Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Từ kinh đến thiền

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13003)
II. Từ kinh đến thiền

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

MỘT CÁI BIẾT SUỐT CẢ XƯA NAY 

II. TỪ KINH ĐẾN THIỀN
Để cho người học thấy rõ hơn, lẽ thật này xưa nay một mạch thông suốt không hai, chúng ta đi qua từ kinh đến thiền xem nào!

* KINH TƯƠNG ƯNG: Trong bài kinh "Pháp Môn Nào", Phật bảo các Tỳ- kheo: “Ở đây, này các Tỳ- kheo! Tỳ- kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâmtham sân si, Biết rõ ‘nội tâm ta có tham sân si’, hoặc nội tâm không có tham sân si, biết rõ "nội tâm ta không có tham sân si". Này các Tỳ kheo! Khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham sân si… Biết có tham sân si.., nội tâm không có tham sân si, Biết không có tham sân si. Này các Tỳ kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết hay do kham nhẫn được hiểu biết, hay do thích thú biện luận được hiểu biết ?

- Thưa không, bạch Thế Tôn!
- Có phải các pháp này, do thấy chúng với Trí tuệ nên được hiểu biết?

- Thưa phải, bạch Thế Tôn!

- Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy.

Cuối cùng Phật xác định: “Đây chính là pháp môn, này các Tỳ-kheo, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí, vị ấy biết rõ sanh tử đã tận, việc làm đã xong… không còn sanh trở lại đời nào khác nữa.”

Trong đây Phật đã xác định rõ: Cái Biết nơi nội tâmtham sân si, không tham sân si khi sáu căn đối tiếp sáu trần, cái biết đó, là chỗ xác chứng với chánh trí, nghĩa là có thể chứng nghiệm trong chánh trí chớ không phải là điều nói suông. Cái Biết đó biết suốt đến tận ngày nay, có niệm Biết có niệm, không niệm Biết không niệm, có gì cách biệt? Đâu phải cố định dùng chữ “tham sân si” mới được?

* KINH THANH TỊNH, TRƯỜNG A HÀM Phật bảo: “Pháp ta tự chứng chỉ người trí mới BIẾT”. Vậy Phật có bác bỏ cái Biết chăng? Chỉ là chỗ đó người trí mới Biết thôi, tức là cái Biết vượt ngoài chỗ biết của thức tình sanh diệt, chớ đâu phải thành đạo rồi vô tri như cây đá không biết gì! Mà điều này, ai không có? Nó vốn nằm trong suy tư, lý luận, không ở trong bộ kinh này, bộ kinh nọ; trái lại nó ở chính ngay tự tâm người thì tại sao chúng ta lại chối bỏ nó?

* KINH KIM CANG: Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Có những chúng sanh ở trong vô lượng vô số cõi nước như số cát sông Hằng, những chúng sanh ấy có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết hết. Vì sao? Như Lai nói các tâm là chẳng phải tâm, đó gọi là tâm. Bởi cớ sao? Vì tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lại chẳng thể được.

Vậy thì Như Lai có Biết chăng? Chẳng những Ngài Biết rõ và Biết nhiều hơn chúng ta nữa kìa, nhưng đặc biệt là Ngài không ở trong cái bị biết như chúng ta đang sống. Chúng ta nếu biết tất cả nhưng ở trong Như Lai mà biết, thì gặp Phật Biết liền. Bởi chúng sanh dù có bao nhiêu thứ tâm đi nữa, Như Lai đều biết rõ tâm đó là chẳng phải tâm. Tại sao chẳng phải tâm? Vì những tâm đó đều thuộc tâm ba thời, hoặc tâm quá khứ hoặc tâm hiện tại, hoặc tâm vị lai, mà tâm ba thời đều không thể được, tức không thật có, là tâm sanh diệt, do đó đâu thể qua mắt Như Lai.

Rồi hỏi Phật có đủ năm mắt là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn chăng? Tu Bồ Đề đáp có đủ hết. Không những Phật có đủ mắt Phật, mắt pháp, cũng có đủ luôn mắt thịt không chối bỏ. Song với mắt thịt của Phật, Phật thấy tất cả vật như chúng ta mà không lầm theo vật, thấy suốt qua mọi vật không bị che mờ chánh giác, đó là THẤY BIẾT CỦA PHẬT. Nếu chúng ta ngay cái thấy biết này, thấy biết tất cả không lầm mê tức cùng Phật gặp nhau, đâu phải tìm thấy biết nào khác nữa. Cốt là đúng như nghĩa NHƯ mà Thấy Biết thì không có gì lầm qua mắt được. Trái nghĩa NHƯ mà biết, đó là cái biết của phàm phu sanh tử.

Chẳng hạn, ngay đây chúng ta vừa động niệm lên thì trong đó cái gì Biết liền? Mới vừa động niệm thì chưa có cái thứ ba chen vào, không phải chính đó là Như Lai biết sao ? Tại sao mình lại chối bỏ nó, rồi đi nhận bao nhiêu cái biết kia là cái bị biết ? Cho đến đi chỉ trích người này, đi phê bình người nọ, đó là cái Biết gì ? Chính là cái tâm bị biết, là cái biết sanh tử, nhận cái biết này mà tự thích thú là nhận đi trong sanh tử luân hồi không có ngày ra. Đây là điểm không thể lầm lẫn !

* KINH DUY MA . Trong phẩm Phật Quốc, có hai câu kệ:

 Năng thiện phân biệt chư pháp tướng
Ư đệ nhất nghĩa ư bất động.

Nghĩa:

 Hay khéo phân biệt tướng các pháp
Nơi nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động.

Như vậy là có biết chăng? Đây bảo, phân biệt rõ hết tất cả mọi pháp không sót cái gì thì đâu chối bỏ cái Biết ? Chỉ là, tuy Biết hết tất cả nhưng không rời nghĩa đệ nhất, tức không rời thể chân thật thường trụ, đó là điểm quan trọng! Nghĩa là, không phủ nhận cái Biết, không bác bỏ phân biệt, song phải phân biệt mà không lệ thuộc theo duyên, không dừng trên cảnh bị phân biệt. Phân biệt như thế thì phân biệt tất cả cảnh duyên mà không rời tự tánh chính nó, do đó phân biệt mà đâu từng mê, đâu theo sanh diệt, làm sao bác bỏ nó ? Thiền sư Huyền Giác bảo: “Phân biệt mà không phải Ý.” Quan trọng là không có "Ý" xen vào. Song có người sẽ thắc mắc hỏi: “Không có ý thì làm sao biết phân biệt ?” Đây là hỏi theo tình mê, cứ nghĩ rằng phải có ý thì mới biết phân biệt, không có ý thì lấy gì, nương vào đâu mà phân biệt được? Đó là bám chặt theo cái phân biệt thuộc sanh diệt, có ý thì có phân biệt, không ý thì không phân biệt. Hơn nữa, có "Ý" là có "TA" rồi, nên phân biệt cũng méo mó theo TA. Còn trong đây, là tự thể vốn đủ tánh phân biệt không nhờ cái gì khác, nên cái gì thoáng qua là biết ngay, đâu cần thêm ý. Thêm "Ý"thêm cái "TA" vào, đó là chỗ bị quở trách !

Tăng hỏi Thiền sư Hoài NhượngNam Nhạc:

- Như gương đúc thành tượng, sau khi thành tượng, chẳng biết ánh sáng đi về đâu?
Sư đáp:
- Như ông hiện giời, tướng mạo lúc còn bé ở đâu?
Tăng hỏi:
- Chỉ như sau khi tượng thành vì sao chẳng chiếu soi?
Sư đáp:
- Tuy nhiên chẳng chiếu soi, mà dối y một điểm cũng không được.

Gương chưa đúc thành tượng là còn trong dụng công chiếu soi phân biệt mà biết.

Gương sau khi đúc thành tượng là quên công phu, bặt chiếu soi phân biệt, nhưng đâu phải không biết gì. Người cứ sợ hết chiếu soi phân biệt thì không còn biết, nên hỏi: "Ánh sáng đi về đâu?" Không ngờ, tướng mạo lúc bé tuy hiện giờ không thấy, nhưng đi đứng tới lui đó là gì? Có biết chăng? Tại sao cứ lại bám vào tướng mạo cũ đó mới chịu? Bởi cái Biết do có chiếu soi mà có, khi không chiếu soi liền không có. Đó là cái biết sanh diệt, còn trong dụng công, chưa phải THẬT BIẾT, THẬT TRÍ. Cái thật Biết của Thật Trí dù có chiếu soi hay không chiếu soi vẫn biết không mất, không hạn cuộc chỗ nơi. Đây là TOÀN THỂ HẰNG BIẾT nên đụng đến đâu cũng rõ ràng, vốn hằng như vậy thì có cái gì thoáng qua mà dối gạt được nó? Đến đây mới chính là chân tâm hiện tiền. Chỗ này đem cái Biết của phàm phuphê bình được sao?

Thiền sư Bị ở Huyền Sa, một hôm có vị tăng đang đứng hầu, Sư lấy cậy gậy chỉ chấm trắng trên nền đất ở trước mặt hỏi:
- Có thấy chăng?
Tăng thưa:
- Dạ thấy.
Sư hỏi lại:
- Có thấy chăng?
Tăng đáp:
- Dạ thấy.
nhấn mạnh lại lần nữa:
- Có thấy chăng?
Tăng thưa:
- Dạ thấy.
Sư liền bảo:
- Ông cũng thấy, ta cũng thấy, vì sao nói chẳng lãnh hội?

Hãy nghe kỹ: “Ông cũng thấy, ta cũng thấy, vì sao nói chẳng lãnh hội?” Ai thấy được điểm cách biệt này? Thấy được chỗ này thì hết tranh cãi. Thiền sư Bị cũng thấy điểm trắng, sao Sư sáng tỏ không mê. Ông tăng cũng thấy điểm trắng, sao lại tối tăm không sáng? Chỉ tại ông thấy chấm trắng liền trụ ngay chấm trắng, chỉ biết có chấm trắng. Còn Sư thấy chấm trắng vẫn không rời tự tánh thấy! Một chút xíu đó thôi mà cách biệt hằng sa kiếp số tới giờ vẫn chưa sáng tỏ! Rõ chỗ này thì vượt hằng sa kiếp trong chớp mắt! Chỗ này ngôn ngữ muôn đời không bao giờ tới được, làm sao bài bác nó!

* KINH LĂNG NGHIÊM:Trong kinh Phật từng chỉ rõ:
 Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn.

Nghĩa là:
 Thấy biết mà lập thêm thấy biết tức là gốc vô minh
Thấy biết mà không có thêm thấy biết đấy là Niết bàn.

Vậy Niết bàn có biết hay không? Đây nói rõ: Thấy biết mà không có lập thêm cái thấy biết nữa thôi, không phải bảo hoàn toàn không biết. Vậy tại sao chúng ta bài bác thấy biết, chúng ta hơn Phật, Tổ sao? Hay chính chỗ thấy của chúng ta còn chưa theo kịp Phật, Tổ? Đây là điểm cần tự xét lại!

Một đoạn khác trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo A Nanđại chúng:

Những người tu hành chẳng thể thành tựu Vô thượng Bồ đề cho đến riêng thành Thanh văn, Duyên giácquyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?

1. CĂN BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY : Tức chính ông hiện nay và các chúng sanh dùng TÂM PHAM DUYÊN làm tự tánh.
2. THỂ BỒ ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SA74N CÓ TỪ VÔ THỦY: Tức chính ông hiện nay, cái "thức thể tự sáng ngời" (thức tinh nguyên minh) nó hay sanh các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái "sáng suốt sẵn có" này nên tuy trọn ngày tu hành mà chẳng tự giác, uổng đi vào các thú.”

Ai thấy cái đau đớn của chúng ta chưa? Chỉ lo nhận cái "tâm phan duyên" làm tự tánh nên đi lang thang mãi trong vòng luân hồi không biết đâu là cùng! Trong khi đó, thể Bồ đề Niết bàn thanh tịnh sẵn có tự bao giờ vẫn ở ngay đấy lại bỏ quên. Sao quá phủ phàng!

Đây Phật chỉ rõ: Cái thức tinh nguyên minh tức "cái thức thể sẵn tự sáng ngời", nó hay sanh các duyên, rồi bị các duyên bỏ sót nó đi. Do chúng ta bỏ sót cái "sáng suốt sẵn" có này cho nên dù trọn ngày tu hành khổ nhọc mà chẳng tự giác được, đành chịu trôi lăn trong các thú một cách đáng thương!

Điểm quan trọng là: cái thức thể sẵn tự sáng ngời, nó hay sanh các duyên, là sanh như thế nào? Và nó bị các duyên bỏ sót nó, là bỏ sót thế nào? Trước nhất phải hiểu cái "Thức thể sẵn có tự sáng ngời" là cái gì? Đứng mắc kẹt trong chữ nghĩa! Tức cái THỂ BIẾT SỜ SỜ chúng ta đang sống trong nó đây. Nó biết khắp tất cả các duyên, các cảnh, đó gọi là sanh! Nghĩa là nó biết cái nào liền có cái đó hiện. Nhưng chính khi nó biết các duyên rồi, lại chỉ nhớ các duyên thôi, đồng hóa với các duyên, quên mất chính nó, đó là bỏ sót chứ gì! Chính chỗ này là nguồn gốc đi vào luân hồi, lang thang trong sáu nẻo. Trọn ngày tu hành mà mà chỉ NHỚ cái Biết theo duyên, theo cảnh, lấy đó làm gốc tu hành, THẤY BIẾT "mất mình trong duyên" nên đi mãi trong sanh tử, không ra khỏi, có lạ gì! Bởi sống bằng TÂM PHAN DUYÊN nên luôn luôn đuổi theo cảnh, cảnh này qua rồi lại suy tìm cảnh khác để duyên, để biết, vì sợ rằng không có cảnh thì không biết? ĐemBiết đi tìm Biết, trách gì không bị Phật quở là MÊ.

Chính bám vào cái THẤY BIẾT này nên thấy “có biết,không biết”, có duyên thì biết, không duyên thì không biết. Sự thật, THỂ BIẾT vẫn thường hằng chưa từng vắng mặt bao giờ. Nói có biết, không biết là do có đối tượng hay không có đối tượng, hoặc có duyên hay không có duyên vậy thôi, đâu thể lầm lẫn với cái THỂ BIẾT này! Cho nên ngay đây chúng ta chỉ cần: BIẾTTẤT CẢ CẢNH DUYÊN MÀ KHÔNG QUÊN là xong, là nó vẫn hằng có mặt rõ ràng đó thôi, dù ai có bài bác, có đả phá cách gì cũng không dính dáng.

Hòa thượng Cảnh Thanh một hôm hỏi vị tăng:
- Ngoài cửa có tiếng gì?
Tăng thưa:
- Tiếng mưa rơi.
Sư bảo:
- Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật.
Tăng thưa:
- Hòa thượng thì sao?
Sư bảo:
- Vẫn chẳng quên mình
Tăng thưa:
- Vẫn chẳng quên mình, ý nghĩa đó thế nào?
Sư bảo:
- Xuất thân còn là dễ, thoát thể nói rất khó.

Hỏi: Tiếng gì ngoài cửa? Theo đó mà đáp, quên mất chính mình đang đối diện đây, là MÊ, là điên đảo. Trái lại, vẫn nghe tiếng mưa rơi, vẫn biết rõ ràng từng tiếng mưa rơi rành rẽ mà không đồng hóa với tiếng mưa, không bỏ sót chính mình, thì ông chủ vẫn có mặt sáng ngời đó, có lầm lỗi gì? Tuy nhiên “xuất thân còn là dễ”, tức thấu qua chỗ đó còn tạm nói được, tạm chỉ bày được, nhưng “thoát thể nói rất khó”, nghĩa là thể nhập trong đó thì không còn là chỗ có thể nói đến, bàn đến được, chỉ phải thực sự chứng nghiệm qua thôi. Vậy thì làm sao thức tình dò đến nỗi mà gọi là thức? Chỗ này không thể hời hợt bỏ qua!

* KINH PHÁP HOA. Trong phẩm Phương Tiện, Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Đức Phật Thế Tôn chỉ do một đại sự nhân duyênhiện ra nơi đời. Đại sự nhân duyên đó là gì? Tức vì muốn cho chúng sanh kHAI TRI KIẾN PHẬT để được thanh tịnhhiện ra đời; Vì muốn CHỈ Tri Kiến Phật cho chúng sanhhiện ra đời; Vì muốn cho chúng sanh tỏ NGỘ Tri Kiến Phậthiện ra đời; Vì muốn cho chúng sanh CHỨNG VÀO đạo Tri Kiến Phậthiện ra đời.”

Trong đây Phật thổ lộ bản hoài của chư Phật hiện ra đời, chỉ vì một việc KHAI THỊ cho chúng sanh NGỘ NHẬP Tri Kiến Phật thôi, ngoài ra thì tất cả đều là phương tiện. Nhưng Tri Kiến Phật là gì? Tức cái THẤY BIẾT GIÁC NGỘ. Song cái THẤY BIẾT GIÁC NGỘ đó ở đâu mà khai thị? Chính ngay sáu căn này chớ không đâu khác. Ngay đây mà thấy biết theo duyên để chịu sanh diệt là cái thấy biết chúng sanh, thấy biết MÊ. Ngay đây mà THẤY BIẾT lìa duyên, không theo sanh diệt, là cái THẤY BIẾT PHẬT, THẤY BIẾT GIÁC, không ngoài cái thấy biết này riêng có cái gì khác, không bỏ đây tìm kia, đó mới là cái "thấy biết chân chánh" vượt ngoài đối đãi.

Đây nhắc lại vị tăng hỏi Thiền sư Tiểu Nham:
- Trong kinh nói: “Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên.” Xin hỏi Hòa thượng thế nào là đại sự nhân duyên?
Sư đáp:
- Ăn cơm, mặc áo, đi ỉa, đi đái.
Vị tăng không chấp nhận, chẳng thèm lễ bái, liền đi ra. Sư gọi lại, nói bài kệ:

 Chư Phật ư xuất thế
Duy vị đại nhân duyên
A thỉ tịnh phóng hiệu
Cơ xan khốn đả miên
Mục tiền khẩn cấp sự
Nhân chỉ dục thướng thiên
Đàm huyền cộng thuyết diệu
Tạo tội phục thâu tiền.

Nghĩa:

 Chư Phật hiện ra đời
Chỉ vì nhân duyên lớn
Đi ỉa cùng đi đái
Đói ăn mệt ngủ khò
Trước mắt việc gấp rút
Người chỉ muốn lên trời
Bàn huyền cùng nói diệu
Mắc tội lại thua tiền.

Ông tăng thiết tha hỏi "nhân duyên việc lớn", ông cứ tưởng đó là một cái gì thật phi thường cao xa, vượt ngoài cõi đời này. Kkhông ngờ Thiền sư đáp một cách bình thường, hết sức bình thường: "ăn cơm, mặc áo, đi ỉa, đi đái", thì làm sao chấp nhận được ? Bởi nó không đúng với chỗ tưởng tượng của mình. Đâu biết, lẽ thật vốn sờ sờ nơi mình, rất đơn giản gần gũi với mình, nhưng vì chúng ta chấp nhận theo danh từ khởi tưởng nên thành xa. Bởi vậy, Thiền sư Tiểu Nam nói kệ đánh thức ông tăng trở lại. Chính chỗ ông sống hằng ngày đây, chỗ ông ăn cơm, mặc áo, đi iả, đi đái đó, là chỗ gấp rút cần thức tỉnh. Trái lại ông không chịu tỉnh, còn muốn đòi hỏi xa xôi, muốn lên trời để bàn huyền bàn diệu, nói lý cao siêu thì quả là TRƯỚC MẮT LẦM QUA trước mắt lầm qua, chỉ uổng mất công phu khổ nhọc thôi. Cũng may ông tăng còn biết hổ thẹn, nếu không, chẳng biết tâm kiêu mạn đó sẽ dẫn ông đi đến đâu?

Như vậy, đại sự nhân duyên đó ở đâu? Tức ngầm chỉ: ngay cái BIẾT HIỆN TIỀN đây thôi, khéo nhận thì đầy đủ hết !

Cũng trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật bảo: “Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không có sai lầm.”

Sao là chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi? Tức Như Lai thấy suốt tất cả không thiếu sót nhưng thấy tất cả mà không là gì hết nên ngài thấy suốt không có sai lầm. Trái lại, chúng ta thấy cái gì thì "là cái đó" ngay, tức liền đồng hóa với cái đó, nên chỉ biết có cái đó mà quên mất chính mình, do đó luôn mê lầm. Giờ đây chúng ta chỉ cần ngay thấy biết này, thấy tất cả mà không là gì hết thì thấy chỉ là thấy, nguyên vẹn như nó là nó, chính đó là Như Lai thấy rồi! Ngay đó liền gặp NHƯ LAI! Phật xuất hiện ra đời liền đó! Khỏi lo nghĩ thắc mắc về biết - chẳng Biết.

Xưa, các bậc A la hán khi chứng đạo đều bảo: “Tự biết, tự ngộ, tự thân tác chứng, thành tựu an trú, biết đúng như thật: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.” Trong các kinh A Hàm, Nikaya, đều xác định rõ điều này. Vậy rốt ráo các ngài có rời Tánh Biết chăng? Các Ngài đã xác nhận rõ: “Tự biết, tự ngộ, tự thân tác chứng” thì rõ ràng đâu phải vô tri như cây đá. Thế nhưng, tại sao ngày nay chúng ta lại có chê trách cái Biết? Vậy là lỗi tại cái Biết? Hay lỗi tại ai? Đây là điểm cần thấu rõ!

Chính bởi chúng ta còn mang cái thấy sai biệt, nên mới phân chia cái Biết này là cái Biết vọng, cái Biết kia là cái Biết chân, cái Biết này là cái Biết thức, cái Biết kia là cái Biết trí v.v… song sự thật ngoài cái Biết Thức lại có thêm cái Biết Trí nữa sao? Đó là thêm một cái Ta nữa rồi!

Thấy như vậy là còn niệm lấy bỏ hai bên, còn sống trong cái thấy kia đây, tức thành dời đổi (biến dịch) rồi, sao gọi là thiền? Sao gọi là thấy đạo?

Chúng ta hãy nghe vị tăng hỏi Quốc sư Huệ Trung:
- Thiền là tên khác của tâm, mà tâm là chơn như Phật tánh ở Phật chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, các Tổ sư Thiền tông đem tâm đổi tên là tánh, xin hỏi thầy tâm và tánh khác nhau thế nào?
Quốc sư Huệ Trung đáp ngay:
- Khi mê thì có sai khác, khi ngộ thì không sai khác.
Vị tăng hỏi thêm:
- Trong kinh nói: “Phật tánh là thường, tâm là vô thường”, vì sao thầy nói không sai khác ư?
Sư nêu thí dụ giải rõ:
- Ông chỉ y cứ theo lời mà chẳng y theo nghĩa. Ví như khi lạnh thì kết nước thành băng, khi nóng thì chảy băng thành nước; khi mê thì kết tánh thành tâm, khi ngộ thì chảy tâm thành tánh. Tâm tánh vốn đồng, y nơi mê ngộ mà có sai khác.

Vị tăng ngay đó liền khế hội.

Cho thấy, còn mê thì kẹt theo lời, theo chữ sanh hiểu nên chia thành sai biệt. Do thấy sai biệt nên làm nghi cho mình và cho người. Nếu tỏ ngộ chân thật, một tâm còn không thể nói, huống nữa chia hai!
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Châu sáng ở trong tay, có chiếu soi hay không?
Sư đáp:
- Gọi cái gì là châu?
Thiền sư không lý luận nhiều, cũng không phí công tranh cãi. Nếu hạt châu đã thực ở trong tay mình, tại sao mình không biết, còn đi hỏi có chiếu soi hay không? Có chiếu soi là có biết, không chiếu soi là không biết. Lo hỏi chiếu soi mà không biết đâu là châu, cũng là hý luận thôi. Cần nhất rõ được "châu" thì việc có chiếu soi hay không tự rõ, khỏi lý luận, tranh cãi vô ích.

Cũng vậy, cứ lo bàn thức, bàn trí, bàn tâm, bàn tánh, còn "cái gì đang bàn đây", lại mê! Thử hỏi đó là đang bàn trên cái gì? Người mắt sáng cần hỏi lại nữa chăng?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11612)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12052)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17963)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9933)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15322)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12075)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12386)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12065)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13143)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14773)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12637)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16525)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19623)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13093)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12643)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12229)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11817)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10877)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13470)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11925)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11826)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11618)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14492)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15649)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13596)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12874)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9849)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11145)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9053)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13030)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10283)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12172)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15283)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16577)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11447)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14250)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19657)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24567)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10666)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant