Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Tóm kết

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13957)
III. Tóm kết

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ

III. TÓM KẾT

Thiền tông nhắm thẳng tâm người, khiến người sống ngay thực tại sáng ngời luôn hiện hữu, không cho dừng trụ trên bất cứ hình htức chữ nghĩa nào. Đi qua và đi qua tất cả mọi ngôn ngữ lập bày, Thiền có một sức sống chân thật ngay chính mình. Bao nhiêu khuôn khổ khái niệm sẵn sàng bỏ lại đằng sau không nuối tiếc. Chính thế, thiền có những lời nói trái tai, ngược đời, những thủ thuật khai thị cho người thật táo bạo, vượt ngoài sức hiểu biết của tâm thức phân biệt thông thường. Do đó người mới đến với thiền cảm thấy dội ngược, đôi khi nghi ngờ vì thấy trái với cái khuôn mình được truyền dạy, học hiểu bấy lâu. Từ đó khiến có người trở lại chê bai, chỉ trích thiền. Song xét kỹ lại, không hiểu nổi rồi chê bai, chỉ trích thì đâu là chân lý? Trong khi đó, với Thiền sư thì nói một chữ “thiền” đã là dư rồi, vậy người sẽ bám vào đâu để chỉ trích? Nói cho cùng thì vẫn luẩn quẩn trong vòng văn tự, chữ nghĩa thôi. Trong nhà thiền thường nhắc “không vào hang cọp sao bắt được cọp con”, không để lọt hở có chỗ cho người dòm lén. Hòa thượng Đức Sơn bảo: “Này các ông! Khoảng này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng hội thiền, ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều không hiểu, chỉ biết đi ỉa, đi đái, ăn cơm, mặc áo, còn có việc gì ?” Như vậy, trong đây còn có chỗ nào để cất chứa chữ nghĩa, kiến thức hiểu biết? Lo bám vào lời Tổ, moi móc trong ngữ lục để hiểu, có dính dáng gì?
Nói thẳng, học thiền là học ý nghĩa sống, không phải học theo chữ nghĩa chết. Kìa, người người cứ lo tham cứu con mèo của Nam Tuyền, cây bách, chữ “không” của Triệu Châu, cái bánh của Vân Môn. Nhưng Nam Tuyền không có trong con mèo, cũng không có trong chiếc giày đội đầu của Triệu Châu, không ở trong cây bách trước sân, cũng không có trong chữ “không”, Vân Môn không có trong cái bánh. Mọi người muốn thấy Nam Tuyền, Triệu Châu, Vân Môn chăng? Chính ngay chỗ chẳng hiểu này, hãy xoay lại trong ấy, chớ tìm đâu khác.
Tóm lại, với ý chỉ “bất lập văn tự”, thiền đòi hỏi người học một sức chứng nghiệm chân thật, không lệ thuộc trên chữ nghĩa. Dù nghiên cứu, học hiểu hay giỏi đến đâu mà thiếu chứng nghiệm thì vẫn đứng ngoài cửa thiền. Do đó, người muốn thấu triệt bản thân thiền, quyết phải thực hành thiền, không thể chỉ y cứ trên hình thức phân tích lý luận mà có thể đến được. Nghĩa là, phải thực sự là một hành giả thiền chớ không thể là học giả. Đây là điều trọng yếu không thể bỏ qua đối với Phật đạo nói chung, thiền nói riêng.
Ý nghĩa này đi đôi với “giáo ngoại biệt truyền” ngầm đánh thức sức sống chân thật chính ở trong tự tâm của mỗi người. Cần phải từ trong đó mà sống dậy, mới cảm nghiệm được chỗ truyền trao của chư Phật, chư Tổ, đừng giam mình trong ngục tù của ngôn ngữ văn tự mà đánh mất đi cái sanh mạng tuyệt đối hằng có nơi mình. Có sống được với sanh mạng tuyệt đối này, từ đó chúng ta ứng dụng ra ngôn ngữ văn tự thì dùng nó mới đúng ý nghĩa, không lầm lẫn. Chính chỗ này thiền đòi hỏi hành giả phải minh tâm kiến tánh, tức sáng được tâm, tỏ được tánh. Và đây, để tóm tắt lại ý nghĩa trên bằng câu chuyện thiền giả ngồi thiền tại Tàng Kinh Lâu.
Tại Tàng Kinh Lâu, có một thiền giả ở trong đó nhưng chẳng xem kinh, đọc sách chi cả, trái lại mỗi ngày vị ấy chỉ ngồi thiền thôi. Vị Tạng chủ trông coi Tàng Kinh Lâu này bèn hỏi:
- Đại đức vì sao mỗi ngày chỉ ngồi thiền mà không xem kinh?
Thiền giả thản nhiên đáp:
- Vì tôi chẳng biết chữ?
Tạng chủ bảo:
- Vì sao chẳng thưa hỏi người?
Thiền giả hỏi:
- Phải thưa hỏi ai?
Tạng chủ nói tự nhiên:
- ông có thể thưa hỏi với tôi đi.
Thiền giả liền đứng dậy làm lễ rồi khoanh tay hỏi:
- Xin hỏi cái này là cái gì?
Tạng chủ bị một câu hỏi này chỉ biết ngậm miệng, mờ mịt không biết trả lời thế nào.
Ôi Tạng chủ trông coi cả một tạng kinh thì phải biết ông đã đầy một bụng chữ nghĩa không ít, nhưng bị một câu hỏi này, đành ngậm miệng không lời đáp được, vậy lúc đó bao nhiêu chữ nghĩa đang cất ở đâu? Hành giả cần nghiệm kỹ, chớ vội bỏ qua chỗ này!

 

CHÚ THÍCH:
(1) Dẫn kinh Lăng Già, Phật bảo Bồ tát Đại Huệ:
- Đại Huệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có ngôn thuyết. Ngôn thuyết là tạo tác vậy. Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển bày pháp, hoặc có cõi Phật làm ra hình tướng, hoặc có cõi nước nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười hoặc ngáp hoặc tằng hắng, hoặc có cõi nước suy nghĩ, hoặc giao động. Đại Huệ! Như thế giới Chiêm Thị và Hương Tích, cõi nước Phổ Hiền, Như lai chỉ dùng nhìn xem khiến các Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn và các tam muội thù thắng. Thế nên, chẳng phải ngôn thuyết có tánh, có tất cả tánh. Đại Huệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn, trùng kiến, các chúng sanh ấy không có ngôn thuyết mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn trang 200)
(2) Hòa thượng Đả Địa nhận được ý chỉ nơi Mã Tổ, Sư thường ẩn danh. Mỗi khi có người tham học đến hỏi đạo, Sư chỉ lấy gậy đập xuống đất chỉ đó nên gọi là Hòa thượng Đả Địa. Một hôm bị vị tăng giấu cây gậy đi, sau đó hỏi Sư, Sư chỉ há miệng.
Có vị tăng hỏi môn nhân của Sư:
- Chỉ như Hòa thượng mỗi ngày có người hỏi liền đập đất, ý chỉ thế nào?
Môn nhân liền lấy một mảnh củi trong bếp ném vào trong nồi. (Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(3) Thản Nhiên đến hỏi Quốc sư Huệ An:
- Thế nào ý Tổ sư từ Tây sang?
Quốc sư đáp:
- Sao chẳng hỏi ý của chính mình?
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là ý của chính mình?
Quốc sư đáp:
- Nên xem tác dụng thầm kín.
Thản Nhiên hỏi:
- Thế nào là tác dụng thầm kín?
Sư liền nhắm mắt, mở mắt chỉ đó.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(4) Nơi Sư ở.
(5) Sáng tỏ được giáo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12474)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14065)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10821)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10489)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11149)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11962)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13092)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13595)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33606)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11307)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12875)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13013)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11584)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17843)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11381)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11792)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11454)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18929)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12502)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11280)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13108)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15715)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11786)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11659)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12714)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12595)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13914)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12939)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12890)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13256)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12728)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12287)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12344)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19789)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16841)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12646)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15013)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16061)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12838)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12188)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11882)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11898)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16476)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13200)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12441)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11777)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11121)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11223)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10371)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11056)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9998)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11711)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant