Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Tóm kết

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13973)
III. Tóm kết

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ

III. TÓM KẾT

Thiền tông nhắm thẳng tâm người, khiến người sống ngay thực tại sáng ngời luôn hiện hữu, không cho dừng trụ trên bất cứ hình htức chữ nghĩa nào. Đi qua và đi qua tất cả mọi ngôn ngữ lập bày, Thiền có một sức sống chân thật ngay chính mình. Bao nhiêu khuôn khổ khái niệm sẵn sàng bỏ lại đằng sau không nuối tiếc. Chính thế, thiền có những lời nói trái tai, ngược đời, những thủ thuật khai thị cho người thật táo bạo, vượt ngoài sức hiểu biết của tâm thức phân biệt thông thường. Do đó người mới đến với thiền cảm thấy dội ngược, đôi khi nghi ngờ vì thấy trái với cái khuôn mình được truyền dạy, học hiểu bấy lâu. Từ đó khiến có người trở lại chê bai, chỉ trích thiền. Song xét kỹ lại, không hiểu nổi rồi chê bai, chỉ trích thì đâu là chân lý? Trong khi đó, với Thiền sư thì nói một chữ “thiền” đã là dư rồi, vậy người sẽ bám vào đâu để chỉ trích? Nói cho cùng thì vẫn luẩn quẩn trong vòng văn tự, chữ nghĩa thôi. Trong nhà thiền thường nhắc “không vào hang cọp sao bắt được cọp con”, không để lọt hở có chỗ cho người dòm lén. Hòa thượng Đức Sơn bảo: “Này các ông! Khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội thiền, ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa, đi đái, ăn cơm, mặc áo, còn có việc gì ?” Như vậy, trong đây còn có chỗ nào để cất chứa chữ nghĩa, kiến thức hiểu biết? Lo bám vào lời Tổ, moi móc trong ngữ lục để hiểu, có dính dáng gì?
Nói thẳng, học thiền là học ý nghĩa sống, không phải học theo chữ nghĩa chết. Kìa, người người cứ lo tham cứu con mèo của Nam Tuyền, cây bách, chữ “không” của Triệu Châu, cái bánh của Vân Môn. Nhưng Nam Tuyền không có trong con mèo, cũng không có trong chiếc giày đội đầu của Triệu Châu, không ở trong cây bách trước sân, cũng không có trong chữ “không”, Vân Môn không có trong cái bánh. Mọi người muốn thấy Nam Tuyền, Triệu Châu, Vân Môn chăng? Chính ngay chỗ chẳng hiểu này, hãy xoay lại trong ấy, chớ tìm đâu khác.
Tóm lại, với ý chỉ “bất lập văn tự”, thiền đòi hỏi người học một sức chứng nghiệm chân thật, không lệ thuộc trên chữ nghĩa. Dù nghiên cứu, học hiểu hay giỏi đến đâu mà thiếu chứng nghiệm thì vẫn đứng ngoài cửa thiền. Do đó, người muốn thấu triệt bản thân thiền, quyết phải thực hành thiền, không thể chỉ y cứ trên hình thức phân tích lý luận mà có thể đến được. Nghĩa là, phải thực sự là một hành giả thiền chớ không thể là học giả. Đây là điều trọng yếu không thể bỏ qua đối với Phật đạo nói chung, thiền nói riêng.
Ý nghĩa này đi đôi với “giáo ngoại biệt truyền” ngầm đánh thức sức sống chân thật chính ở trong tự tâm của mỗi người. Cần phải từ trong đó mà sống dậy, mới cảm nghiệm được chỗ truyền trao của chư Phật, chư Tổ, đừng giam mình trong ngục tù của ngôn ngữ văn tự mà đánh mất đi cái sanh mạng tuyệt đối hằng có nơi mình. Có sống được với sanh mạng tuyệt đối này, từ đó chúng ta ứng dụng ra ngôn ngữ văn tự thì dùng nó mới đúng ý nghĩa, không lầm lẫn. Chính chỗ này thiền đòi hỏi hành giả phải minh tâm kiến tánh, tức sáng được tâm, tỏ được tánh. Và đây, để tóm tắt lại ý nghĩa trên bằng câu chuyện thiền giả ngồi thiền tại Tàng Kinh Lâu.
Tại Tàng Kinh Lâu, có một thiền giả ở trong đó nhưng chẳng xem kinh, đọc sách chi cả, trái lại mỗi ngày vị ấy chỉ ngồi thiền thôi. Vị Tạng chủ trông coi Tàng Kinh Lâu này bèn hỏi:
- Đại đức vì sao mỗi ngày chỉ ngồi thiền mà không xem kinh?
Thiền giả thản nhiên đáp:
- Vì tôi chẳng biết chữ?
Tạng chủ bảo:
- Vì sao chẳng thưa hỏi người?
Thiền giả hỏi:
- Phải thưa hỏi ai?
Tạng chủ nói tự nhiên:
- ông có thể thưa hỏi với tôi đi.
Thiền giả liền đứng dậy làm lễ rồi khoanh tay hỏi:
- Xin hỏi cái này là cái gì?
Tạng chủ bị một câu hỏi này chỉ biết ngậm miệng, mờ mịt không biết trả lời thế nào.
Ôi Tạng chủ trông coi cả một tạng kinh thì phải biết ông đã đầy một bụng chữ nghĩa không ít, nhưng bị một câu hỏi này, đành ngậm miệng không lời đáp được, vậy lúc đó bao nhiêu chữ nghĩa đang cất ở đâu? Hành giả cần nghiệm kỹ, chớ vội bỏ qua chỗ này!

 

CHÚ THÍCH:
(1) Dẫn kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ:
- Đại Huệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có ngôn thuyết. Ngôn thuyết là tạo tác vậy. Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc có cõi nước nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười hoặc ngáp hoặc tằng hắng, hoặc có cõi nước suy nghĩ, hoặc giao động. Đại Huệ! Như thế giới Chiêm Thị và Hương Tích, cõi nước Phổ Hiền, Như lai chỉ dùng nhìn xem khiến các Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn và các tam muội thù thắng. Thế nên, chẳng phải ngôn thuyết có tánh, có tất cả tánh. Đại Huệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn, trùng kiến, các chúng sanh ấy không có ngôn thuyết mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn trang 200)
(2) Hòa thượng Đả Địa nhận được ý chỉ nơi Mã Tổ, Sư thường ẩn danh. Mỗi khi có người tham học đến hỏi đạo, Sư chỉ lấy gậy đập xuống đất chỉ đó nên gọi là Hòa thượng Đả Địa. Một hôm bị vị tăng giấu cây gậy đi, sau đó hỏi Sư, Sư chỉ há miệng.
Có vị tăng hỏi môn nhân của Sư:
- Chỉ như Hòa thượng mỗi ngày có người hỏi liền đập đất, ý chỉ thế nào?
Môn nhân liền lấy một mảnh củi trong bếp ném vào trong nồi. (Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(3) Thản Nhiên đến hỏi Quốc sư Huệ An:
- Thế nào ý Tổ sư từ Tây sang?
Quốc sư đáp:
- Sao chẳng hỏi ý của chính mình?
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là ý của chính mình?
Quốc sư đáp:
- Nên xem tác dụng thầm kín.
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là tác dụng thầm kín?
Sư liền nhắm mắt, mở mắt chỉ đó.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(4) Nơi Sư ở.
(5) Sáng tỏ được giáo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22240)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15993)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15011)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18911)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14427)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18597)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14381)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13533)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11801)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13218)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13640)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13916)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16144)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11071)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16433)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11879)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17570)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13682)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12834)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14834)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16365)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13116)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12068)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12736)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12873)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12751)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14088)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16444)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12362)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14370)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11288)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11009)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13873)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13144)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12984)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13477)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12700)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10220)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13947)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10207)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13676)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16245)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11944)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12954)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11620)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10966)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10918)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11858)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12722)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11043)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11292)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant