất gia, chư Tổ đã nhắc đi nhắc lại nhiều cách để ca ngợi, khuyến khích, nâng đỡ, chỉ rõ cho người xuất gia phải sống và làm như thế nào. Các vị học văn Cảnh sách rồi, chắc cũng nhớ khi nói về xuất gia, có câu: “Phù xuất gia giả, phát lúc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu, nhược bất như thử, lạm xí Tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di hoảng hốt nhất sinh, tương hà bằng thị...”.
 
Phàm là người xuất gia, tức là phát tâm cất bước đi đến phương trời cao rộng (phát túc siêu phương). Tức là xuất gia tu hành để cầu giải thoát tự lợi và để truyền bá Chánh pháp, làm cho giống Phật được tồn tại, phát huy. Làm chấn động và nhiếp phục ma quânphiền não ma, tử ma, ngũ ấm mathiên ma, để vượt lên trên chúng; làm một người giải thoát, một người chiến thắng, đại biểu cho Phật, hoằng dương Chánh pháp. Như vậy mới là báo được bốn ân: ân cha mẹ, ân quốc gia, ân Tam bảo, ân sư trưởng, ân chúng sinh và bạt tế tam hữucứu độ ba cõi. Nếu không được như vậy là tạm xen vào trong hàng ngũ chúng Tăng, mang hình thức xuất giatâm niệm đầy tục lụy, ngôn ngữ hành vi chỉ sơ sài bết bát, không thành tựu được điều gì có ích, chỉ muốn tiêu dùng của tín thí. Chỗ hành động, nói năng, tâm tư, suy nghĩ và những tư tưởng của ngày xưa, khi chưa xuất gia, chưa tu tập như thế nào thì bây giờ cũng y nguyên như thế đó không hề thay đổi chút nào. Chỉ sống một cuộc đời hoảng hốt, bập bồng, như vậy không có gì nắm chắc trong tay thì biết lấy chi để nương nhờ trong khi sống và trong khi nhắm mắt? Mình đã không biết lấy chi nương nhờ rồi, thì Phật pháp còn dựa vào đâu để mà tồn tại giữa thế gian cho lâu dài được! Cho nên, nói tới chí tiết xuất gia, nó lớn lao rộng rãi lắm và cao thượng lắm. Nếu như mỗi một người trong hàng Phật tử, trong hàng Tăng Nitâm tâm niệm niệm, mỗi người đều có một tâm niệm, phát nguyện mà tự vấn, mà cảnh tỉnh với lòng mình để có một chí hướng như vậy, thì tất nhiên không hỗ thẹn là một người
đệ tử xuất gia của đức Phật khi đã thọ trì giới pháp.
 
Cho nên tôi mong các vị nên coi cái dịp thọ giới hôm nay là một điều quan trọng, là một dịp may quý báu cho mình phụng sự Tam Bảo, cho mình báo ơn sư trưởng, báo ơn cha mẹ, báo ơn tứ ân để bạt tế tam hữu.
 
Chính giờ phút này là giờ phút quyết định, quyết định cho đời mình hôm nay và ngày mai để trở thành một vị Tăng, đứng trong hàng ngũ Tăng Bảo, góp một phần vào việc hoằng dương chánh pháp, duy trì chánh pháp để cửu trụ thế gian, mà nếu không thì ngược lại đã không lợi ích cho mình mà còn góp phần vào việc làm cho Phật pháp chóng suy vong.
 
Nhiều lúc chúng ta băn khoăn tự hỏi: không biết Phật pháp tương lai thế nào? Giả như câu hỏi đó đem hỏi lại nơi chính mỗi một người trong chúng ta, thì sẽ thấy câu trả lời rất thiết thực, thâm thúy. Muốn biết tương lai Phật pháp như thế nào thì ta phải nhìn lại ta là một vị Tăng sống như thế nào! Nếu một vị Tăng thấy được mình sống như thế nào, một vị Ni thấy được mình sống như thế nào thì biết Phật pháp tương lai cũng như thế đó. Nếu một vị Tăng, vị Ni, vị cư sĩ hư hỏng thì Phật pháp sẽ hư hỏng. Nếu một vị Tăng, một vị Ni, một vị Phật tử sống chính đáng, trong sáng như Phật pháp thì tương lai Phật pháp sẽ đàng hoàng, rực rỡ chính đáng. Đó là điều thiết thực khi ta băn khoăn với một ưu tư hết sức quý báu. Vẫn biết mọi thành tựu nhờ nhiều duyên mà thành tựu, song trong đó cái duyên chính yếu nhất là từ nơi Tăng, Ni và từ nơi cư sĩ.
 
Tôi cầu mong giới đàn quý báu như thế này lập nơi một cơ sở của Cố Đại lão Hòa thượng Thiện Hòa, một vị Đại Hòa thượng đáng kính mà các vị đã có duyên hội ngộ đến đây, trước thập sư để thọ giới pháp. Các vị nên phát tâm hết sức dõng mãnh, đại trượng phu; hết sức chí tiết để xuất gia hoằng Phật đạo, thệ độ nhất thiết nhân, để báo đáp công ơn Tam Bảo và khỏi phụ chí hướng xuất gia của mình khi đã có duyên lành đến chùa học Phật.
 
Bấy nhiêu lời mong các vị chuẩn bị tâm tư thu dọn tâm tư cho được thanh tịnh trang nghiêm, kiên cố để ngày mai trước thập sư, các vị lãnh thọ giới pháp cao cả của đức Phật, làm tròn một vị Tăng, một vị Ni, một vị cư sĩ xứng đáng là một người đệ tử con Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34447)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10341)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant